Xã hội loài người đã và đang trải qua những hình thái kinh tế – xã hội khác
nhau. ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người đều có những hiểu
biết và cách giải thích các hiện tượng kinh tế – xã hội nhất định. Việc giải thích
các hiện tượng kinh tế – xã hội ngày càng trở nên hết sức cần thiết đối với đời
sống kinh tế của xã hội loài người. Lúc đầu nó chỉ xuất hiện dưới những hình thức
tư tưởng kinh tế, về sau mới trở thành những quan niệm, quan điểm kinh tế có tính
hệ thống của các giai cấp khác nhau, đáp ứng cho nhu cầu lý luận và bảo vệ các
lợi ích của các giai cấp đó. Mặt khác, các trường phái lý luận qua các giai đoạn
lịch sử khác nhau mang tính kế thừa, phát triển, cũng như phê phán có tính lịch sử
của các trường phái kinh tế học.
Trường phái kinh tế chính trị học tư sản đầu tiên là chủ nghĩa Trọng thương.
Nó ra đời trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản. Đối tượng nghiên cứu của
kinh tế chính trị học lúc này là lĩnh vực lưu thông và đánh giá cao vai trò tiền tệ
trong việc tích luỹ của cải. Con đường làm tăng của cải là thương nghiệp, là ngoại
thương. Họ đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế để tạo điều kiện
cho chủ nghĩa tư bản ra đơì.
Theo đà thâm nhập của tư bản vào lĩnh vực sản xuất, những vấn đề kinh tế
của sản xuất nảy sinh vượt quá khả năng lý giải của chủ nghĩa Trọng thương; Đòi
hỏi phải có những lý thuyết mới – Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển xuất hiện.
Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên
cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Các đại biểu xuất sẵc của trường
phái cổ điển là W.Petty, F.Quesnay, A.Smith, D.Ricacdo. Các ông nghiên cứu
những vấn đề cơ bản của lý luận kinh tế chính trị học như thuyết giá trị lao động,
tiền lương, lợi nhuận, lợi túc, tư bản, tích luỹ, tái sản xuất. Từ đó xây dựng nên hệ
thống các phạm trù, quy luật kinh tế. Trường phái này ủng hộ tư tưởng tự do kinh
tế, dưới sự chi phối của bàn tay vô hình, Nhà nước không can thiệp vào kinh tế.
Song thực tế đã bác bỏ tư tưởng tự do kinh tế của trường phái cổ điển. Đồng
thời thể hiện sự bất lực của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển trước những hiện
thực kinh tế mới. Trước bố cảnh đó, nhiều trào lưu kinh tế chính trị học nổi lên mà
cơ bản là 2 trào lưu:
Một là những nhà kinh tế tiếp tục thuyết tư sản cổ điển đã đổi mới và phát
triển, Trường phái Keynes, tự do mới, chính hiện đại.
Hai là kinh tế chính trị học Marx – Lenin.
Trong hệ thống các các lý luận cơ bản của từng trường phái cũng như của cả
quá trình lịch sử phát triển, lý luận giá trị lao động đóng vai trò hạt nhân, là cơ sở
của các lý luận khác; Nó cũng bắt đầu sơ khai từ những tư tưởng kinh tế và được
phát triển thành những quan niệm, khái niệm và đến Marx đã khái quát hoá thành
những phạm trù, những hệ thống lý luận hoàn chỉnh mà nhờ đó giải thích được
các hiện tượng kinh tế trong xã hội.
Với những kiến thức tiếp cận được qua các bài giảng của Thầy giáo, qua một
số tài liệu nghiên cứu hiện hành, Trong phạm vi bản tiểu luận này, trên lập trường
tư tưởng của chủ nghĩa Marx – Lenin, em xin chọn đề tài Phân tích lý luận giá
trị, giá cả hàng hoá trong các học thuyết kinh tế.
28 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2782 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích lý luận giá trị, giá cả hàng hoá trong các học thuyết kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
z
LUẬN VĂN:
Phân tích lý luận giá trị, giá cả hàng
hoá trong các học thuyết kinh tế
Mở đầu
Xã hội loài người đã và đang trải qua những hình thái kinh tế – xã hội khác
nhau. ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người đều có những hiểu
biết và cách giải thích các hiện tượng kinh tế – xã hội nhất định. Việc giải thích
các hiện tượng kinh tế – xã hội ngày càng trở nên hết sức cần thiết đối với đời
sống kinh tế của xã hội loài người. Lúc đầu nó chỉ xuất hiện dưới những hình thức
tư tưởng kinh tế, về sau mới trở thành những quan niệm, quan điểm kinh tế có tính
hệ thống của các giai cấp khác nhau, đáp ứng cho nhu cầu lý luận và bảo vệ các
lợi ích của các giai cấp đó. Mặt khác, các trường phái lý luận qua các giai đoạn
lịch sử khác nhau mang tính kế thừa, phát triển, cũng như phê phán có tính lịch sử
của các trường phái kinh tế học.
Trường phái kinh tế chính trị học tư sản đầu tiên là chủ nghĩa Trọng thương.
Nó ra đời trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản. Đối tượng nghiên cứu của
kinh tế chính trị học lúc này là lĩnh vực lưu thông và đánh giá cao vai trò tiền tệ
trong việc tích luỹ của cải. Con đường làm tăng của cải là thương nghiệp, là ngoại
thương. Họ đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế để tạo điều kiện
cho chủ nghĩa tư bản ra đơì.
Theo đà thâm nhập của tư bản vào lĩnh vực sản xuất, những vấn đề kinh tế
của sản xuất nảy sinh vượt quá khả năng lý giải của chủ nghĩa Trọng thương; Đòi
hỏi phải có những lý thuyết mới – Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển xuất hiện.
Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên
cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Các đại biểu xuất sẵc của trường
phái cổ điển là W.Petty, F.Quesnay, A.Smith, D.Ricacdo. Các ông nghiên cứu
những vấn đề cơ bản của lý luận kinh tế chính trị học như thuyết giá trị lao động,
tiền lương, lợi nhuận, lợi túc, tư bản, tích luỹ, tái sản xuất. Từ đó xây dựng nên hệ
thống các phạm trù, quy luật kinh tế. Trường phái này ủng hộ tư tưởng tự do kinh
tế, dưới sự chi phối của bàn tay vô hình, Nhà nước không can thiệp vào kinh tế.
Song thực tế đã bác bỏ tư tưởng tự do kinh tế của trường phái cổ điển. Đồng
thời thể hiện sự bất lực của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển trước những hiện
thực kinh tế mới. Trước bố cảnh đó, nhiều trào lưu kinh tế chính trị học nổi lên mà
cơ bản là 2 trào lưu:
Một là những nhà kinh tế tiếp tục thuyết tư sản cổ điển đã đổi mới và phát
triển, Trường phái Keynes, tự do mới, chính hiện đại.
Hai là kinh tế chính trị học Marx – Lenin.
Trong hệ thống các các lý luận cơ bản của từng trường phái cũng như của cả
quá trình lịch sử phát triển, lý luận giá trị lao động đóng vai trò hạt nhân, là cơ sở
của các lý luận khác; Nó cũng bắt đầu sơ khai từ những tư tưởng kinh tế và được
phát triển thành những quan niệm, khái niệm và đến Marx đã khái quát hoá thành
những phạm trù, những hệ thống lý luận hoàn chỉnh mà nhờ đó giải thích được
các hiện tượng kinh tế trong xã hội.
Với những kiến thức tiếp cận được qua các bài giảng của Thầy giáo, qua một
số tài liệu nghiên cứu hiện hành, Trong phạm vi bản tiểu luận này, trên lập trường
tư tưởng của chủ nghĩa Marx – Lenin, em xin chọn đề tài Phân tích lý luận giá
trị, giá cả hàng hoá trong các học thuyết kinh tế.
Nội dung
I-/ Lý luận của chủ nghĩa Trọng thương:
Chủ nghĩa Trọng thương hay trường phái coi trọng thương mại là hệ thống
tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản ra đời trong thời kỳ tan rã của phương
thức sản xuất phong kiến, phát sinh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường. Nó ra đời vào khoảng
những năm 1450, phát triển tới những năm 1650 và sau đó bị suy đồi. Về mặt lịch
sử, đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản.
Tư tưởng xuất phát của chủ nghĩa Trọng thương cho rằng, tiền là nội dung
căn bản của của cải, là tài sản thật sự của một quốc gia. Một nước có càng nhiều
vàng thì càng giàu có. Còn hàng hoá chỉ là phương tiện để tăng thêm khối lượng
tiền tệ mà thôi. Trên quan điểm coi tiền là đại biểu duy nhất của của cải, là tiêu
chuẩn đánh giá mọi hình thức hoạt động nghề nghiệp. Những hoạt động nào
không dẫn đến tích luỹ tiền tệ là những hoạt động tiêu cực, không có lợi. Hoạt
động công nghiệp không thể là nguồn gốc của của cải (trừ công nghiệp khai thác
vàng và bạc) chỉ có hoạt động ngoại thương mới là nguồn gốc thật sự của của cải.
Khối lượng tiền tệ chỉ có thể gia tăng bằng con đường ngoại thương. Trong
hoạt động ngoại thương phải thực hiện chính sách xuất siêu (xuất nhiều, nhập ít).
“Nội thương là một hệ thống ống dẫn, ngoại thương là máy bơm, muốn tăng
của cải phải có ngoại thương nhập dần của cải qua nội thương”.
Những người trọng thương cho rằng, lợi nhuận thương nghiệp là kết quả của
sự trao đổi không ngang giá, là sự lừa gạt, như chiến tranh. Họ cho rằng, không
một người nào thu được lợi mà lại không làm thiệt kẻ khác. Dân tộc này là giàu
bằng cách hy sinh lợi ích của dân tộc khác. Trong trao đổi phải có một bên thua để
bên kia được.
Mặc dù còn hạn chế về tính lý luận nhưng hệ thống quan điểm học thuyết
kinh tế Trọng thương đã taọ ra những tiền đề lý luận kinh tế xã hội cho các lý luận
kinh tế thị trường sau này phát triển. Điều này thể hiện ở chỗ họ đưa ra quan điểm
sự giàu có không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, là tiền. Mục đích hoạt động
của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là lợi nhuận. Marx chỉ ra rằng chủ nghĩa
Trọng thương thế kỷ XVI-XVII đã đi theo “cái hình thái chói lọi của giá trị trao
đổi và đứng trên lĩnh vực thô sơ của lưu thông hàng hoá để xem xét nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa”.
II-/ lý luận của chủ nghĩa Trọng nông:
Cũng như chủ nghĩa Trọng thương, chủ nghĩa Trọng nông xuất hiện trong
khuôn khổ thời kỳ quá độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng ở giai
đoạn phát triển kinh tế trưởng thành hơn. Vào giữa thế kỷ XVIII Tây Âu đã phát
triển theo con đường tư bản chủ nghĩa và ở nước Anh, cuộc cách mạng công
nghiệp đã bắt đầu. ở nước Pháp chủ nghĩa tư bản công trường thủ công đã bén rễ
ăn sâu một cách vững chắc. Điều đó đòi hỏi xét lại học thuyết của chủ nghĩa
Trọng thương đã trở thành cấp thiết. Thời kỳ tích luỹ ban đầu đã chấm dứt và việc
dùng thương mại để bóc lột các nước thuộc địa đã mất hết ý nghĩa đặc biệt của nó
với tư cách là nguồn làm giàu cho giai cấp tư sản.
Những người theo chủ nghĩa Trọng nông mà đại diện tiêu biểu là Keynes
cho rằng, xã hội loài người phát triển theo những quy luật tự nhiên. Theo họ,
nguồn gốc duy nhất của của cải là tự nhiên, là nông nghiệp vì nông nghiệp đem lại
cho con người những kết quả của tự nhiên.
Những người Trọng nông cho rằng, lợi nhuận thương nghiệp có được chẳng
qua là nhờ tiết kiệm các khoản chi phí thương mại. Vì theo họ thương mại chỉ đơn
thuần là “việc đổi những giá trị này lấy những giá trị khác ngang như thế” và
trong quá trình trao đổi đó, nếu xét nó dưới hình thái thuần tuý thì cả người mua,
lẫn người bán chẳng có gì để mất hay được cả. Thương nghiệp không sinh ra của
cải. Trao đổi không sản xuất ra được gì cả”. Trao đổi không làm cho tài sản tăng
lên, vì tài sản được tạo ra trong sản xuất, còn trong trao đổi thì chỉ có sự trao đổi
giá trị sử dụng này lấy giá trị sử dụng khác mà thôi. K.Marx trong khi phê phán
chủ nghĩa Trọng thương cũng viết: “Người ta trao đổi những hàng hoá với hàng
hoá hay những hàng hoá với tiền tệ có cùng giá trị với hàng hoá đó, tức là trao
đổi những vật ngang giá, rõ ràng là không ai rút ra được từ trong lưu thông ra
nhiều giá trị hơn số giá trị đã bỏ vào trong đó. Vậy giá trị thặng dư tuyệt nhiên
không thể hình thành ra được”. (TB.Q1.T1). Điều này chứng tỏ sự trưởng thành
của các quan điểm kinh tế của phái trọng nông.
K.Marx nhận xét: “Phái trọng nông đã chuyển việc nghiên cứu nguồn gốc
của giá trị thặng dư từ lĩnh vực lưu thông vào lĩnh vực sản xuất trực tiếp, và do đó
đã đặt cơ sở cho việc phân tích nền sản xuất Tư bản chủ nhĩa” (Tư bản Q4).
Chủ nghĩa Trọng nông đưa ra học thuyết rất cơ bản, đóng vai trò trung tâm
trong hệ thống lý luận chủ nghĩa tư bản - Đó là học thuyết về “sản phẩm ròng”
(sản phẩm thuần tuý). Những người Trọng nông cho rằng sản phẩm thuần tuý chỉ
được tạo ra trong nông nghiệp. F.Quesnay cho rằng của cải là vật chất, tức giá trị
sử dụng. Ông nghiên cứu nền sản xuất xã hội từ mức chênh lêch giữa đầu vào và
đầu ra của giá trị sử dụng trong quá trình sản xuất; ngành công nghiệp không có
thể làm tăng thêm số lượng của giá trị sử dụng mà chỉ có thể làm thay đổi hình
thái của giá trị sử dụng, còn thương nghiệp thì không thể làm thay đổi ngay cả đến
hình thái của giá trị sử dụng. Ông kết luận, nông nghiệp là ngành kinh tế sản xuất
duy nhất, còn công nghiệp thì “chỉ có tiêu dùng chứ hoàn toàn không có sản xuất”.
Công nghiệp chẳng qua là chế biến lại nguyên liệu của nông nghiệp. Trong công
nghệp người ta không tạo ra chất mới, chỉ là sự kết hợp nhiều nguyên tố của các
chất khác nhau đã tồn tại từ trước. Trong nông nghiệp không có sự kết hợp mà chỉ
có sự tăng thêm về chất, tạo ra sản phẩm thuần tuý mới.
F.Quesnay tuyên bố: “Chỉ có của cải dân cư ở nông thôn mới để ra của cải
quốc gia”, “nông dân nghèo thì xứ sở nghèo”.
Như vậy, chủ nghĩa Trọng nông đã giải thích nguồn gốc của sản phẩm thuần
tuý theo tinh thần của chủ nghĩa tự nhiên, tựa hồ như đất đai là nguồn gốc của sản
phẩm thuần tuý. Trong học thuyết này, họ đã coi sản phẩm thuần tuý là sản phẩm
lao động của người công nhân làm thuê, bộ phận này đã biến thành nguồn thu
nhập của giai cấp tư sản và địa chủ.
Tuy nhiên, phái Trọng nông đã tầm thường hoá khái niệm của cải, không
thấy tính hai mặt của nó (hiện vật và giá trị). Ai cũng biết rằng việc làm tăng thêm
giá trị của vật phẩm thường kèm theo việc làm giảm khối lượng thực thể chứa
đựng trong các vật phẩm đó. Giá trị và khối lượng của vật phẩm có thể thay đổi
theo chiều hướng hoàn toàn ngược nhau.
III-/ Các lý luận giá trị, giá cả hàng hoá trong các học thuyết kinh tế chính trị
tư sản cổ điển Anh:
Chủ nghĩa Trọng thương đã trở thành lỗi thời và bắt đầu tan rã ngay từ thế
kỷ XVII, trước hết là Anh, một nước phát triển nhất về mặt kinh tế. Tiền đề của
việc đó được tạo ra chủ yếu là do sự phát triển các công trường thủ công ở Anh,
đặc biệt là trong nhành dệt, sau đó là công nghiệp khai thác. Giai cấp tư sản đã
nhận thức được rằng: “muốn làm giàu phải bóc lột lao động, lao động làm thuê
của những người nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho những người giàu”.
Tất cả những điều kiện kinh tế, xã hội khoa học của cuối thế kỷ XVII đã
chứng tỏ thời kỳ tích luỹ ban đầu của tư bản đã kết thúc và thời kỳ sản xuất tư bản
chủ nghĩa bắt đầu. Tính chất phiến diện của học thuyết trọng thương trở nên quá
rõ ràng, đòi hỏi phải có lý luận mới để đáp ứng với sự vận động và phát triển của
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, kinh tế chính trị học cổ điển Anh ra đời.
Theo Marx, kinh tế chính trị học cổ điển Anh bắt đầu từ William Petty và kết
thúc ở David Ricacdo.
1-/ William Petty – Người đầu tiên đưa ra nguyên lý lao động quyết định
giá trị trong kinh tế chính trị học tư sản:
William Petty (1623-1687) là một trong những người sáng lập ra học thuyết
kinh tế cổ điển ở Anh. Ông sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, có trinh độ
tiến sĩ vật lý, là nhạc trưởng, là người phát minh ra máy chữ. Ông là người áp
dụng phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học, được gọi là phương pháp khoa
học tự nhiên.
Trong tác phẩm “Bàn về thuế khoá và lệ phí”, 1662 W.Petty nghiên cứu về
giá cả, chia giá cả thành hai loại: Giá cả tự nhiên và giá cả chính trị. Theo ông giá
cả chính trị (giá cả thị trường) phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngẫu nhiên, nó thay đổi
phụ thuộc vào giá cả tự nhiên và quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường, do đó
khó xác định; Còn giá cả tự nhiên (tức giá trị) là do thời gian lao động hao phí
quyết định và năng suất lao động có ảnh hưởng đến mức hao phí đó. Như vậy,
Petty là người đầu tiên đã tìm thấy cơ sở giá cả tự nhiên là lao động, thấy được
quan hệ giữa lượng giá trị và năng suất lao động. Ông kết luận rằng: số lượng lao
động bằng nhau bỏ vào sản xuất là cơ sở để so sánh giá trị hàng hoá. Giá cả tự
nhiên (giá trị) tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác vàng và bạc. Ông có ý
định đặt vấn đề lao động phức tạp và lao động giản đơn nhưng không thành.
Như vậy, W.Petty chính là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý
thuyết giá trị lao động. Tuy lý thuyết giá trị - lao động của ông còn có những hạn
chế chưa phân biệt được các phạm trù giá trị, giá trị trao đổi với giá cả. Ông tập
trung nghiên cứu về giá cả một bên là hàng hoá, một bên là tiền, tức là ông mới
chú ý nghiên cứu về mặt lượng. Ông nhận thức được rằng giá trị của tiền tệ cũng
là do lượng lao động quyết định, từ đó khắc phục được các kiến giải không những
không thể trừu tượng hoá được giá trị từ giá trị trao đổi, mà còn không trừu tượng
hoá được giá trị trao đổi từ giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, mà ông đã lẫn
lộn hai cái đó. Ông cũng chia lao động ra làm hai loại: một loại lao động sản xuất
ra vàng và bạc, một loại khác là lao động sản xuất ra những hàng hoá bình thường.
Ông cho rằng chỉ có lao động khai thác vàng và bạc mới có giá trị trao đổi, còn
các lao động khác thì chỉ khi trao đổi hàng và tiền mới này sinh giá trị trao đổi.
Theo ông, giá trị hàng hoá chính là sự phản ánh giá trị tiền tệ cũng như ánh sáng
của mặt trăng là sự phản chiếu ánh sáng mặt trời vậy. Đó là ảnh hưởng tư tưởng
chủ nghĩa Trọng thương rất nặng ở ông.
Petty đã lẫn lộn lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị với lao động
với tư cách là nguồn gốc của giá trị sử dụng, nghĩa là ông đã đồng nhất lao động
trừu tượng với lao động cụ thể. Từ đó Petty có ý định đo giá trị bằng hai đơn vị
lao động và đất đai. Ông nêu ra câu nói nổi tiếng: “Lao động là cha, còn đất là mẹ
của của cải”. Về phương diện của cải nói như vậy là đúng, chỉ rõ nguồn gốc giá
trị sử dụng. Nhưng cái mà ông muốn nói đến là giá trị, ông nói: việc xem xét giá
trị của tất cả mọi hàng hoá đều phải xuất phát từ hai yếu tố tự nhiên, tức là đất đai
và lao động. Nói như vậy ông đã đi ngược lại kết luận đúng đắn của chính mình là
giá trị được quyết định bởi thời gian lao động hao phí trong quá trình sản xuất
hàng hoá.
2-/ Adam Smith – Người đầu tiên trình bày một cách có hệ thống lý luận
giá trị lao động và những yếu tố tầm thường còn tồn tại trong lý luận của ông:
Adam Smith (1723-1790) là nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh và
trên thế giới. Ông là nhà tư tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản, ông muốn thủ tiêu
tàn tích phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển, kêu gọi tích luỹ và
phát triển lực lượng sản xuất theo ý nghĩa tư bản, xem chế độ tư bản chủ nghĩa là
hợp lý duy nhất. Marx coi A.Smith là nhà kinh tế học tổng hợp của công trường
thủ công.
A.Smith đã phân biệt rõ ràng giá trị sử dụng với giá trị trao đổi. Ông nói:
“Giá trị có hai nghĩa khác nhau, có lúc nó biểu thị hiệu quả sử dụng như là một
vật phẩm đặc biệt, có lúc biểu thị sức mua do chỗ chiếm hữu một vật nào đó mà
có được đối với vật khác. Cái trước gọi là giá trị sử dụng, và cái sau gọi là giá trị
trao đổi”. Ông còn chứng minh rõ quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi.
Những thứ có giá trị sử dụng rất lớn thường có giá trị trao đổi cực nhỏ, thậm chí
còn không có. Ví dụ: “Không có gì hữu ích bằng nước, nhưng với nó thì không
thể mua được gì”. Ngược lại, những thứ có giá trị trao đổi rất lớn, thường có giá
trị sử dụng cực nhỏ, thậm chí không có. Việc phân biệt rõ ràng hai khái niệm giá
trị sử dụng và giá trị trao đổi này đồng thời giải thích rõ là giá trị trao đổi lớn hay
nhỏ không liên quan gì đến giá trị sử dụng, đó là công lao của A.Smith. Nhưng
ông cho rằng những thứ không có giá trị sử dụng có thể có giá trị trao đổi thì lại
sai lầm.
Theo A.Smith giá trị trao đổi là do lao động quyết định, giá trị trao đổi là do
hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá quyết định. Đó là khái niệm đúng đắn về
giá trị. Lao động là thước đo thật sự để xác định giá trị trao đổi của mọi thứ hàng
hoá. Việc xác nhận lao động quyết định giá trị hàng hoá là công lao và thành tích
khoa học của ông. Nhưng ông không hiểu được tính chất xã hội của loại lao động
này. Vì thế, khi đi sâu tìm hiểu thêm xem lao động gì quyết định giá trị của hàng
hoá , lao động xác định giá trị hàng hoá như thế nào thì ông rơi vào hỗn loạn. Một
mặt ông cho rằng lao động quyết định giá trị hàng hoá là lao động tiêu hao để sản
xuất ra hàng hoá. Lượng giá trị của hàng hoá tỷ lệ thuận với lượng thời gian lao
động hao phí trong sản xuất. Đồng thời ông còn nghiên cứu sự phân biệt giữa lao
động giản đơn và lao động phức tạp, ông cho rằng trong cùng một thời gian, lao
động phức tạp tạo ra giá trị nhiều hơn là lao động đơn giản. Nhưng đồng thời ông
lại cho rằng giá trị một hàng hóa bằng số lượng lao động mà người ta có thể mua
được nhờ hàng hoá đó. Đây là điều luẩn quẩn và sai lầm của A.Smith, dùng giá trị
quyết định giá trị. Ông đã lẫn lộn vấn đề giá trị đã được quyết định như thế nào
trong sản xuất và giá trị đã biểu hiện như thế nào trong trao đổi.
Về cấu thành giá trị của hàng hoá. Theo A.Smith trong sản xuất tư bản chủ
nghĩa, tiền lương, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập,
cũng như mọi giá trị trao đổi. A.Smith coi tiền lương, lợi nhuận và địa tô là ba
nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập, đó là quan điểm đúng đắn. Song ông lại tầm
thường ở chỗ coi các khoản thu nhập là nguồn gốc đầu tiên của mọi giá trị trao
đổi. Ông đã lẫn lộn hai vấn đề hình thành giá trị và phân phối giá trị, giá trị của
hàng hoá với giá trị mới sáng tạo ra của lao động; Hơn nữa, ông cũng đã xem
thường tư bản bất biến, coi giá trị hàng hoá chỉ có (V+m).
A.Smith nghiên cứu quy luật giá trị và tác dụng của nó. Ông đã phân biệt giá
cả tự nhiên với giá cả thị trường. Ông khẳng định hàng hoá được bán theo giá cả
tự nhiên, nếu giá cả đó ngang với mức cần thiết để trả cho tiền lương, lợi nhuận và
địa tô. Theo ông, giá cả tự nhiên là trung tâm. Giá cả thị trường là giá bán thực tế
của hàng hoá, giá cả này nhất trí với giá cả tự nhiên khi hàng hoá được đưa ra thị
trường với số lượng đủ “thoả mãn lượng cầu thực tế”. Nhưng do sự biến động của
cung cầu là cho giá cả thị trường chênh lệch với giá cả tự nhiên. Bản thân giá cả tự
nhiên cũng thay đổi cùng với tỷ suất tự nhiên của mỗi bộ phận cấu thành nó. Ông
đã nhận thấy giá cả trong chủ nghĩa tư bản được đặt ra khác với trước đây. Nhưng
ông không thấy được trong chủ nghĩa tư bản quá trình thực hiện giá trị gắn liền
với việc phân phối lại giá trị dưới hình thái lợi nhuận, địa tô và lợi tức. Ông đã vấp
vào vấn đề giá cả sản xuất. Có thể thấy rằng, không những ông coi giá cả dao
động xung quanh giá trị là một hiện tượng có tính quy luật, mà còn chứng minh rã
tác dụng điều tiết của quy luật giá trị đối với sản xuất hàng hoá. Nhưng do chỗ
không hiểu được mối liên hệ nối tại giữa giá trị và giá cả, ông không giải thích
được sự xa rời giá cả khỏi giá trị chính là hình thức tác động của quy luật giá trị.
Công lao chủ yếu của A.Smith về lý luận giá trị là đã phân biệt được giá trị
sử dụng và giá trị trao đổi, hơn nữa, ông đã cho rằng lao động là “thước đo thực tế
của giá trị”. Nhưng do hạn chế về lập trường, quan điểm và phương pháp nên lý
luận giá trị của ông vừa có yếu tố khoa học lại vừa có yếu tố tầm thường.
3-/ Lý luận về giá trị lao động của David Ricacdo đã đạt tới đỉnh cao của
kinh tế chính trị học cổ điển của giai cấp tư sản:
David Ricacdo (1772-1823) sinh trong một gia đình giàu có làm nghề chứng
khoán, một nhà tư bản có địa vị trong số các gia đình giàu có ở châu Âu. Ông hoạt
động trong thời kỳ cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn t