Chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân
hàng chiếm vị trí quan tr ọng, đã trở thành một trong những lĩnh vực kích thích sự phát triển
của toàn bộ nền kinh tế nước ta. Hoạt động của Ngân hàng thương mại (NHTM) ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết, thu hút, cung cấp vốn và dịch vụ ngân hàng cho sự
phát triển kinh tế đất nước.
Thời gian qua, hệ thống NHTM ở nước ta không ngừng đổi mới và đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể, đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp đổi mới kinh tế đất nước. Tuy nhiên,
hoạt động của các NHTM còn mang nhiều dấu ấn của loại hình ngân hàng cổ điển, thể hiện
ở chỗ: tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu, mặc dù tín dụng là hoạt động tiềm ẩn nhiều
rủi ro. Cho đến nay, các loại hình dịch vụ ngân hàng còn nghèo nàn, chất lượng dịch vụ
thấp, thị trường còn hạn hẹp. Do vậy, cùng với việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng
thì việc đa dạng hoá và phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng là xu thế tất yếu trong hoạt
động kinh doanh của các NHTM nước ta, phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời cũng là mục tiêu nhằm hiện đại hoá hoạt động kinh
doanh của các NHTM.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghi ệp và Phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) Quảng Nam
cũng nằm trong tình trạng chung đó. Hơn nữa, việc phát triển dịch vụ ngân hàng còn là
giải pháp hữu hiệu thúc đẩy các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng khác của chi nhánh phát
triển, khắc phục những hạn chế của hoạt động tín dụng, nâng cao sức cạnh tranh của
NHNo&PTNT Quảng Nam. Ngoài ra, cùng với sự phát triển kinh tế trong tỉnh, đời
sống nhân dân không ngừng được cải thiện, nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng của nền kinh tế và của dân c ư ngày càng tăng. Do đó, phát triển các dịch vụ ngân
hàng đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế và đời sống xã hội là đòi hỏi khách quan.
Tuy nhiên, quá trình phát triển dịch vụ ngân hàng của NHNo&PTNT Quảng Nam trong
những năm qua quá chậm, chưa tương xứng với yêu cầu thực tế đặt ra.
Chính vì thế, Đề tài “Phát triển dịch vụ ngân hàng tại Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Quảng Nam” được chọn làm đối tượng nghiên cứu trong luận
văn này.
83 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1841 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển dịch vụ ngân hàng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát triển dịch vụ ngân hàng tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Quảng Nam
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân
hàng chiếm vị trí quan trọng, đã trở thành một trong những lĩnh vực kích thích sự phát triển
của toàn bộ nền kinh tế nước ta. Hoạt động của Ngân hàng thương mại (NHTM) ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết, thu hút, cung cấp vốn và dịch vụ ngân hàng cho sự
phát triển kinh tế đất nước.
Thời gian qua, hệ thống NHTM ở nước ta không ngừng đổi mới và đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể, đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp đổi mới kinh tế đất nước. Tuy nhiên,
hoạt động của các NHTM còn mang nhiều dấu ấn của loại hình ngân hàng cổ điển, thể hiện
ở chỗ: tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu, mặc dù tín dụng là hoạt động tiềm ẩn nhiều
rủi ro. Cho đến nay, các loại hình dịch vụ ngân hàng còn nghèo nàn, chất lượng dịch vụ
thấp, thị trường còn hạn hẹp. Do vậy, cùng với việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng
thì việc đa dạng hoá và phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng là xu thế tất yếu trong hoạt
động kinh doanh của các NHTM nước ta, phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời cũng là mục tiêu nhằm hiện đại hoá hoạt động kinh
doanh của các NHTM.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) Quảng Nam
cũng nằm trong tình trạng chung đó. Hơn nữa, việc phát triển dịch vụ ngân hàng còn là
giải pháp hữu hiệu thúc đẩy các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng khác của chi nhánh phát
triển, khắc phục những hạn chế của hoạt động tín dụng, nâng cao sức cạnh tranh của
NHNo&PTNT Quảng Nam. Ngoài ra, cùng với sự phát triển kinh tế trong tỉnh, đời
sống nhân dân không ngừng được cải thiện, nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng của nền kinh tế và của dân cư ngày càng tăng. Do đó, phát triển các dịch vụ ngân
hàng đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế và đời sống xã hội là đòi hỏi khách quan.
Tuy nhiên, quá trình phát triển dịch vụ ngân hàng của NHNo&PTNT Quảng Nam trong
những năm qua quá chậm, chưa tương xứng với yêu cầu thực tế đặt ra.
Chính vì thế, Đề tài “Phát triển dịch vụ ngân hàng tại Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Quảng Nam” được chọn làm đối tượng nghiên cứu trong luận
văn này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có những công trình khoa học, các bài nghiên
cứu về hoạt động kinh doanh của NHTM nói chung, NHNo&PTNT Việt Nam nói riêng
được công bố, như :
- “Đổi mới quản lý hoạt động tín dụng ngân hàng cấp cơ sở, nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế nông thôn” (lấy Nam Hà làm ví dụ) của Phạm Hồng Cờ - Luận án PTS. Khoa
học kinh tế; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường” của Võ Văn Lâm- Luận án
Tiến sĩ kinh tế; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Phát triển Dịch vụ ngân hàng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam- Thực trạng
và giải pháp” của Trần Xuân Hiệu - Luận văn Thạc sĩ Kinh tế; Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh.
ở các công trình khoa học trên, các loại hình dịch vụ ngân hàng chỉ được đề cập như
một giải pháp hoặc lồng ghép trong các nội dung nhằm đổi mới hoạt động của ngân hàng ở
nhiều địa phương thông qua NHCT, NHNo&PTNT. Riêng đề tài “Phát triển Dịch vụ ngân
hàng tại NHCT Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” của Thạc sĩ Trần Xuân Hiệu đã
nghiên cứu sâu về dịch vụ ngân hàng, nhưng triển khai cụ thể ở NHCT Việt Nam. Cho đến
nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống về phát triển dịch vụ ngân
hàng ở NHNo&PTNT Quảng Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã chú trọng kế thừa và chọn lọc
những ý tưởng liên quan đến đề tài nhằm phục vụ cho việc phân tích làm rõ những vấn đề
lý luận cơ bản và giúp cho quá trình tìm tòi đề xuất các giải pháp nhằm mở rộng và phát
triển các loại hình dịch vụ ngân hàng ở NHNo&PTNT Quảng Nam trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các khả năng, điều kiện, giải pháp nhằm phát
triển các dịch vụ ngân hàng của NHNo&PTNT Quảng Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Phù hợp với mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá và làm rõ về nội dung, vai trò của dịch vụ ngân hàng trong hoạt
động kinh doanh của NHTM.
- Phân tích thực trạng hoạt động dịch vụ ngân hàng tại NHNo&PTNT Quảng Nam
trong những năm gần đây, rút ra những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc và
nguyên nhân.
- Đề xuất giải pháp nhằm mở rộng và phát triển dịch vụ ngân hàng của
NHNo&PTNT Quảng Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu trong luận văn
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các loại hình dịch vụ phi tín dụng của
NHNo&PTNT Quảng Nam, các nghiệp vụ khác chỉ đề cập ở mức độ nhằm đảm bảo tính
tổng thể trong quá trình nghiên cứu. Thời gian nghiên cứu: từ năm 2001 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu trong luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp truyền thống của Chủ nghĩa Mác -Lênin như
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng phương pháp hệ
thống, thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp, diễn giải và quy nạp, để nghiên cứu đưa ra
kết luận và kiến nghị về vấn đề xem xét.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn hệ thống hoá lý luận về phát triển dịch vụ của NHTM trong điều kiện
Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra được bức tranh khái quát về sự phát triển các dịch vụ của NHNo&PTNT
Quảng Nam trong những năm gần đây.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp giúp NHNo&PTNT Quảng Nam mở rộng và phát
triển các loại hình dịch vụ trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương, 08 tiết và 09 biểu bảng.
đưa ra khái niệm dịch vụ bằng cách liệt kê và phân loại hoạt động dịch vụ thành 12
ngành lớn và 155 phân ngành nhỏ.
ở Việt Nam cũng có nhiều khái niệm khác nhau về dịch vụ. Theo từ điển Bách khoa
Việt Nam “Dịch vụ là các hoạt động phục vụ, nhằm thoả mãn những nhu cầu sản xuất
kinh doanh và sinh hoạt” [33, tr.167]. Một công trình nghiên cứu khác lại khái niệm dịch
vụ “Dịch vụ là các lao động của con người được kết tinh trong giá trị của kết quả hay
trong giá trị các loại sản phẩm vô hình và không thể nắm bắt được” [21, tr.14].
Có thể hiểu dịch vụ bằng cách tìm ra các đặc điểm nổi bật và khác biệt giữa dịch vụ
trong so sánh với hàng hoá. Cụ thể là:
- Dịch vụ mang tính vô hình: Khác với hàng hoá, dịch vụ không tồn tại dưới dạng
vật chất cụ thể, không định hình và cố định dưới vỏ vật chất nào đó nên khó xác định chất
lượng dịch vụ theo cách xác định các chỉ tiêu chất lượng hàng hoá.
- Quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời. Người tạo ra dịch vụ và
người hưởng dịch vụ cùng tham gia một quá trình, do đó không thể lưu trữ dịch vụ.
- Sản phẩm dịch vụ mang tính đơn chiếc, thích ứng trực tiếp với từng người tiêu
dùng nên không thể sản xuất dịch vụ hàng loạt và cũng không thể đầu cơ dịch vụ.
Với những đặc điểm nêu trên thì khái niệm dịch vụ được hiểu theo nghĩa rất rộng,
bao trùm nhiều lĩnh vực, trong đó dịch vụ ngân hàng là một nhánh rất nhỏ trong toàn bộ
các ngành dịch vụ.
Luật các TCTD của Việt Nam không đưa ra một khái niệm cụ thể hoặc giải thích
từ ngữ với khái niệm dịch vụ ngân hàng mà chỉ đề cập đến thuật ngữ “hoạt động ngân
hàng” trong khoản 7, điều 20: “là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với
nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng
dịch vụ thanh toán”. Luật các TCTD cũng dành các mục 1,2,3,4 của chương 3 nêu các
điều khoản về hoạt động của TCTD. Theo đó, có thể hiểu hoạt động ngân hàng được chia
theo 4 mảng lớn: huy động vốn; tín dụng; thanh toán và ngân quỹ; và các hoạt động
khác. Tuy nhiên, trong nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn ở Việt Nam, đã có
những quan điểm khác nhau về dịch vụ ngân hàng, nhưng chung nhất dịch vụ ngân hàng
là những công việc do ngân hàng thực hiện để tìm kiếm lợi nhuận.
Đối với nền kinh tế, bản thân hoạt động của ngân hàng được coi là một ngành dịch
vụ. Trong bản thân ngành ngân hàng các hoạt động kinh doanh được phân biệt thành hai
loại cơ bản:
- Kinh doanh tiền tệ: chủ yếu là hoạt động huy động vốn và cho vay.
- Dịch vụ ngân hàng: là các hoạt động ngoài hai hoạt động trên.
Nói cách khác, dịch vụ ngân hàng được hiểu là các hoạt động phi tín dụng của
ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng trong hoạt động thanh toán, đầu
tư, cất trữ tài sản và các tiện ích khác.
1.1.2. Các loại dịch vụ ngân hàng
1.1.2.1. Dịch vụ thanh toán
Dịch vụ thanh toán chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động của NHTM, nó tạo
điều kiện cho nhiều dịch vụ ngân hàng khác phát triển, đồng thời nó là cơ sở để thực hiện
thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Nhìn vào hệ thống thanh toán của một
ngân hàng, người ta có thể đánh giá trình độ và quy mô hoạt động của ngân hàng đó. Có
các loại dịch vụ thanh toán sau:
a. Thanh toán chuyển tiền trong nước:
Thanh toán chuyển tiền là một loại hình dịch vụ ngân hàng, trong đó ngân hàng thực
hiện chuyển tiền từ ngân hàng này đi một ngân hàng khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ
chức hoặc ngân hàng thực hiện nghiệp vụ trích một khoản tiền từ tài khoản của khách hàng
theo lệnh của chủ tài khoản để ghi có cho người thụ hưởng. Khi hoàn thành dịch vụ thanh
toán cho khách hàng, ngân hàng thu được một khoản phí nhất định.
Để thực hiện yêu cầu thanh toán của khách hàng, ngân hàng sử dụng các phương
thức thanh toán và công cụ thanh toán không dùng tiền mặt.
- Về phương thức thanh toán, gồm có:
+ Thanh toán trong nội bộ ngân hàng
+ Thanh toán giữa các chi nhánh trong cùng hệ thống
+ Thanh toán liên ngân hàng và kho bạc trong phạm vi khu vực và quốc gia.
- Về công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, gồm có:
+ Séc
+ Uỷ nhiệm chi
+ Uỷ nhiệm thu
+ Thẻ thanh toán...
b. Thanh toán chuyển tiền quốc tế:
Thanh toán quốc tế (TTQT) là việc chi trả các nghĩa vụ và yêu cầu về tiền tệ phát
sinh từ các quan hệ kinh tế, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế quốc tế, giữa các
hãng, giữa các cá nhân của các nước khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong
lĩnh vực kinh tế đối ngoại, bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại
các ngân hàng.
Khác với thanh toán nội địa trong phạm vi một nước, TTQT thường gắn với việc
chuyển đổi giữa đồng tiền của nước này với đồng tiền của nước khác.
- Những phương thức thanh toán chuyển tiền quốc tế chủ yếu là:
+ Thanh toán chuyển tiền bằng điện
+ Thanh toán nhờ thu
+ Thanh toán thư tín dụng
+ Thanh toán ghi sổ
+ Thanh toán qua tài khoản treo ở nước ngoài...
- Các công cụ thanh toán quốc tế chủ yếu là:
+ Hối phiếu
+ Lệnh phiếu
+ Séc
c. Cung ứng các phương tiện thanh toán hiện đại:
- Thẻ ATM, Cash card
+ Thẻ ATM được phát hành trên cơ sở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, được sử
dụng để rút tiền mặt tại các máy ATM.
+ Thẻ Cash card là thẻ nhựa có một số tiền nhất định trên thẻ, được trừ trực tiếp trên
thẻ khi mua hàng hoá, dịch vụ.
- Thẻ séc: Thường chỉ cấp cho khách hàng có tài khoản vãng lai từ 18 tuổi trở lên
dùng để rút tiền mặt tại các ngân hàng và đảm bảo cho việc thanh toán hàng hoá và dịch
vụ. Thẻ séc nội địa chỉ dùng rút tiền ở trong nước. Khi sử dụng thẻ séc này ở một ngân
hàng khác thì khách hàng phải trả thêm một khoản phí với điều kiện các ngân hàng phải
liên thông với nhau.
- Thẻ thanh toán (Debit Card): Thẻ thanh toán hay còn gọi là “thẻ ghi nợ” là một
loại thẻ do ngân hàng phát hành. Thẻ dùng để thanh toán hàng hoá dịch vụ. Người sử dụng
thẻ phải có tài khoản tiền gửi hoặc tài khoản vãng lai, phải có số dư tại ngân hàng phát
hành thẻ. Khách hàng có thể sử dụng thẻ để thanh toán, chi trả tiền mua hàng hoá, dịch vụ
ở bất kỳ điểm mua bán hàng hoá nào có đặt máy đọc thẻ của ngân hàng, không cần phải
đến trực tiếp ngân hàng. Khi sử dụng thẻ để chi trả, lập tức tài khoản của người chủ thẻ sẽ
bị ghi nợ và tài khoản của người bán hàng hoá, dịch vụ sẽ được ghi có thông qua mạng
máy tính điện tử tự động. Thẻ ghi nợ với các thương hiệu như VISA, Master Card, ACB,
Success (VBARD), Connect 24 (VCB), Thẻ đa năng (Ngân hàng Đông á) …
- Thẻ tín dụng (Credit Card): Thẻ tín dụng được xem như là thẻ ngân hàng (Bank
card) vì chúng thường được phát hành bởi các ngân hàng. Ngân hàng sẽ qui định một hạn
mức tín dụng nhất định cho từng chủ thẻ và chủ thẻ được sử dụng trong hạn mức đó, đến
thời hạn qui định phải hoàn trả cho ngân hàng. Cơ sở sử dụng thẻ tín dụng là phát hành
trên tài khoản tiền vay ngân hàng. Thẻ tín dụng với các thương hiệu như VISA, Master
Card…
- Thẻ du lịch và giải trí (Travel and Entertainment Card – T&E Card): Người dùng
thẻ này không phải trả lãi nhưng phải thanh toán trong thời hạn một tháng. Chủ thẻ của
loại này chủ yếu là doanh nhân đi du lịch hay người có thu nhập cao, đồng thời số điểm
chấp nhận thanh toán loại thẻ này cũng ít. Loại này gồm có American Express Card và
Dinner Club. Để kích thích và tạo thế cạnh tranh, khi sử dụng loại thẻ này, chủ thẻ thường
được hưởng thêm một số dịch vụ khác miễn phí.
- Máy rút tiền tự động ATM (Automatic Tellers Machine): ở các ngân hàng, các
điểm bán hàng, những nơi đông dân cư các ngân hàng thường đặt các máy rút tiền tự động,
những máy này được nối mạng trực tiếp với trung tâm thanh toán. Khách hàng có thể dùng
thẻ rút tiền (thẻ từ hoặc thẻ thông minh) do ngân hàng phát hành để rút tiền ở các máy
ATM, mà không nhất thiết phải trực tiếp đến ngân hàng. Khi có nhu cầu rút tiền mặt,
khách hàng đưa thẻ vào máy ATM và bấm số PIN trên bàn phím, thông qua thông tin lưu
trữ trên dải từ tính hoặc con chíp điện tử, máy tính có thể "tra cứu" tài khoản của khách
hàng và đưa ra số tiền mặt mà khách hàng cần rút với giới hạn cho phép, máy còn thông
báo cho người cầm thẻ biết số dư trong tài khoản của khách hàng hoặc thực hiện một lệnh
thanh toán chuyển khoản với điều kiện phải biết chi tiết về ngân hàng của người được
thanh toán.
Máy ATM đã trải qua nhiều thế hệ, từ chỗ là chỉ thực hiện chức năng rút tiền tự
động, ngày nay các máy ATM thế hệ mới hoạt động như một ngân hàng nhỏ với đầy đủ
các chức năng như rút tiền, gửi tiền, thanh toán... Do đó, việc đặt các máy ATM thế hệ mới
ngoài trụ sở chính ngân hàng thực chất là việc mở rộng mạng lưới hoạt động.
1.1.2.2. Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại (Phone Banking)
Khách hàng tại nhà có thể gửi thông tin đến ngân hàng yêu cầu ngân hàng thực hiện
các yêu cầu của mình như: xem thông tin số dư; thực hiện chuyển tiền giữa các tài khoản
khác nhau của khách hàng; thanh toán đối với các chủ tài khoản khác; yêu cầu ngân hàng
cung cấp thông tin như tỷ giá ngoại tệ, biểu phí dịch vụ; liệt kê các giao dịch của từng tài
khoản trong khoảng thời gian xác định; xem thông tin các khoản vay của khách hàng; liệt
kê các món vay sắp đến hạn trả,…Những yêu cầu này được thực hiện thông qua đường
điện thoại và thiết bị truyền dẫn (modem).
Để sử dụng dịch vụ này, khách hàng phải được ngân hàng cấp mã truy cập và sử
dụng mã số này để thực hiện các yêu cầu của mình; Đồng thời, ngân hàng cài đặt thiết bị
nhận dạng tiếng nói, thiết bị mã hoá và ghi lại các yêu cầu của khách hàng để đảm bảo an
toàn, chính xác trong giao dịch.
1.1.2.3. Dịch vụ ngân hàng sử dụng máy tính cá nhân (PC-BASED BANKING)
Khách hàng sử dụng máy tính cá nhân để giao dịch với ngân hàng thông qua mạng
vi tính nối trực tiếp với ngân hàng. Để đề phòng việc sử dụng không được phép, mỗi chủ
tài khoản đều phải có tên, mật khẩu để vào chương trình, đảm bảo an toàn, bảo mật trước
khi vào hệ thống. Các yêu cầu của khách hàng sẽ hoàn toàn được xử lý tự động trên dữ
liệu tại máy chủ của ngân hàng. Việc kết nối từ khách hàng đến máy chủ của ngân hàng
được thực hiện thông qua ba lớp bảo mật được tích hợp chặt chẽ với nhau. Ngoài ra cơ sở
dữ liệu của hệ thống và các yêu cầu từ khách hàng chuyển đến ngân hàng đều được mã hoá
theo thuật toán nhằm nâng cao hơn nữa tính an toàn cho hệ thống. Dịch vụ này bao gồm:
- Cập nhật số dư
- Ghi chi tiết về các lệnh uỷ nhiệm chi
- Cho phép thực hiện chuyển tiền giữa các tài khoản khác nhau của ngân hàng
- Cho phép thanh toán với các chủ tài khoản khác.
1.1.2.4. Dịch vụ ngân hàng thông qua mạng Internet (INTERNET BANKING)
Khách hàng sử dụng một máy tính cá nhân (PC), một modem, một đường dây điện
thoại và đăng ký địa chỉ của mình trên mạng máy tính của ngân hàng là có thể tuỳ ý sử
dụng dịch vụ này. ưu điểm của dịch vụ này là liên tục theo thời gian cả tuần 7 ngày, một
ngày 24 tiếng, dịch vụ ngân hàng thông qua mạng internet đều có thể đáp ứng nhu cầu của
khách hàng và cũng không bị hạn chế bởi khách hàng đang ở đâu.
Điều kiện thực hiện dịch vụ này là:
- Phải có cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đã phát triển. Dịch vụ ngân hàng thông
qua mạng internet là hệ quả tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hoá và công nghệ thông
tin mà trước hết là kỹ thuật máy tính điện tử. Hạ tầng công nghệ thông tin ấy bao gồm độ
bao phủ của mạng internet, các chuẩn của doanh nghiệp, của cả nước và sự liên kết các
chuẩn ấy với các chuẩn quốc tế. Kỹ thuật ứng dụng và thiết bị ứng dụng không chỉ của
riêng từng doanh nghiệp, mà phải là một hệ thống quốc gia, hệ thống ấy phải đến được
từng cá nhân áp dụng dịch vụ ngân hàng qua mạng internet.
- Ngân hàng phải có đội ngũ cán bộ nhân viên có đủ khả năng quản lý, vận hành hệ
thống theo tiêu chuẩn quốc tế, có đội ngũ chuyên gia tin học giỏi, thường xuyên bắt kịp
các thông tin mới, có thể thiết kế các phần mềm ứng dụng để phục vụ cho việc sử dụng
mạng ngày càng hoàn thiện, chính xác và an toàn.
- Môi trường kinh tế và pháp lý đầy đủ. Dịch vụ ngân hàng qua mạng internet chỉ có
thể tiến hành khi tính pháp lý của nó được thừa nhận, biểu hiện bằng sự thừa nhận pháp lý
giá trị của các giao dịch điện tử, chữ ký điện tử, chữ ký số hoá, các thanh toán điện
tử...Hơn nữa, chỉ khi nền kinh tế - xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định mới tạo
ra nhu cầu và khả năng sử dụng dịch vụ ngân hàng qua mạng internet.
1.1.2.5. Dịch vụ quản lý và tín thác
Thực hiện dịch vụ này, ngân hàng sẽ làm theo sự uỷ nhiệm của khách hàng như uỷ
thác đầu tư, làm người thừa hành trong một số trường hợp cho khách hoặc quản lý tài sản
và thanh toán cho những người thừa hưởng vào lúc thích hợp.
1.1.2.6. Dịch vụ tư vấn
Với dịch vụ này, ngân hàng sẽ đáp ứng các nhu cầu tư vấn tài chính và quản lý mà
các cá nhân, doanh nghiệp hoặc các tổ chức yêu cầu. Các chuyên gia ngân hàng sẽ hướng
dẫn khách hàng về các vấn đề hoạch định tài chính và kiểm soát như xây dựng phương án
sản xuất kinh doanh, tính chi phí, định giá, đánh giá đầu tư cơ bản, dự báo nguồn thu nhập
và quản lý tài sản, tư vấn chiến lược kinh doanh…
1.1.2.7. Dịch vụ môi giới, đại lý phát hành chứng khoán, bảo quản và quản lý
chứng khoán
Khi thị trường chứng khoán đi vào hoạt động, công ty chứng khoán của các NHTM
sẽ thực hiện các dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán; sẽ làm chức năng môi giới mua
bán chứng khoán, tư vấn đầu tư và bảo quản, quản lý chứng khoán để thu phí, hoa hồng...
Ngay khi thị trường chứng khoán chưa đi vào hoạt động, công ty chứng khoán thuộc
NHTM vẫn có thể làm đại lý phát hành cổ phiếu vô danh cho các công ty cổ phần.
1.1.2.8. Dịch vụ bảo hiểm
Các ngân hàng cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho tất cả các khách hàng thông qua các
công ty con hoặc thông qua các nhà môi giới bảo hiểm của họ. Một số dịch vụ bảo hiểm
đang được sử dụng: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm trách nhiệm công
cộng, bảo hiểm y tế…
1.1.2.9. Dịch vụ bảo lãnh
Bảo lãnh là sự đảm bảo gián tiếp