Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị, xã hội. Trong đó, tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
10 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 3396 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị, xã hội. Trong đó, tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
Pháp chế được bảo đảm thông qua đường lối chính trị của đảng cầm quyền, thông qua các biện pháp xã hội và đạo đức, thông qua chế độ kinh tế của xã hội và các yếu tố pháp lý. Một trong số các biện pháp pháp lý để bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước là hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước. Hoạt động này có tác dụng, vai trò thiết thực để xây dựng Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện quyền công dân, quyền con người và công bằng xã hội.
Do vậy, để hiểu rõ về vấn đề này, em xin được chọn đề tài “Phân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước”.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Cơ sở lý luận về bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
1.1 Khái niệm bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp luật mà còn chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội và con người. Vì vậy, bảo đảm cho pháp chế được củng cố, tăng cường và hoàn thiện là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân và cũng là yêu cầu của quá trình hoàn thiện con người và các quyền của họ trong xã hội, đặc biệt trong quá trình quản lý hành chính Nhà nước.
Bảo đảm pháp chế là tổng thể các biện pháp, phương tiện tổ chức – pháp lý do các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân áp dụng nhằm thực hiện chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và các tổ chức ấy cũng như việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân.
1.2 Các yêu cầu bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
Bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước có nghĩa là bằng những cơ chế và hoạt động pháp lý làm cho pháp luật được thực hiện trong thực tế, hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân theo một trật tự nhất định, do đó hoạt động thực thi pháp luật cần phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Hoạt động của các cơ quan nhà nước phải phù hợp với nội dung, mục đích và yêu cầu của pháp luật bởi vì đây là các quy định được ghi nhận trong các văn bản pháp luật, là cơ sở pháp lý để cho các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Hoạt động của các cơ quan nhà nước phải nằm trong khuôn khổ và phạm vi thẩm quyền cũng như là chức năng, nhiệm vụ do pháp luật quy định.
Khi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan nhà nước có quyền ban hành các văn bản pháp luật mang tính quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và giải quyết những vấn đề phát sinh thuộc thẩm quyền quản lý của mình. Vì vậy các văn bản này không được trái với Hiến pháp, luật... cũng như các văn bản pháp luật khác của cơ quan nhà nước cấp trên.
Trong hoạt động ban hành các văn bản pháp luật thì phải quán triệt theo nguyên tắc:
- phải được pháp luật hoá nghĩa là các biện pháp bảo đảm pháp chế đều phải được quy định trong các văn bản pháp luật.
- phải được thực hiện kịp thời, hiệu quả, thường xuyên, liên tục. Hoạt động quản lý luôn diễn ra liên tục, làm phát sinh các quan hệ pháp luật cụ thể và có thể xâm hại đến quyền và lợi ích của đối tượng quản lý do những hành vi trái pháp luật và vô kỷ luật của các chủ thể quản lý. Nếu không thường xuyên sẽ là nguyên nhân dẫn đến sự phá vỡ trật tự quản lý.
- phải được thực hiện một cách toàn diện, công khai và dân chủ. Có như vậy mới thu hút được đông đảo các chủ thể tham gia, bảo vệ và kiểm soát việc thi hành pháp luật. Nếu không sẽ làm giảm hiệu quả của việc đảm bảo pháp luật được tôn trọng và kỷ luật được tăng cường.
Phải bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đảm bảo nguyên tắc này mới tạo điều kiện cho các cơ quan Nhà nước kiểm soát lẫn nhau trong quá trình thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành. Có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, trong việc duy trì trật tự pháp luật, xây dựng và bảo vệ Nhà nước.
2. Khái quát chung về hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
Giám sát là chức năng hiến định của các cơ quan quyền lực nhà nước, được tiến hành dựa trên cơ sở những quy định cụ thể. Giám sát tức là theo dõi, xem xét, kiểm tra và nhận định về một việc làm nào đó đúng hay sai với những điều đã quy định. Giám sát thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể tiến hành hoạt động giám sát và đối tượng chịu sự giám sát. Thực hiện tốt công tác giám sát là đòi hỏi cấp thiết của nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Ở nước ta, khái niệm giám sát được dùng chỉ quyền của nhân dân lao động thông qua hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước. Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc Hội đã quy định: “Giám sát là việc Quốc Hội , Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiếp pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội”. Chức năng này xuất phát từ địa vị - chính trị pháp lý của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Đây là những cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Chính vì vậy những hoạt động của các cơ quan này có sự chi phối và tác động tích cực tới hoạt động của các cơ quan nhà nước khác, trong đó có các cơ quan hành chính cũng như các cơ quan tư pháp. Điển hình là hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước với các cơ quan hành chính cùng cấp đã thể hiện vai trò rất lớn trong việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước:
Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền lực nhà nước một cách thường xuyên và trực tiếp chỉ đạo cũng như kiểm tra mọi mặt công tác của các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp.
Thông qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước có thể phát hiện những yếu kém, những khuyết điểm trong công tác tổ chức và hoạt động cũng như những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật và thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định đối với các cơ quan hành chính nhà nước. Trên cơ sở đó, cơ quan quyền lực nhà nước kịp thời đề ra những thời gian cụ thể và biện pháp thích hợp khắc phục những khó khăn và tồn tại ấy.
Đồng thời, thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có dịp kiểm nghiệm tính hợp lý và hợp pháp của các văn bản pháp luật do chính mình ban hành. Nếu phát hiện thấy khiếm khuyết về hình thức hay nội dung thì các cơ quan quyền lực nhà nước phải đưa ra những biện pháp, giải pháp khắc phục hoặc đưa ra những yêu cầu và những biện pháp cải tiến chế độ, quy trình lập pháp, lập quy nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.
Cũng thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phát hiện ra những vi phạm pháp luật xâm phạm tới trật tự và lợi ích nhà nước, xã hội và công dân của cán bộ nhà nước, từ đó kịp thời xử lý hoặc yêu cầu các cấp, các ngành xử lý nghiêm minh những vi phạm đó nhằm củng cố pháp chế.
Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
Thông qua hoạt động giám sát, cơ quan quyền lực sẽ phát hiện những yếu kém về mặt tổ chức, lệch lạc trong nhận thức, hành động, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích Nhà nước... để từ đó có biện pháp khắc phục, xử lý thích đáng. Cơ quan quyền lực có điều kiện kiểm nghiệm về tính hợp lý, hợp pháp của các qui định cũng như các biện pháp quản lý của mình. Để từ đó từng bước nâng cao hiệu quả của quản lý.
Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đạt được kết quả tốt, góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của công cuộc đổi mới, tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước là dựa trên các hình thức, phương pháp giám sát được triển khai đem lại hiệu quả thiết thực.
3.1 Hoạt động giám sát của Quốc hội
Ngoài chức năng lập hiến, lập pháp thì Quốc hội còn thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội (Điều 83, 84 Hiến pháp 1992; khoản 2 Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội). Quy định này khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vừa khẳng định chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao là Quốc hội.
a. Hình thức hoạt động
Hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau:
Thực hiện trên kỳ họp qua nghe báo cáo của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, thảo luận đánh giá các báo cáo đó.
Thông qua quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kì họp. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc trả lời bằng văn bản.
Các Uỷ ban, Hội đồng của Quốc hội giúp Quốc hội thực hiện quyền giám sát và trên các kì họp báo cáo trước Quốc hội về hoạt động của mình trong các bản báo cáo thẩm tra, thuyết trình… (thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của Uỷ ban pháp luật, thẩm tra thực hiện ngân sách của Uỷ ban kinh tế và ngân sách…). Uỷ ban thường vụ Quốc hội vừa là cơ quan giúp Quốc hội vùa trực tiếp thực hiện giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân; đồng thời có quyền đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định bãi bỏ các văn bản đó, đối với những văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì bãi bỏ.
Các tổ đại biểu và từng đại biểu, một mặt, giúp Quốc hội giám sát hoạt động của Chính phủ; mặt khác, còn trực tiếp giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ quản lý, có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước áp dụng các biện pháp và khắc phục việc làm vi phạm pháp luật, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm. Người phụ trách của các cơ quan, tổ chức, đơn vị có nghĩa vụ trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định. Ngoài ra, hoạt động giám sát của các tổ đại biểu và các đại biểu Quốc hội là thông qua việc tiếp xúc của họ với các cử tri, nghe đề nghị cũng như các yêu cầu và khiếu nại của cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước và các cán bộ có thẩm quyền ở những cơ quan ấy. Ví dụ: Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức tiếp công dân định kỳ từ 2 đến 3 buổi/tuần. Thường trực Đoàn và một số Tổ đại biểu Quốc hội còn thường xuyên tổ chức các buổi làm việc với lãnh đạo quận, huyện uỷ và Uỷ ban nhân dân các quận, huyện có liên quan về một số trường hợp khiếu nại, tố cáo của công dân, qua đó nắm sâu sắc hơn tình hình, kết quả giải quyết cụ thể, đồng thời giám sát, đôn đốc việc giải quyết trực tiếp từ cơ sở. Đối với các đơn thư trùng lắp, nội dung không rõ ràng, Đoàn ĐBQH Thành phố có văn bản trả đơn, hoặc hướng dẫn công dân gửi đơn đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết để tránh tình trạng công dân khiếu nại vượt cấp. Từ 1/1/2004 đến 30/11/2008 đã tổ chức 190 buổi ĐBQH tiếp 1.887 lượt công dân; chuyển, đề nghị xem xét giải quyết 3.429 đơn thư khiếu nại - tố cáo của công dân, nhận được 1.623 công văn trả lời của các cơ quan (tỷ lệ 47,33%). Đồng thời, tổ chức 18 cuộc giám sát việc giải quyết các vụ việc khiếu nại cụ thể. Nhìn chung, nhờ áp dụng các biện pháp trên nên hiệu quả giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân từng bước được nâng lên; thời gian thụ lý chuyển đơn rút ngắn và kịp thời hơn so với trước; các đơn thư do Đoàn ĐBQH chuyển đã nhận được văn bản phúc đáp khá nghiêm túc và kịp thời hơn so với trước đây.
Tính quyền lực trong hoạt động giám sát của Quốc hội đối với bộ máy hành chính nhà nước không chỉ thể hiện về mặt tổ chức như quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập chia, điều chỉnh địa giới tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương, thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt (khoản 8 Điều 84 Hiến pháp 1992) mà còn thể hiện ở đối tượng, phạm vi giám sát mọi lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Quyền giám sát của Quốc hội đối với quản lý hành chính Nhà nước có phạm vi rất lớn, thể hiện rõ tính quyền lực Nhà nước thành lập, bãi bỏ các cơ quan, các chức danh của bộ máy hành chính Nhà nước... và cả trong hoạt động cụ thể của bộ máy hành chính Nhà nước. Chẳng hạn như việc Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh cao nhất của bộ máy nhà nước, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; đặc biệt là quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội (Điều 84 Hiến pháp 1992).
Cơ chế thực hiện quyền giám sát của Quốc hội
Ở góc độ thực tiễn, Quốc hội không thể và không cần thiết phải tự mình trực tiếp thực hiện hoạt động giám sát đó. Cũng như vấn đề thực hiện quyền lực Nhà nước, ở đây đòi hỏi có sự phân công. Quốc hội giao một phần quyền thực hiện hoạt động giám sát của mình cho các cơ quan Nhà nước khác và giám sát kiểm tra theo dõi các cơ quan đó thực hiện sự ủy quyền của mình như thế nào. Ví dụ: Quốc hội có thể giao cho một số cơ quan nhà nước khác như Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao... thực hiện hoạt động giám sát. Các cơ quan này thực hiện hoạt động giám sát trong những lĩnh vực nhất định theo phân công (ủy quyền) của Quốc hội và bản thân hoạt động của những cơ quan này đến lượt mình lại chịu sự giám sát của Quốc hội, Ví dụ: Quốc hội giao cho Chính phủ nhiệm vụ “bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân” (Điều 112 Hiến pháp 1992 sửa đổi); Quốc hội giao cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyền kiểm sát việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật trong hoạt động tư pháp và Quốc hội giám sát hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong lĩnh vực được phân công thông qua các hình thức như nghe báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chất vấn Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao; Hội đồng dân tộc giám sát các hoạt động của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong lĩnh vực dân tộc (chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số và việc thực hiện ngân sách trong lĩnh vực này…)
Quốc hội trực tiếp thực hiện quyền giám sát của mình trong những phạm vi mà Quốc hội thấy cần thiết và quan trọng nhất. Đối tượng giám sát, cách thức giám sát trong trường hợp này luôn có những đặc thù khác với hoạt động giám sát mà Quốc hội ủy quyền. Quốc hội trực tiếp giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và trong các văn bản. Ví dụ: Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành. Theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên, đại biểu Quốc hội thì Quốc hội xem xét, quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; hay việc Uỷ ban thường vụ Quốc hội tự mình hoặc theo đề nghị của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với pháp lệnh và nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó (Điều 82 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật)…
Nội dung giám sát này nhằm đảm bảo cho các văn bản pháp luật của cơ quan hành chính được ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, đúng hiệu lực pháp lý; đảm bảo văn bản pháp luật do cơ quan hành chính cấp dưới ban hành phải phù hợp với văn bản pháp luật của cơ quan cấp trên; đảm bảo giám sát những sơ hở, thiếu sót của các văn bản pháp luật trong quá trình áp dụng.
Qua đây cho thấy, trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao với hoạt động của các cơ quan nhà nước, Quốc hội thực hiện quyền này tập trung trước hết đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước tức là thực hiện quyền lực nhà nước về mặt tổ chức đối với bộ máy hành chính nhà nước.
3.2 Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cũng như các đơn vị trực thuộc. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân địa phương là chức năng chủ yếu của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
a. Hình thức hoạt động
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân được thực hiện thông qua hình thức:
Thực hiện trên kì họp Hội đồng nhân dân bằng cách nghe báo cáo và thảo luận, đánh giá báo cáo của Uỷ ban nhân dân, của cơ quan chuyên môn bằng cách chất vấn trên kỳ họp đối với Chủ tịch và các thành viên Uỷ ban nhân dân, Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban; bằng hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban của hội đồng; bằng hoạt động của các nhóm đại biểu và đại biểu trong khu vực bầu cử.
Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Ngoài ra, một hình thức giám sát quan trọng của Hội đồng nhân dân là việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân (cử tri). Giải quyết khiếu nại, tố cáo của cử tri kịp thời, nhanh chóng, đúng pháp luật là nghĩa vụ của toàn đại biểu Hội đồng nhân dân chứ không phải của riêng bộ phận nào. Làm tốt nhiệm vụ này là một biểu hiện thiết thực nhất xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Hoạt động này cũng chính là điều kiện để Hội đồng nhân dân hoàn thành nhiệm vụ của người đại biểu của dân mà cử tri và nhân dân địa phương đã tín nhiệm giao cho.
b. Phạm vi giám sát
Phạm vi giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm toàn diện mọi vấn đề và lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước đối với mọi cơ quan, tổ chức trên đơn vị hành chính tương ứng bất luận cơ quan, tổ chức đó trực thuộc cơ quan nào. Theo quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân có quyền bầu vã bãi miễn