I. Lý do chọn đề tài.
Đà Nẵng là một thành phố có những bước phát tri ển về kinh tế xã hội vượt bậc
trong những năm gần đây. Định hướng chung của thành phố trong những năm sắp tới là 
hướng tới phát triển thành phố một cách bền vững cả về kinh tế và xã hội. Ngành nông 
nghiệp của thành phố củng không nằm ngoài xu hướng đó, phát triển bền vững nông 
nghiệp sẽ là hướng đi chính trong tương lai. Những năm gần đây, sản suất nông nghiệp 
của thành phố đã có những bước tiến đáng kể, tuy nhiên, so với nhu cầu và tiềm năng 
thì còn nhiều hạn chế, vì vậy việc xác định rõ những kết quả đã đạt được cũng như 
những hạn chế là cần thiết để từ đó có những định hướng và đề ra những giải pháp phát 
triển bền vững nền nông nghiệp thành phố nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và đời 
sống của nhân dân. Xuất phát từ yêu cầu đó, em đã chọn đề tài “Phát triển bền vững 
nông nghiệp Đà Nẵng”
II. Mục đích nghiên cứu.
Đánh giá khái quát thực trạng phát triển nông nghiệp của thành phố Đà Nẵng.
Tìm hiểu các điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội tác động đến quá trình phát 
triển nông nghiệp của thành phố Đà Nẵng.
Phân tích các yếu tố tác động đến phát triển nông nghiệp thành phố đà nẵng một 
cách bền vững.
Định hướng và đưa ra các giải pháp góp phẩn phát triển nông nghiệp thành phố 
bền vững trong tương lai.
III. Bố cục đề tài nghiên cứu.
Bố cục của đề tài bao gồm:
- Phần 1: Cơ sở lý luận chung về nông nghiệp và phát triển bền vững 
nông nghiệp
- Phần 2: Thực trạng phát triển của nông nghiệp thành phố Đà Nẵng.
- Phần 3: Những giải pháp và kiến nghị phát triển bền vững nông 
nghiệp Đà Nẵng.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 67 trang
67 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2670 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển bền vững nông nghiệp Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 
NÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG 
Mở đầu 
I. Lý do chọn đề tài. 
 Đà Nẵng là một thành phố có những bước phát triển về kinh tế xã hội vượt bậc 
trong những năm gần đây. Định hướng chung của thành phố trong những năm sắp tới là 
hướng tới phát triển thành phố một cách bền vững cả về kinh tế và xã hội. Ngành nông 
nghiệp của thành phố củng không nằm ngoài xu hướng đó, phát triển bền vững nông 
nghiệp sẽ là hướng đi chính trong tương lai. Những năm gần đây, sản suất nông nghiệp 
của thành phố đã có những bước tiến đáng kể, tuy nhiên, so với nhu cầu và tiềm năng 
thì còn nhiều hạn chế, vì vậy việc xác định rõ những kết quả đã đạt được cũng như 
những hạn chế là cần thiết để từ đó có những định hướng và đề ra những giải pháp phát 
triển bền vững nền nông nghiệp thành phố nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và đời 
sống của nhân dân. Xuất phát từ yêu cầu đó, em đã chọn đề tài “Phát triển bền vững 
nông nghiệp Đà Nẵng” 
II. Mục đích nghiên cứu. 
 Đánh giá khái quát thực trạng phát triển nông nghiệp của thành phố Đà Nẵng. 
 Tìm hiểu các điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội tác động đến quá trình phát 
triển nông nghiệp của thành phố Đà Nẵng. 
 Phân tích các yếu tố tác động đến phát triển nông nghiệp thành phố đà nẵng một 
cách bền vững. 
 Định hướng và đưa ra các giải pháp góp phẩn phát triển nông nghiệp thành phố 
bền vững trong tương lai. 
III. Bố cục đề tài nghiên cứu. 
 Bố cục của đề tài bao gồm: 
- Phần 1: Cơ sở lý luận chung về nông nghiệp và phát triển bền vững 
nông nghiệp 
- Phần 2: Thực trạng phát triển của nông nghiệp thành phố Đà Nẵng. 
- Phần 3: Những giải pháp và kiến nghị phát triển bền vững nông 
nghiệp Đà Nẵng. 
IV. Phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu. 
Phương pháp nghiên cứu: Áp dụng kết hợp nhiều phương pháp như: so sánh, 
thống kê, phân tích đánh giá... để làm rỏ vấn đề nghiên cứu. 
 Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu tập trung chủ yếu trên địa bàn thành phố 
Đà Nẵng. Bên cạnh đó có nêu thêm kinh nghiệm phát triển bền vững nông nghiệp của 
một số địa phương . 
 Trong quá trình nghiên cứu dù đã tích cực tìn hiểu về lý luận củng như thâm 
nhập thực tế để làm rỏ vấn đề nhưng với hiểu biết còn hạn chế của minh nên không 
tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót, rất mong được sự quan tâm, góp ý của thầy cô và 
các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn. 
 Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đở của giáo viên hướng dẩn thạc sỉ Lê Bảo 
đã tận tình hướng dẩn em hoàn thành đề tài trong suốt thời gian thực hiện để tài. 
 Em xin chân thành cảm ơn các cô (chú), anh (chị) tại phòng Xây dựng cơ bản, 
Sở Kế hoạch – Đầu tư thành phố Đà Nẵng đã tạo điều kiện cho em tham gia thực tập và 
tìm kiếm tài liệu, số liệu để hoàn thành đề tài nghiên cứu. 
Phần 1 
 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 
NÔNG NGHIỆP. 
I. Nông nghiệp. 
1. Khái niệm. 
Nông nghiệp là ngành có lịch sử phát triển lâu đời, các hoạt động nông 
nghiệp đã có từ hàng ngàn năm nay kể từ khi con người từ bỏ nghề săn bắn và hái 
lượm. Do lịch sử lâu đời này mà nông nghiệp thương được nói đến như là nền kinh 
tế truyền thống. Ngày nay mặc dù với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật con người đã 
sản xuất được những máy móc thiết bị hiện đại nhưng người nông dân vẩn thường 
áp dụng những kỹ thuật đã phát triển từ hàng trăm nghìn năm trước để trồng trọt. 
2. Đặc điểm vai trò của nông nghiệp. 
Nông nghiệp là ngành tạo ra sản phẩm thiết yếu nhất cho con người. Lương 
thực thực phẩm chỉ có ngành nông nghiệp mới sản xuất ra. Trên thực tế phần lớn 
các sản phẩm chế tạo có thể thay thế nhưng không có sản phẩm nào có thể thay thế 
lương thực. Do đó nước nào củng phải sản xuất hoặc nhập khẩu lương thực để phục 
vụ nhu cầu của mình. 
Hoạt động sản xuât nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan. 
Trước hết nông nghiệp khác cơ bản với các ngành khác ở chổ tư liệu sản xuất chủ 
yếu là đất đai, điều kiện tự nhiên. Ngành nào tiến hành sản xuất kinh doanh củng 
cần đất đai, nhưng không có ngành nào đất đai đóng vai trò chủ đạo như nông 
nghiệp. Gắn liền với vai trò của đất đai là ảnh hưởng của thời tiết. Củng không có 
ngành nào, ngoài nông nghiệp phụ thuộc vào sự biến động thất thường của thời tiết 
như vậy. Cùng với sự biến động của thời thiết, điều kiện thổ nhưỡng, độ màu mở 
của đất đai mổi nơi mổi khác nên việc lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi và kỹ 
thuật canh tác củng khác nhau. Trong nông nghiệp sự khác nhau về chất lượng đất 
trồng, khí hậu, nguồn nước sẳn có dẩn đến việc sản xuất chủng loại cây khác nhau 
và sử dụng các biện pháp canh tác khác nhau. 
Ngành nông nghiệp có đặc điểm là tỷ trọng lao động và sản phẩm trong nền 
kinh tế có xu hướng giảm dần. Ở các nước đang phát triển nông nghiệp tập trung 
nhiều lao động hơn hẳn với các ngành khác, trung bình thường chiếm từ 60% - 80% 
lực lượng lao động xã hội. Ngược lại ở các nước phát triển tỷ lệ này không quá 
10%. Về sản phẩm, giá trị sản lượng nông nghiệp ở các nước đang phát triển thường 
chiếm từ 30 – 60%, trong khi ở các nước phát triển tỷ lệ này thường dưới 10%. Sự 
biến động này chịu sự tác động của quy luật tiêu dùng sản phẩm và quy luật tăng 
năng suất lao động. 
3. Tác động của nông nghiệp đến tăng trưởng và phát triển. 
Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đặc biệt với các 
nước đang phát triển 
Khu vực nông nghiệp củng có thể là một nguồn cung cấp vốn cho phát triển 
kinh tế. Ở các nước không giàu tài nguyên (như dầu hỏa) thì nông sản đóng vai trò 
quan trọng trong xuất khẩu, và ngoại tệ thu được sẽ dùng để nhập khẩu máy móc, 
trang thiết bị cơ bản và những sản phẩm trong nước chưa sản xuất được. Trừ một số 
ít nước dựa vào nguồn tài nguyên phong phú (dầu mỏ, khoáng sản...) để xuất khẩu, 
đổi lấy lương thực cho nhu cầu tiêu dùng của dân số nông thôn củng như thành thị. 
Nông nghiệp còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động kinh tế. Với hơn 70% 
dân số ở nông thôn thực sự là nguồn nhân lực dự trử dồi dào cho khu vự thành thị. 
Để đáp ứng nhu cầu lâu dài về mặt phát triển kinh tế, việc gia tăng dân số ở khu vực 
thành thị sẽ không đủ khả năng đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hóa đất nước. 
Là ngành cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Các sản phẩm của 
ngành nông nghiệp là nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào quan trọng của công 
nghiệp chế biến qua đó sẽ nâng cao giá trị của nông sản trên thị trường đặc biệt là 
hướng vào sản phẩm xuất khẩu. 
Tạo việc làm cho đa số lao động nông thôn. Nông nghiệp tạo ra thu nhập 
chính cho bộ phận dân cư ở nông thôn. 
4. Tác động môi trường của nông nghiệp. 
Trong khi sử dụng (và thường sử dụng chưa hợp lý) các nguồn tài nguyên 
thiên nhiên nông nghiệp có thể gây ra các tác động môi trường tích cực hoặc tiêu 
cực. Đến nay, nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều nước nhất và làm cho nguồn 
nước ngày càng khan hiếm. nông nghiệp là yếu tố chính làm suy kiệt nguồn nước 
ngầm, ô nhiểm hóa chất nông nghiệp, bạc màu đất và thay đổi khí hậu toàn cầu khi 
chiếm tới 30% lượng phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên nông nghiệp củng là nới 
cung cấp chính các dịch vụ môi trường thường không được công nhận và không 
được trả tiền như cố định cacbon, quản lý lưu vực sông và bảo tồn đa dạng sinh học. 
Với tình trạng khan hiếm nguồn tài nguyên ngày càng gia tăng, thay đổi khí hậu dẩn 
đến những quan ngại về sự biến đổi môi trường và cái giá phải trả trong tương lai, 
kiểu nông nghiệp hiện nay không phải là một cách hay. Quản lý các mối quan hệ 
giữa nông nghiệp, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường là một phần không 
thể tách rời khỏi nông nghiệp vì sự phát triển. 
II. Phát triển bền vững và phát triển bền vững nông nghiệp. 
1. Khái niệm. 
Để duy trì sự sống của bản thân và tiếp tục sự phát triển của nòi giống, ngay 
từ thời kỳ nguyên thuỷ của lịch sử nhân loại, con người đã có những hoạt động khai 
thác tài nguyên thiên nhiên, chế biến thành những vật phẩm cần thiết cho mình, 
hoặc để cải thiện những điều kiện thiên nhiên, tạo nên môi trường sống thích hợp 
với mình. Trong lúc tiến hành những hoạt động đó, con người ít nhiều đã biết rằng 
mọi can thiệp vào tài nguyên thiên nhiên và môi trường luôn luôn có hai mặt lợi, hại 
khác nhau đối với cuộc sống trước mắt và lâu dài của con người. Một số kiến thức 
và biện pháp thiết thực để ngăn ngừa những tác động thái quá đối với môi trường đã 
được đúc kết và truyền đạt từ thế hệ này qua thế hệ khác dưới dạng những tín 
ngưỡng và phong tục. Trong các xã hội công nghiệp, với sự phát hiện những nguồn 
năng lượng mới, vật liệu mới và kỹ thuật sản xuất tiến bộ hơn nhiều, con người đã 
tác động mạnh mẽ vào tài nguyên thiên nhiên và môi trường, can thiệp một cách 
trực tiếp và nhiều khi thô bạo vào các hệ thiên nhiên. Để “chế ngự” thiên nhiên, con 
người nhiều khi đã tạo nên những mâu thuẫn sâu sắc giữa mục tiêu phát triển của xã 
hội loài người với các quá trình diễn biến của tự nhiên. Để đạt tới những năng suất 
cao trong sản xuất nông nghiệp, con người đã chuyển đổi các dòng năng lượng tự 
nhiên, cắt nối các mắt xích thức ăn vốn có của thiên nhiên, đơn điệu hoá các hệ sinh 
thái, sử dụng năng lượng bổ sung to lớn để duy trì những cân bằng nhân tạo mong 
manh. Đặc biệt là trong nửa cuối thế kỷ 20, sau những năm hồi phục hậu quả của 
thế chiến lần thứ hai, hàng loạt nước tư bản chủ nghĩa cũng như xã hội chủ nghĩa 
tiếp tục đi sâu vào công nghiệp hoá, nhiều nước mới được giải phóng khỏi chế độ 
thực dân cũng có điều kiện phát triển mạnh mẽ nền kinh tế của mình. Một số nhân 
tố mới như cách mạng khoa học và kỹ thuật, sự bùng nổ dân số, sự phân hoá các 
quốc gia về thu nhập đã tạo nên nhiều nhu cầu và khả năng mới về khai thác tài 
nguyên thiên nhiên và can thiệp vào môi trường. Trật tự bất hợp lý về kinh tế thế 
giới đã tạo nên hai loại ô nhiễm: “ô nhiễm do thừa thãi” tại các nước tư bản chủ 
nghĩa phát triển và: “ô nhiễm do đói nghèo” tại các nước chậm phát triển về kinh tế. 
Có thể nói rằng mọi vấn đề về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển. 
Nhưng con người cũng như tất cả mọi sinh vật khác không thể ngừng tiến hoá và 
ngừng sự phát triển của mình. Đó là qui luật của sự sống, của tạo hoá mà vạn vật 
đều phải tuân theo một cách tự giác hay không tự giác. Con đường để giải quyết 
mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển, nhưng giữ sao 
cho phát triển không tác động một cách tiêu cực tới môi trường. Phát triển đương 
nhiên sẽ biến đổi môi trường, nhưng làm sao cho môi trường vẫn làm đầy đủ các 
chức năng: đảm bảo không gian sống với chất lượng tốt cho con người, cung cấp 
cho con người các loại tài nguyên cần thiết, tái xử lý các phế thải của hoạt động của 
con người, giảm nhẹ tác động bất lợi của thiên tai, duy trì các giá trị lịch sử văn hoá, 
khoa học của loài người. Hay nói một cách khác đó là: phát triển bền vững (PTBV). 
Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại 
của con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ 
tương lai. Phát triển bền vững là một phương hướng phát triển được các quốc gia 
trên thế giới ngày nay hướng tới, đó là niềm hy vọng lớn của toàn thể loài người 
PTBV có đặc điểm: 
 (1) - Sử dụng đúng cách nguồn tài nguyên thiên nhiên mà không làm tổn hại 
hệ sinh thái và môi trường 
 (2) - Tạo ra các nguồn vật liệu và năng lượng mới 
 (3) - Ứng dụng công nghệ sạch, công nghệ phù hợp với hoàn cảnh địa 
phương 
 (4) - Tăng sản lượng lương thực, thực phẩm 
 (5) - Cấu trúc và tổ chức lại các vùng sinh thái nhân văn để phong cách và 
chất lượng cuộc sống của ngươì dân đều thay đổi theo hướng tích cực 
Mục tiêu cuối cùng của PTBV là thỏa mãn yêu cầu căn bản của con người, 
cải thiện cuộc sống, bảo tồn và quản lý hữu hiệu hệ sinh thái, bảo đảm tương lai ổn 
định. PTBV thực hiện và đảm bảo sự liên đới giữa các thế hệ, giữa các quốc gia, 
giữa hiện tại với tương lai. PTBV có tính chất đa diện, thống nhất, toàn bộ. Muốn 
PTBV phải lồng ghép được 3 thành tố quan trọng của sự phát triển với nhau: phát 
triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là nguyên lý chung để 
hướng sự phát triển bền vững của các lĩnh vực trong nền kinh tế. 
Cùng với định nghĩa về PTBV, khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững 
cũng hình thành. Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, những vấn đề đặt ra chủ 
yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp: bảo vệ môi trường đất, nước và khởi xuớng 
một số hệ thống canh tác bền vững. Mục đích của nông nghiệp bền vững là kiến tạo 
một hệ thống bền vững về sinh thái, có tiềm lực về kinh tế, có khả năng thoả mãn 
những nhu cầu của con người mà không huỷ diệt đất đai, không làm ô nhiễm môi 
trường. Thông tin về các mô hình canh tác tổng hợp, canh tác bền vững trên đất dốc, 
phòng trừ sâu bệnh tổng hợp… 
Phát triển Nông nghiệp và bền vững là quá trình đa chiều bao gồm: (i) tính 
bền vững của chuỗi lương thực (từ người sản xuất đến tiêu thụ, liên quan trực tiếp 
đến cung cấp đầu vào, chế biến và thị trường); (ii) tính bền vững trong sử dụng tài 
nguyên đất và nước về không gian và thời gian; (iii) khả năng tương tác thương mại 
trong tiến trình phát triển nông nghiệp và nông thôn để đảm bảo cuộc sống đủ, an 
ninh lương thực trong vùng và giữa các vùng. 
Các khái niệm về phát triển nông nghiệp bền vững 
a. Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại nhưng vẫn đảm 
bảo khả năng phát triển ấy trong tương lai. 
b. Phát triển nông nghiệp bền vững là gia tăng sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu 
lương thực, thực phẩm càng cao và đảm bảo cho giá giảm dần. 
c. Phát triển nông nghiệp bền vững là nên duy trì trình độ sản xuất cần thiết đáp 
ứng nhu cầu tăng dân số mà không làm suy thoái môi trường. 
d. Phát triển nông nghiệp bền vững là duy trì sự cân bằng giữa sự tăng trưởng 
và cân bằng sinh thái. 
e. Phát triển nông nghiệp bền vững được hiểu là tối đa hoá lợi ích kinh tế trên 
cơ sở ràng buộc bởi duy trì chất lượng của nguồn lực tự nhiên theo thời gian 
và tuân thủ các quy luật sau: 
- Đối với tài nguyên tái sinh thì sử dụng ở mức thấp hơn hoặc bằng 
- Đối với tài nguyên không tái sinh thì tối ưu hoá hiệu quả sử dụng chúng 
bằng giải pháp hợp lý từ các yếu tố đầu vào ( phân bón, kỹ thật canh tác…) 
f. Phát triển nông nghiệp bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu tăng trưởng 
chung của nền kinh tế nhưng không làm suy thoái môi trường tự nhiên – con 
người và đảm bảo trên mức nghèo đói của người dân nông thôn. 
g. Phát triển nông nghiệp bền vững là đảm bảo an ninh lương thực, tăng cải tổ 
kinh tế khắc phục nghèo đói và tạo điều kiện tăng tốc công nghiệp hoá. 
h. Phát triển bền vững được hiểu là giữ vững tốc độ tăng trưởng về sản xuất lẫn 
y tế và giáo dục qua nhiều năm hay thập kỷ. 
i. Phát triển nông nghiệp bền vững là cực đại hoá phúc lợi hiện tại không làm 
giảm thiểu các phúc lợi ấy trong tương lai. 
j. Phát triển nông nghiệp bền vững là hướng phát triển mà trong đó giá trị của 
vốn thiên nhiên không bị suy giảm qua thời gian. 
2. Những nguyên lý của canh tác bền vững 
2.1 Quản lý đất bền vững 
Tài nguyên đất là điều kiện thiết yếu để trồng trọt. Nhu cầu ngày càng tăng 
của con người về đất và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác đang làm nảy sinh 
những cạnh tranh và mâu thuẫn. Nếu muốn làm thoả mãn nhu cầu đòi hỏi của con 
người một cách lâu bền, chúng ta phải giải quyết những mâu thuẫn đó, và tìm cách 
sử dụng đất và các tài nguyên thiên nhiên khác một cách có hiệu quả và hiệu suất 
hơn. 
Mục tiêu là để làm cho đất được sử dụng theo những cách đảm bảo thu được 
những lợi ích lâu bền lớn nhất. Cách để làm giảm thiểu các mâu thuẫn và đạt được 
kết quả tốt nhất và sự lựa chọn thích hợp nhất là phải liên kết để phát triển kinh tế 
và xã hội với vấn đề củng cố và bảo vệ môi trường. Hơn nữa trong hoàn cảnh phải 
thoả mãn nhu cầu nuôi sống số dân đang tăng nhanh mà quỹ đất trồng trọt, nguồn 
nước ngày càng cạn kiệt và chúng ta không được quyền mở rộng trên những diện 
tích không phù hợp. 
Quản lý đất bền vững tuỳ thuộc vào từng loại đất cụ thể. Ở những nơi đất ổn 
định, phì nhiêu thì việc trồng cấy và quản lý canh tác sẽ theo phương thức bền vững, 
bù đủ lượng dinh dưỡng trong các sản phẩm thu hoạch và cây trồng mang theo. Còn 
những vùng đất xấu cần xác định những phương thức quản lý và sản xuất thích hợp. 
. Biện pháp quản lý đất bền vững nhằm tránh sự thoái hoá đất, duy trì độ phì chính 
dựa vào Quy trình quản lý tốt nhất (Best Management Practice - BMP). Quy trình 
này bao gồm : 
- Bảo vệ cấu trúc đất và hàm lượng hữu cơ của đất 
- Quản lý dinh dưỡng 
- Bảo vệ đất bằng cây che phủ 
- Trồng rừng 
- Duy trì độ phì đất 
Sử dụng những phương pháp canh tác tiến bộ (làm đất và sử dụng máy móc, 
đặc biệt ở những vùng dễ bị tổn thương) và các quy trình gieo trồng thích hợp. 
2.2 Quản lý sâu bệnh bền vững 
Quản lý sâu bệnh bền vững và nông nghiệp bền vững cùng chung mục tiêu là 
phát triển hệ thống nông nghiệp hoàn thiện về sinh thái và kinh tế. Quy trình phòng 
trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM) có thể coi như cấu thành chủ đạo trong hệ thống phát 
triển nông nghiệp bền vững. 
Quản lý sâu bệnh là vấn đề sinh thái. Quy trình phòng trừ dịch hại tổng hợp 
(IPM) là phương pháp dựa trên cơ sở sinh thái về mối quan hệ cây trồng/dịch hại để 
kiểm soát côn trùng, cỏ dại; xây dựng ngưỡng chấp nhận kinh tế về quần thể gây hại 
và hệ thống quan trắc ổn định để phát hiện dự báo dịch hại. Chương trình này gồm 
nhiều kỹ thuật như: sử dụng các giống kháng/chống chịu; luân canh; các kỹ thuật 
trồng trọt; tối ưu việc sử dụng phòng trừ sinh học; sử dụng hạt giống công nhận; xử 
lý hạt giống; sử dụng hạt giống/vật liệu nhân giống sạch bệnh; điều chỉnh thời vụ 
gieo trồng; hợp lý về thời gian sử dụng thuốc bảo vệ thực vật; làm vệ sinh đồng 
ruộng khi bị nhiễm sâu bệnh... 
Những biểu hiện thay đổi về quy mô dịch bệnh, mức độ gây hại là sự phản 
ánh chính xác phương thức thực hiện và quản lý sâu bệnh. Bước đầu tiên trong việc 
phòng trừ dịch hại bền vững cần phải xem xét hệ sinh thái nông nghiệp, những điều 
kiện để áp dụng phương thức quản lý phù hợp để phòng trừ sâu bệnh hiệu quả nhất, 
bảo vệ thiên địch, những động vật ký sinh…Thực tế, côn trùng cỏ dại và sinh vật 
hoang dã là những thành phần của tự nhiên của các hệ sinh thái với những vai trò 
được quy định của chúng. Những loại hại này có vai trò cần được đánh giá đúng và 
chỉ nên gọi là gây hỗn loạn khi chúng tranh chấp thức ăn hoặc gây hại đến mức con 
người không chấp nhận được. Nguyên nhân gây hại theo nhiều tài liệu chính là quá 
trình phá vỡ hệ thống sinh thái tự nhiên. Một ví dụ thể hiện rõ nhất sự khác nhau 
giữa phương thức canh tác hiện tại và nông nghiệp bền vững là hiện tượng mất cân 
bằng trong hệ thống côn trùng sâu hại mà hiện nay thế giới đang phải chịu hậu quả 
nặng nề: như dịch châu chấu, dịch sâu róm, chuột hại… 
Trong hệ thống sản xuất lương thực, việc thường sử dụng các hoá chất tổng 
hợp chứng tỏ là dùng lượng đầu vào với năng lượng rất lớn cho hệ nông nghiệp, và 
kèm theo cả những chi phí nhìn thấy và chi phí không thấy được của nông dân và xã 
hội. Khái niệm phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM) truyền thống là quản lý sâu bệnh 
dựa vào những tương tác giữa chúng với các cá thể khác và môi trường. 
Nếu tất cả đều sử dụng rộng rãi thuốc trừ sâu tổng hợp để bảo vệ cây trồng 
thì sẽ gây hậu quả không tốt với môi trường, khả năng hồi phục của công trùng, tính 
kháng thuốc, tác động có tính gây chết và nửa chết đối với sinh vật, kể cả tác động 
đến con người. Những tác động này đang là mối quan tâm của công chúng, mặt 
khác với nhu cầu ngày càng tăng của môi sinh sạch (không khí sạch, nước sạch, các 
tập tính sống của động vật hoang dã) và thiên nhiên đẹp. Rõ ràng xu hướng giảm sự 
phụ thuộc vào hoá chất trong sản xuất nông nghiệp đang được xem là chiến lược đối 
với nông dân. 
Chiến lược phòng trừ thông qua hệ thống trồng trọt. 
Tạo điều kiện cho hoạt tính đất tốt về sinh học và dinh dưỡng (tăng cường sự 
đa dạng dưới mặt đất). 
Tạo tập tính