Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã
được hơn một thập kỷ. Đó là một quãng thời gian tuy chưa dài nhưng nền kinh tế nước ta
đã thật sự khởi sắc, thu được nhiều thành tựu đáng kể trên nhiều lĩnh vực. Tất cả các
ngành nghề, lĩnh vực kinh tế trong nước đang nỗ lực, chuẩn bị sẵn sàng cho quá trình hội
nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Quá trình hội nhập tạo ra cho các doanh nghiệp
nhiều cơ hội mới, đồng thời cả những thách thức mới. Các doanh nghiệp nước ta hiện nay
đang hoạt động trong một môi trường kinh doanh đầy biến động. Các nhà kinh doanh
đang phải đối mặt với nhu cầu tiêu dùng trên thị trường thường xuyên biến đổi và mức độ
cạnh tranh gay gắt. Vậy con đường nào để giúp các doanh nghiệp nước ta tồn tại và phát
triển được trong cơ chế thị trường nghiệt ngã như hiện nay. Cách duy nhất là các doanh
nghiệp phải thích ứng với thị trường, điều hành được hoạt động của doanh nghiệp theo
định hướng thị trường thật sự.
Ngành Dược Việt Nam hiện nay cũng nằm trong bối cảnh kinh tế trên. Từ đầu
những năm 90 đến nay, ngành Dược đã có nhiều chuyển biến to lớn. Từ chỗ khan hiếm
thuốc, thiếu thuốc chúng ta đã cung ứng đủ thuốc, đáp ứng nhu cầu điều trị của nhân dân.
Ngành Dược đã có mạng lưới kinh doanh rộng khắp trên toàn quốc cùng với sự tham gia
của đa dạng các thành phần kinh tế: công ty dược quốc doanh, công ty dược nhà nước cổ
phần hoá, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty dược phẩm liên doanh, các hộ tư nhân,
các công ty dược nước ngoài…Tính đến thời điểm hiện nay, ở nước ta có khoảng 350
công ty hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực dược phẩm khiến cho thị trường
Dược Việt Nam sôi động, phong phú nhưng cạnh tranh cũng rất quyết liệt. Điều đó đòi
hỏi các doanh nghiệp Dược muốn tồn tại và phát triển phải thích ứng nhanh với môi
trường kinh doanh, nắm bắt cơ hội thị trường, định hướng và vận dụng các chiến lược
marketing sáng tạo và linh hoạt.
86 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2993 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích, đánh giá quá trình quản lý hoạt động marketing của Công ty Cổ Phần Dược Phẩm Nam Hà giai đoạn 2000-2004, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phân tích, đánh giá quá trình quản lý hoạt
động marketing của Công ty Cổ Phần Dược
Phẩm Nam Hà giai đoạn 2000-2004
đặt vấn đề
Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã
được hơn một thập kỷ. Đó là một quãng thời gian tuy chưa dài nhưng nền kinh tế nước ta
đã thật sự khởi sắc, thu được nhiều thành tựu đáng kể trên nhiều lĩnh vực. Tất cả các
ngành nghề, lĩnh vực kinh tế trong nước đang nỗ lực, chuẩn bị sẵn sàng cho quá trình hội
nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Quá trình hội nhập tạo ra cho các doanh nghiệp
nhiều cơ hội mới, đồng thời cả những thách thức mới. Các doanh nghiệp nước ta hiện nay
đang hoạt động trong một môi trường kinh doanh đầy biến động. Các nhà kinh doanh
đang phải đối mặt với nhu cầu tiêu dùng trên thị trường thường xuyên biến đổi và mức độ
cạnh tranh gay gắt. Vậy con đường nào để giúp các doanh nghiệp nước ta tồn tại và phát
triển được trong cơ chế thị trường nghiệt ngã như hiện nay. Cách duy nhất là các doanh
nghiệp phải thích ứng với thị trường, điều hành được hoạt động của doanh nghiệp theo
định hướng thị trường thật sự.
Ngành Dược Việt Nam hiện nay cũng nằm trong bối cảnh kinh tế trên. Từ đầu
những năm 90 đến nay, ngành Dược đã có nhiều chuyển biến to lớn. Từ chỗ khan hiếm
thuốc, thiếu thuốc chúng ta đã cung ứng đủ thuốc, đáp ứng nhu cầu điều trị của nhân dân.
Ngành Dược đã có mạng lưới kinh doanh rộng khắp trên toàn quốc cùng với sự tham gia
của đa dạng các thành phần kinh tế: công ty dược quốc doanh, công ty dược nhà nước cổ
phần hoá, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty dược phẩm liên doanh, các hộ tư nhân,
các công ty dược nước ngoài…Tính đến thời điểm hiện nay, ở nước ta có khoảng 350
công ty hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực dược phẩm khiến cho thị trường
Dược Việt Nam sôi động, phong phú nhưng cạnh tranh cũng rất quyết liệt. Điều đó đòi
hỏi các doanh nghiệp Dược muốn tồn tại và phát triển phải thích ứng nhanh với môi
trường kinh doanh, nắm bắt cơ hội thị trường, định hướng và vận dụng các chiến lược
marketing sáng tạo và linh hoạt.
ở các nước phát triển, việc tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh theo quan
điểm marketing đã được nghiên cứu và vận dụng một cách phổ biến và rộng rãi. Tuy
nhiên, ở Việt Nam, các khái niệm này còn tương đối mới mẻ cả về lý luận và áp dụng
trong thực tiễn. Để góp phần tìm hiểu thực tế và đánh giá khả năng quản lý hoạt động
marketing của doanh nghiệp Dược Việt Nam, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “
Phân tích, đánh giá quá trình quản lý hoạt động marketing của Công ty Cổ Phần
Dược Phẩm Nam Hà giai đoạn 2000-2004 ” với các mục tiêu sau:
1. Phân tích, đánh giá nguồn lực của Công ty Cổ Phần Dược Phẩm Nam Hà giai
đoạn 2000-2004.
2. Phân tích các hoạt động quản lý marketing của Công ty Cổ Phần Dược Phẩm
Nam Hà giai đoạn 2000-2004.
3. Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
hoạt động marketing của Công ty.
Phần 1. tổng quan
1.1. Tổng quan về quản lý
1.1.1. Khái niệm
Lý luận quản lý một cách khoa học đã ra đời ở Mỹ vào đầu thế kỷ XX, và người
được mệnh danh là cha đẻ của lý luận này là Frederick Winslow Taylor. Từ đó trở đi các
công trình nghiên cứu, tổng kết về quản lý không ngừng xuất hiện. Hàng loạt vấn đề của
quản lý được phát hiện, phân tích và hệ thống hoá, khoa học hoá. Lý luận về quản lý hình
thành và soi sáng cho thực tiễn để rồi lại phát triển nhanh hơn trên cơ sở tổng kết thực
tiễn phong phú và sống động [29].
Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý nhưng giữa các cách hiểu này vẫn có
những điểm chung nhất. Đứng trên quan điểm chung đó có thể hiểu:
Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt
mục tiêu đã vạch ra trong những điều kiện biến động của môi trường [1], [10].
Như vậy:
- Quản lý là một quá trình, trong đó có sự tham gia của chủ thể quản lý và đối
tượng quản lý.
- Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động quản lý và đối tượng quản lý phải
tiếp nhận các tác động của chủ thể quản lý tạo ra.
- Quản lý gắn chặt với thông tin.
Các đặc điểm này được thể hiện ở sơ đồ sau:
Chủ
thể
quản
Đối
tượng
quản
Mục
tiêu
Khách
thể
quản lý
Hình 1.1. Sơ đồ logic của khái
1.1.2. Vai trò quản lý
Quản lý cần thiết đối với mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội, từ mỗi đơn vị sản
xuất-kinh doanh đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân; từ mỗi gia đình, một đơn vị dân cư
đến một đất nước và những hoạt động trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Có thể nhận
thức được vai trò rất to lớn của quản lý như sau:
- Quản lý giúp các tổ chức và thành viên của nó thấy rõ mục tiêu và hướng đi của
mình. Quản lý sẽ phối hợp thị trường tất cả các nguồn lực của tổ chức thành một chỉnh
thể, tạo nên tính trồi để thực hiện mục đích của tổ chức với hiệu quả cao.
- Quản lý giúp các tổ chức thích nghi được với môi trường, nắm bắt tốt hơn các cơ
hội, tận dụng hết các cơ hội và giảm bớt các yếu tố nguy cơ [10].
Ngành Dược, với chức năng chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân thì vấn đề
quản lý phải được đặt lên hàng đầu.
1.1.3. Chức năng của quản lý
Để quản lý, chủ thể quản lý phải thực hiện nhiều loại công việc khác nhau. Những
loại công việc quản lý này gọi là chức năng quản lý. Có nhiều ý kiến khác nhau về sự
phân chia các chức năng quản lý. Vào những năm 1930, Gulick và Urwich đã nêu 7 chức
năng quản lý trong từ viết tắt POSDCORB: P: Planning- lập kế hoạch, O: Organising- tổ
chức, S: Staffing- quản lý nhân lực, D: Directing- chỉ huy, CO: Coordinating- phối hợp,
R: Reviewing- kiểm tra, B: Budgeting- tài chính. Henri Fayol nêu 5 chức năng: lập kế
hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra [10].
Theo Koontt, quản lý có 4 chức năng chủ yếu sau:
+ Chức năng hoạch định (mục tiêu, ra quyết định, chiến lược và chính sách…)
+ Chức năng tổ chức (phân chia tổ chức, các mối quan hệ tổ chức, sự phân chia quyền
hạn, hiệu quả tổ chức)
+ Chức năng lãnh đạo (yếu tố con người, động cơ lãnh đạo, thông tin liên lạc)
+ Chức năng kiểm tra.
Đây là những chức năng chung nhất đối với mọi nhà quản lý, không phân biệt cấp
bậc, ngành nghề, quy mô của tổ chức, môi trường xã hội [5], [10].
1.1.4. Hoạch định và tiến trình hoạch định chiến lược
Hoạch định là một chức năng chính yếu của các hoạt động quản trị. Chức năng
hoạch định bao trùm lên toàn bộ các chức năng khác, bởi tất cả mọi hoạt động của tổ
chức phải được hoạch định trước khi chúng tiến hành.
Hoạch định là quá trình chuẩn bị để đối phó với sự thay đổi và tính không chắc
chắn bằng việc trù liệu những cách thức hành động trong tương lai.
Tiến trình hoạch định gồm các bước sau:
Bước 1: Xác
định
các mục tiêu
của
Bước 3: Đánh
giá
những điểm
mạnh và điểm
Bước 2: Phân
tích
các đe doạ và
cơ hội thị
Bước 4: Xây dựng các kiểu kế hoạch chiến lược để
lựa chọn
Bước 5: Triển khai kế hoạch chiến lược
Bước 6: Triển khai các kế hoạch tác nghiệp
Bước 7: Kiểm tra và đánh giá kết quả
Bước 8: Lập lại quá trình hoạch định
Hình 1.2. Tiến trình hoạch định chiến lược
Bước 1: Xác định sứ mệnh, mục tiêu của tổ chức
Sứ mệnh và mục tiêu của tổ chức được xác định thông qua việc trả lời các câu hỏi:
“Chúng ta là ai?”, “Chúng ta muốn trở thành một tổ chức như thế nào?”, “Các mục tiêu
định hướng của chúng ta là gì?”. Quá trình xác định sứ mệnh và mục tiêu này được phát
triển trong suốt quá trình phân tích những de doạ và cơ hội của môi trường (bước 2) cũng
như quá trình đánh giá những điểm mạnh điểm yếu của tổ chức (bước 3).
Bước 2: Phân tích những đe dọa và cơ hội thị trường.
Bất kỳ hoạt động của một tổ chức hay các nhân nào cũng phải gắn với môi trường
nhất định. Điều kiện môi trường mà các tổ chức gặp phải luôn luôn biến đổi tạo ra các cơ
hội và nguy cơ bất ngờ mà các nhà hoạch định phải tiến hành phân tích chúng để tận
dụng hết các cơ hội và giảm bớt ảnh hưởng tiêu cực của các nguy cơ.
Có rất nhiều loại áp lực đối với một tổ chức, những áp lực có tác động mạnh mẽ
nhất đối với quá trình hoạch định chiến lược của doanh nghiệp là các áp lực cạnh tranh
trong ngành và áp lực cạnh tranh trên thị trường được mô tả trong hình sau:
Quyền
thương
lượng,trả
giá của nhà
Sự đe doạ
của các
hàng hoá
hay dịch vụ
Sự đe doạ
của các đối
thủ cạnh
tranh
Quyền
thương
lượng, trả
giá của
Sự cạnh tranh
giữa các doanh
nghiệp trong
hoạt động trong
Doanh
nghiệp
Hình 1.3. Những áp lực chủ yếu xuất phát từ sự
cạnh tranh trong ngành hay trên thị trường.
Bước 3: Đánh giá những điểm mạnh diểm yếu của tổ chức
Việc đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu của tổ chứccho phép các nhà quản lý
nhận diện những khả năng chủ yếu của tổ chức. Sự đánh giá này bao trùm toàn bộ các
lĩnh vực của tổ chức như: Vị thế cạnh tranh trên thị trường. Kỹ năng quản lý, nguồn
nhân lực, năng lực công nghệ, tiền lực tài chính, năng lực quản lý và trình độ chủ yếu của
nhân viên.
Bước 4: Xây dựng các chiến lược dự thảo để chọn lựa
Sau khi đã tiến hành đánh giá doanh nghiệp trên mọi phương diện, những người
tham gia hoạch định sẽ vạch ra các chiến lược dự thảo để chọn lựa ra chiến lược thích
hợp nhất đối với tổ chức.
Các chiến lược này sẽ được trình bày trong phần 1.2.2
Bước 5: Triển khai kế hoạch chiến lược
Sau khi chuẩn bị và lựa chọn được chiến lược thích hợp, doanh nghiệp cần phải
triển khai kế hoạch đó. Kế hoạch này cần chỉ rõ những hoạt động sẽ được tiến hành để
đạt được các mục tiêu đề ra đồng thời cũng phải dự kiến loại công nghệ, các biện pháp
marketing, nguồn tài chính, nhân lực…
Bước 6: Triển khai các kế hoạch tác nghiệp.
Mục đích của các kế hoạch tác nghiệp là để thực hiện các kế hoạch chiến lược.
Bước 7: Kiểm tra và đánh giá kết quả.
Các hoạt động kiểm tra phải được tiến hành đông thời với quá trình hoạch định
chiến lược và hoạch định tác nghiệp để đảm bảo sự thực hiện các kế hoạch và đánh giá
các kết quả thực hiện, nếu không như mong muốn thì cần phải xem xét thay đổi nhiệm
vụ, các mục tiêu,các chiến lược hay các biện pháp kiểm tra mà các nhà hoạch định đã
vạch ra.
Bước 8: Lặp lại tiến trình hoạch định.
Những biến động của môi trường có thể diễn ra từ từ và cũng có thể không dự
kiến trước được. Song dù thế nào đi nữa thì các nhà hoạch định vẫn phải sẵn sàng để đổi
mới hay điều chỉnh các kế hoạch bằng sự lặp lại quá trình hoạch định.
Do đó, cần phải coi hoạch định là một quá trình liên tục và luôn là phương tiện
chứ không phải là mục đích [5].
Tóm lại, hoạch định là quá trình xác định các mục tiêu và lựa chọn các phương
thức để đạt được các mục tiêu đó. Nếu không có các kế hoạch, nhà quản lý có thể không
biết tổ chức và khai thác con người và các nguồn lực khác của tổ chức một cách hiệu quả,
thậm chí không có một ý tưởng rõ ràng về cái họ cần tổ chức và khai thác. Không có kế
hoạch, nhà quản lý và các nhân viên của họ có rất ít cơ hội để đạt được mục tiêu của
mình, không biết khi nào và ở đâu phải làm gì. Lúc này việc kiểm tra sẽ trở nên rất phức
tạp. Như vậy, hoạch định quả thật là rất quan trọng và bất kỳ một tổ chức nào cũng cần
phải có các nhà quản lý giỏi để hoạch định các chiến lược cho công ty mình.
1.2. Tổng quan về marketing và marketing dược
1.2.1. Khái niệm marketing và marketing dược
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ khi những nguyên lý cơ bản đầu tiên của
marketing xuất hiện. Từ đó đến nay, lý luận marketing đã được hình thành và phát triển
một cách toàn diện và sâu sắc. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều định nghĩa về
marketing. Dưới đây là một số định nghĩa tiêu biểu:
Viện Marketing Anh định nghĩa: “ Marketing là quá trình tổ chức và quản lý toàn
bộ các hoạt động kinh doanh, từ việc phát hiện ra và biến sức mua của người tiêu dùng
thành một nhu cầu thực sự về một mặt hàng cụ thể, đến việc sản xuất và đưa các hàng
hoá đến người tiêu thụ cuối cùng, nhằm đảm bảo cho công ty được lợi nhuận dự kiến ”
[22].
Theo hiệp hội Marketing Hoa Kỳ : “Marketing là quá trình kế hoạch hoá và thực
hiện các kế hoạch đó, định giá, khuyến mãi và phân phối các tư tưởng, hàng hoá và dịch
vụ để tạo ra sự trao đổi, từ đó thoả mãn mục tiêu của các cá nhân và tổ chức ” [22].
Theo Philip Kotler : “ Marketing là hoạt động của con người hướng đến việc thoả
mãn nhu cầu và ước muốn thông qua trao đổi ”[22], [23].
Theo một định nghĩa khác: “ Marketing là quy trình xác định, phát triển và cung
cấp các giá trị tốt hơn cho khách hàng ” [1], [22].
Như vậy, từ những định nghĩa trên ta có thể kết luận bản chất của marketing là
tổng thể các hoạt động của doanh nghiệp hướng tới thoả mãn, gợi mở những nhu cầu của
người tiêu dùng trên thị trường để đạt được mục tiêu lợi nhuận.
Marketing hiện đại hướng tới quan điểm kết hợp hài hoà giữa ba lợi ích: người
tiêu dùng – nhà kinh doanh – xã hội.
Đó là quan điểm marketing đạo đức - xã hội, nhiệm vụ của doanh nghiệp là xác
định đúng đắn những nhu cầu, mong muốn và lợi ích của các thị trường mục tiêu, trên cơ
sở đó đảm bảo thoả mãn nhu cầu và mong muốn một cách hữu hiệu và hiệu quả hơn các
đối thủ cạnh tranh.
Ngành dược là một ngành kinh tế kỹ thuật mang tính chuyên môn cao. Do đó,
marketing dược với nền tảng cơ sở là lý luận marketing mang tính chất đặc thù của ngành
dược. Vị trí trung tâm trong chiến lược marketing của các doanh nghiệp dược là bệnh
nhân. Theo Mickey C.Smith : “ Đối tượng cần cho sự tồn tại của marketing dược là bệnh
nhân chứ không phải là nhà sản xuất hay các cửa hàng dược ”. Không chỉ đơn thuần là
sản xuất hay kinh doanh thuốc, bản chất của marketing dược là thực hiện chăm sóc thuốc
đáp ứng, thoả mãn cho nhu cầu điều trị hợp lý.
Marketing dược được định nghĩa như sau: “Marketing dược thực chất là tổng hợp
các chính sách chiến lược marketing của thuốc và nhằm thoả mãn nhu cầu của bệnh nhân,
nhằm phục vụ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Ngoài các mục tiêu, chức năng của
marketing thông thường, do đặc thù của ngành yêu cầu marketing dược có nhiệm vụ:
thuốc được bán ra đúng loại thuốc, đúng giá, đúng số lượng, đúng lúc và đúng nơi…” [1],
[16].
1.2.2. Các chính sách marketing
1.2.2.1. Chính sách sản phẩm
Theo Philip Kotler: sản phẩm là tất cả những gì có thể cung cấp cho thị trường để
tạo ra sự chú ý, mua sắm, sử dụng hay tiêu thụ nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn
của thị trường.
Sản phẩm có thể phân chia thành nhiều loại dựa trên các tiêu thức khác nhau.
Theo lĩnh vực sử dụng có thể được phân thành hàng hoá và dịch vụ [1], [16].
Sản
phẩm
Hàng tiêu
dùng
Hàng hoá
thông
thường
Hàng hoá
cao cấp
Hàng hoá
đặc biệt
Hàng hoá
khác
Hàng
công
nghiệp
Nguyên
vật
liệu
Các
hạng
mục đầu
tư
Nguồn
cung
ứng
Hàng
hoá
Không
bền
Bền
Dịch vụ
Dịch
vụ đối
với
người
tiêu
dùng
Dịch
vụ
kinh
doanh
và
công
Hình 1.4. Sơ đồ phân loại sản phẩm
Hàng hoá bao gồm hai nhóm lớn: hàng tiêu dùng (Consumer Goods) và hàng tư
liệu sản xuất hay hàng công nghiệp (Industrial Goods).
Trên con đường tìm kiếm những chiến lược marketing đối với một sản phẩm cụ
thể, điều quan trọng là cần nhận rõ được sản phẩm đó thuộc loại sản phẩm nào. Vị trí của
thuốc trong sơ đồ phân loại sản phẩm thuộc nhóm hàng hoá đặc biệt.
* Một số chiến lược trong chính sách sản phẩm :
Trong môi trường cạnh tranh cao như hiện nay, định hướng được các chiến lược
sản phẩm tối ưu là một trong những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Tuỳ vị thế và khả năng cạnh tranh của mình doanh nghiệp sẽ lựa chọn cho mình
chiến lược sản phẩm phù hợp.
- Chiến lược triển khai tiêu thụ sản phẩm theo chu kỳ sống của sản phẩm :
Chu kỳ sống của sản phẩm là khoảng thời gian sản phẩm tồn tại trên thị trường
được khách hàng chấp nhận. Chu kỳ sống điển hình của một sản phẩm gồm 4 giai đoạn :
giới thiệu sản phẩm, tăng trưởng, chín muồi và suy thoái.
Các doanh nghiệp đều mong muốn kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm đặc biệt là
kéo dài giai đoạn tăng trưởng đoạn chín muồi để thu được nhiều lợi nhuận. Điều này đòi
hỏi doanh nghiệp phải nhận biết được sản phẩm của mình đang ở giai đoạn nào từ đó áp
dụng linh hoạt các chiến lược marketing cho phù hợp.
- Chiến lược phát triển danh mục sản phẩm :
Danh mục sản phẩm bao gồm tất cả các mặt hàng doanh nghiệp có khả năng cung
cấp ra thị trường. Một danh mục sản phẩm có 3 chiều: rộng, dài, sâu. Chiều rộng của
danh mục sản phẩm là tổng số các nhóm chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp, có liên
quan chặt chẽ với nhau, giống nhau về chức năng sử dụng và tính chất của nhu cầu tiêu
dùng. Chiều dài của sản phẩm là tất cả các nhóm hàng được xếp theo thứ tư ưu tiên hợp
lý. Chiều sâu của danh mục sản phẩm là số lượng những mẫu mã trong các mặt hàng nói
trên. Chiến lược phát triển danh mục sản phẩm nhằm giúp doanh nghiệp đạt các chỉ tiêu
về doanh số, lợi nhuận, chiếm lĩnh thị trường, giúp doanh nghiệp chủ động ứng phó với
những biến động của thị trường.
Đối với dược phẩm, thực hiện chiến lược phát triển danh mục sản phẩm chính là
thiết kế danh mục sản phẩm theo đặc tính sử dụng của từng loại thuốc đảm bảo các yêu
cầu về: chất lượng, đáp ứng sinh học nhanh, dễ sử dụng, đa dạng đường dùng, chủng loại
phù hợp cho nhiều đối tượng phục vụ cho nhiều mục đích điều trị khác nhau, hàm lượng,
tác dụng phụ, chống chỉ định và không ngừng nghiên cứu, phát triển thuốc mới.
- Chiến lược phát triển sản phẩm mới :
Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật trong giai đoạn hiện nay làm thay
đổi nhanh chóng nếp nghĩ, sở thích hay nhu cầu của người tiêu dùng cũng như rút ngắn
chu kỳ sống của sản phẩm. Một doanh nghiệp không chỉ dựa vào những sản phẩm hiện
có của mình vì khách hàng luôn mong muốn và chờ đợi những sản phẩm mới hoàn thiện
hơn. Yêu cầu cho ra đời các sản phẩm mới nhiều khi mang tính chất sống còn đối với
doanh nghiệp.
Sản phẩm mới: xét về góc độ doanh nghiệp là sản phẩm đầu tiên mà doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh, xét về góc độ thị trường chung là sản phẩm lần đầu tiên có
mặt trên thị trường. Sản phẩm dược phẩm mới có thể là hoạt chất mới, dạng bào chế mới
của hoạt chất cũ hoặc sản phẩm được cải tiến về mẫu mã, bao bì, nhãn hiệu…
Việc nghiên cứu hay phát triển một sản phẩm thuốc phải thoả mãn các đặc tính
như: chất lượng, sinh khả dụng, độ an toàn, đường dùng, liều dùng, ít tác dụng phụ, tuổi
thọ cao… Chính vì vậy, ngoài các chiến lược theo marketing thông thường, chiến lược
sản phẩm (thuốc) phải bao gồm các yếu tố: Chất lượng thuốc phải đạt tiêu chuẩn nhất
định (tiêu chuẩn dược điển, tiêu chuẩn nhà sản xuất), thuốc phải có hiệu lực điều trị bệnh,
đáp ứng các tác dụng dược lý, tiện sử dụng, nhiều chủng loại cho nhiều đối tượng dùng.
Các sản phẩm thuốc phải được phép của Cục quản lý Dược mới được sản xuất lưu hành
trên thị trường. Đồ bao gói sản phẩm dược có tầm quan trọng đặc biệt ngoài tác dụng
marketing sản phẩm, bao gói dược còn có tác dụng bảo quản thuốc. Các hướng dẫn đi
kèm sản phẩm thuốc phải rất chi tiết, cụ thể để giúp thầy thuốc và bệnh nhân sử dụng
đúng thuốc.
Xu hướng chung của các hãng dược phẩm lớn trên thế giới hiện nay là tập trung
phát triển sản phẩm mới, sản phẩm đặc biệt và nổi trội, những sản phẩm này có thể bán ở
mức giá cao, thu được lợi nhuận lớn mà ít chịu sự cạnh tranh.
Việc đầu tư nghiên cứu phát triển một thuốc mới mặc dù tốn kém về mặt tiền bạc
và thời gian nhưng trên thực tế vẫn có những rủi ro khi đưa sản phẩm ra thị trường.
Nguyên nhân là do nhiều thuốc sau khi lưu hành một thời gian dài mới phát hiện thêm
các tác dụng phụ không mong muốn và buộc phải rút khỏi thị trường mà điển hình là năm
2001, hãng Bayer đã lao đao khi một thuốc mới của hãng là Lipobay (Cerivastatin) bị rút
khỏi thị trường và gây thiệt hại cho hãng tới gần 4 tỷ USD.
Đối với các công ty dược phẩm Việt Nam, do vốn ít và trình độ khoa học kỹ thuật,
công nghệ hoá dược chưa cao nên khó có điều kiện phát minh các hoạt chất mới. Thực
ti