Thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trung tâm, đồng thời định hướng phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở
cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển bền vững. Để phát triển kinh tế đất nước
thì từng địa phương được phân cấp quản lý nhằm phát triển kinh tế trên địa bàn lãnh
thổ theo định hướng của ngành và cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Trong đó,
phát triển kinh tế cấp huyện hiện nay vẫn đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu
để làm sáng tỏ về mặt lôgíc và hoàn thiện quản lý trong thực tiễn.
Huyện Bình Xuyên là một huyện mới tái lập từ ngày 01.09.1998 được tách ra
từ huyện Tam Đảo thành huyện Bình Xuyên và huyện Tam Dương, sau khi tái lập
huyện có 14 đơn vị hành chính cấp xã và thị trấn. Khi mới tái lập định hướng của
phát triển của huyện vẫn dựa vào quy hoạch của huyện Tam Đảo (cũ), lấy phát triển
nông nghiệp là chủ yếu, do vậy sau 3 năm tái lập kinh tế huyện Bình Xuyên phát
triển chậm chạp, cơ sở vật chất còn nhiều yếu kém, đời sống của nhân dân còn khó
khăn. Trong khi đó huyện có lợi thế gần thủ đô Hà Nội, sân bay Quốc tế Nội Bài, có
đường quốc lộ 2 và đường sắt chạy qua, mặt khác quá trình công nghiệp hoá và đô
thị hoá của Tỉnh Vĩnh Phúc đang diễn ra với tốc độ nhanh, kinh tế xã hội có bước
phát triển mạnh.
Vấn đề đặt ra cho Đảng bộ và chính quyền của huyện trong giai đoạn từ nay
đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 là nhanh chóng khắc phục nhược điểm,
khó khăn, khai thác tiềm năng điều kiện hiện có, tìm bước đi thích hợp để đẩy
nhanh quá trình xây dựng và phát triển kinh tế trên địa bàn, nhằm xây dựng huyện
trở thành một huyện công nghiệp, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững nhằm
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chính vì vậy việc nghiên cứu,
đánh giá thực trạng phát triển kinh tế của huyện và đề ra các giải pháp phát triển
kinh tế là rất cần thiết nhằm phát huy tốt những yếu tố tiềm năng, định rõ phương
hướng phát triển các lĩnh vực kinh tế của huyện trong những năm tới, làm cơ sở
khoa học cho việc xây dựng các đề án, quy hoạch và kế hoạch đầu tư phát triển kinh
tế - xã hội trên địa bàn huyện, để Bình Xuyên từng bước phát triển tương xứng với
vị thế của một huyện trọng tâm phát triển công nghiệp của tỉnh với mục tiêu phấn
đấu đến năm 2015 huyện trở thành đô thị loại 4 của tỉnh Vĩnh Phúc.
Là người trực tiếp tham gia quản lý ở huyện Bình Xuyên, tôi chọn đề tài
“Phát triển kinh tế huyện Bỡnh Xuyờn tỉnh Vĩnh Phỳc trong điều kiện hiện nay”
làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế.
114 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2353 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế huyện bình xuyên tỉnh vĩnh phúc trong điều kiện hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
phát triển kinh tế huyện bình
xuyên tỉnh vĩnh phúc trong điều
kiện hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trung tâm, đồng thời định hướng phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở
cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển bền vững. Để phát triển kinh tế đất nước
thì từng địa phương được phân cấp quản lý nhằm phát triển kinh tế trên địa bàn lãnh
thổ theo định hướng của ngành và cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Trong đó,
phát triển kinh tế cấp huyện hiện nay vẫn đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu
để làm sáng tỏ về mặt lôgíc và hoàn thiện quản lý trong thực tiễn.
Huyện Bình Xuyên là một huyện mới tái lập từ ngày 01.09.1998 được tách ra
từ huyện Tam Đảo thành huyện Bình Xuyên và huyện Tam Dương, sau khi tái lập
huyện có 14 đơn vị hành chính cấp xã và thị trấn. Khi mới tái lập định hướng của
phát triển của huyện vẫn dựa vào quy hoạch của huyện Tam Đảo (cũ), lấy phát triển
nông nghiệp là chủ yếu, do vậy sau 3 năm tái lập kinh tế huyện Bình Xuyên phát
triển chậm chạp, cơ sở vật chất còn nhiều yếu kém, đời sống của nhân dân còn khó
khăn. Trong khi đó huyện có lợi thế gần thủ đô Hà Nội, sân bay Quốc tế Nội Bài, có
đường quốc lộ 2 và đường sắt chạy qua, mặt khác quá trình công nghiệp hoá và đô
thị hoá của Tỉnh Vĩnh Phúc đang diễn ra với tốc độ nhanh, kinh tế xã hội có bước
phát triển mạnh.
Vấn đề đặt ra cho Đảng bộ và chính quyền của huyện trong giai đoạn từ nay
đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 là nhanh chóng khắc phục nhược điểm,
khó khăn, khai thác tiềm năng điều kiện hiện có, tìm bước đi thích hợp để đẩy
nhanh quá trình xây dựng và phát triển kinh tế trên địa bàn, nhằm xây dựng huyện
trở thành một huyện công nghiệp, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững nhằm
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chính vì vậy việc nghiên cứu,
đánh giá thực trạng phát triển kinh tế của huyện và đề ra các giải pháp phát triển
kinh tế là rất cần thiết nhằm phát huy tốt những yếu tố tiềm năng, định rõ phương
hướng phát triển các lĩnh vực kinh tế của huyện trong những năm tới, làm cơ sở
khoa học cho việc xây dựng các đề án, quy hoạch và kế hoạch đầu tư phát triển kinh
tế - xã hội trên địa bàn huyện, để Bình Xuyên từng bước phát triển tương xứng với
vị thế của một huyện trọng tâm phát triển công nghiệp của tỉnh với mục tiêu phấn
đấu đến năm 2015 huyện trở thành đô thị loại 4 của tỉnh Vĩnh Phúc.
Là người trực tiếp tham gia quản lý ở huyện Bình Xuyên, tôi chọn đề tài
“Phát triển kinh tế huyện Bỡnh Xuyờn tỉnh Vĩnh Phỳc trong điều kiện hiện nay”
làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài có một số đề tài luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về phát
triển kinh tế nói chung, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ thương mại
nói riêng như:
Luận văn thạc sĩ năm 2006 của Nguyễn Anh Tuấn chuyên ngành quản lý
kinh tế, về hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội quận Long Biên thành phố
Hà Nội. Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Nguyễn Văn Chiến về tác động đầu tư
trực tiếp ở nước ngoài vào phát triển kinh tế -xã hội ở thành phố Đà Nẵng hiện nay.
Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Nguyễn Văn Lúa về thu hút đầu tư để phát triển
kinh tế mở Chu Lai tỉnh Quảng Nam. Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Nguyễn
Hoài Khanh về tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài tới phát triển kinh tế -xã hội ở tỉnh
Bình Dương. Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Huỳnh Khánh Toàn về mối quan
hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới ở Quảng Nam. Luận văn thạc
sĩ kinh tế năm 2006 của Trần Anh Đức về định hướng và giải pháp quản lý Nhà nước
nhằm phát triển kinh tế trên địa bàn quận Cẩm lệ thành phố Đà Nẵng...
Tuy vậy, đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách
hoàn chỉnh về phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc trong điều kiện
hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Làm rõ căn cứ lý luận, phân tích đánh giá đúng thực trạng phát triển kinh tế
huyện Bình Xuyên, đề xuất các giải pháp nhằm phát triển kinh tế huyện Bình
Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc, trong đó trọng tâm là các giải pháp quản lý nhà nước.
3.2. Nhiệm vụ
Làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển kinh tế cấp huyện, xác định đúng
vai trò, vị thế của chính quyền cấp huyện đối với phát triển kinh tế trong tình hình
mới.
Phân tích đánh giá các yếu tố tiềm năng, nguồn lực và thực trạng tác động của
quản lý nhà nước đến sự phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên từ năm 2005 đến nay, chỉ
ra những nguyên nhân của thành tựu và những hạn chế, yếu kém.
Đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế huyện Bình
Xuyên đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020,.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là các nhân tố cho phát triển
kinh tế và tác động của quản lý nhà nước cấp huyện tới sự phát triển kinh tế huyện
Bình Xuyên, đặt trong mối quan hệ với phát triển xã hội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: trong phạm vi gianh giới hành chính của huyện Bình
Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc
Phạm vi về thời gian: Khảo sát đánh giá thực trạng phát triển kinh tế huyện
Bình Xuyên từ năm 2005 đến nay và giải pháp đến năm 2015 định hướng đến năm
2020.
Phạm vi ngành, lĩnh vực: Tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế chủ yếu của
huyện Bình Xuyên, không phân biệt cấp quản lý.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, các chỉ thị
nghị quyết về phát triển kinh tế của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Vĩnh Phúc. huyện uỷ và
UBND huyện Bình Xuyên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết: hệ thống hoá những vấn đề
chung về phát triển kinh tế, những căn cứ lý thuyết và thực tiễn phát triển kinh tế
cấp huyện trong điều kiện hiện nay.
Phương pháp phân tích số liệu định lượng: Trên cơ sở số liệu thu thập được
và những số liệu qua khảo sát thực tế, luận văn sử dụng phương pháp phân tích định
lượng theo nhóm vấn đề nghiên cứu phục vụ nội dung nghiên cứu và các kết luận
tổng hợp.
Phương pháp thống kê, so sánh: Sử dụng số liệu thống kê để phân tích, so
sánh nhằm đề xuất những kết luận về định hướng và giải pháp phát triển kinh tế trên
địa bàn huyện Bình Xuyên.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về lý luận
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển kinh tế trong thời kỳ công
nghiệp hoá hiện đại hoá đối với cấp huyện trong giai đoạn hiện nay.
Làm rõ vai trò, vị trí của chính quyền của cấp huyện đối nhiệm vụ phát triển
kinh tế thời kỳ công nghiệp hoá -hiện đại hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế.
6.2. Về thực tiễn
Trên cơ sở, tổng hợp phân tích, đánh giá tình hình phát triển kinh tế của
huyện trong những năm qua làm rõ bức tranh toàn cảnh về phát triển kinh tế trong
mối tương quan với các địa phương trong tỉnh Vĩnh Phúc. Điều này rất cần thiết cho
cấp uỷ đảng, chính quyền huyện trong việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội trong những năm tới
Góp phần xây dựng mục tiêu, định hướng phát triển của huyện trong giai
đoạn 2005-2015 và định hướng đến năm 2020, đồng thời đề xuất các giải pháp cần
tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu của huyện trong thời kỳ CNH- HĐH và hội
nhập kinh tế.
Đề tài là tài liệu tham khảo giúp cấp uỷ Đảng, chính quyền huyện Bình
Xuyên trong việc hoạch định mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế huyện Bình
Xuyên trong những năm tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn gồm 03 chương, 07 tiết.
Chương 1
phát triển kinh tế và tác động của quản lý nhà nước
cấp huyện đối với phát triển kinh tế
1.1. Những vấn đề cơ bản về phát triển kinh tế
1.1.1. Quan niệm về phát triển kinh tế
Hiện nay mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển. Trải qua thời
gian, khái niệm về phát triển cũng đi đến thống nhất. Phát triển kinh tế được hiểu
là: quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế được xem như
là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá
trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia.
Theo cách hiểu như vậy, phát triển phải là một quá trình lâu dài và do các
nhân tố nguồn lực của nền kinh tế và nhân tố quản lý quyết định.
Cũng có thể hiểu phát triển kinh tế là phạm trù kinh tế diễn tả động thái biến
đổi cả về chất và lượng của cuộc sống nó đặt trong mối quan hệ với phát triển xã
hội.
Phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay có mục tiêu không những phát
triển nhanh mà còn phải phát triển bền vững. Từ những thập niên 70, 80 của thế kỷ
trước khi tăng trưởng kinh tế của nhiều nước trên thế giới đã đạt được tốc độ khá
cao, người ta bắt đầu có những suy nghĩ đến các ảnh hưởng tiêu cực của sự tăng
trưởng nhanh đó đến tương lai con người và vấn đề phát triển bền vững được đặt ra.
Theo thời gian, quan niệm về phát triển bền vững ngày càng được hoàn thiện. Năm
1987, vấn đề phát triển bền vững được Ngân hàng Thế giới (WB) đề cập lần đầu
tiên, theo đó phát triển bền vững là “… Sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại
mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của hệ thống tương lai”.
Quan niệm đầu tiên về phát triển bền vững của WB chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh
sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống cho
con người trong quá trình phát triển. Ngày nay, quan điểm về phát triển bền vững
được đề cập một cách đầy đủ hơn, bên cạnh yếu tố môi trường tài nguyên thiên
nhiên, yếu tố môi trường xã hội được đặt ra với ý nghĩa quan trọng. Hội nghị
Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesbug (Cộng hoà
Nam phi) năm 2002 đã xác định: Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự
kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: Tăng trưởng
kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Tiêu chí để đánh giá sự
phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công
bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và
nâng cao chất lượng môi trường sống. Đảng Cộng sản Việt nam đã thể hiện rõ quan
điểm về phát triển bền vững trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước
đến năm 2010: “ Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”, gắn sự phát triển
kinh tế với giữ vững ổn định chính trị xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng.
Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy, mỗi quốc gia, tuỳ theo quan niệm khác
nhau của các nhà lãnh đạo đã lựa chọn những con đường phát triển khác nhau. Nhìn
một cách tổng thể, hệ thống sự lựa chọn ấy theo ba con đường: Nhấn mạnh tăng
trưởng nhanh; coi trọng vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và phát triển toàn diện.
Các nước phát triển theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa trước đây thường
lựa chọn con đường nhấn mạnh tăng trưởng nhanh. Theo cách lựa chọn này, Chính
phủ đã tập trung chủ yếu vào các chính sách đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng mà bỏ
qua các nội dung xã hội. Các vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và nâng cao chất
lượng cuộc sống dân cư chỉ được đặt ra khi tăng trưởng thu nhập đã đạt được một
trình độ khá cao. Thực tế cho thấy nhiều quốc gia thực hiện theo mô hình đã làm
cho nền kinh tế rất nhanh khởi sắc, tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân năm rất
cao. Tuy vậy, theo sự lựa chọn này, những hệ quả xấu đã xảy ra: một mặt, cùng với
quá trình tăng trưởng nhanh, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng
gay gắt, các nội dung về nâng cao chất lượng cuộc sống thường không được quan
tâm, một số giá trị văn hoá, lịch sử truyền thống của dân tộc và đạo đức, thuần
phong mỹ tục tốt đẹp của nhân dân bị phá huỷ. Mặt khác, việc chạy theo mục tiêu
tăng trưởng nhanh trước mắt đã nhanh chóng dẫn đến sự cạn kiệt nguồn tài nguyên
quốc gia, huỷ hoại môi trường sinh thái, chất lượng tăng trưởng kinh tế không đảm
bảo và vi phạm những yêu cầu phát triển bền vững. Chính những hạn chế này đã tạo
ra lực cản cho sự tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn sau. Sự phát triển kinh tế của các
nước Braxin, Mehico, các nước OPEC và kể cả Philipin, Malaysia, Indonesia đi
theo sự lựa chọn này.
Mô hình nhấn mạnh vào bình đẳng và công bằng xã hội lại đưa ra yêu cầu
giải quyết các vấn đề xã hội ngay từ đầu trong điều kiện thực trạng tăng trưởng thu
nhập ở mức độ thấp. Các nguồn lực phát triển, phân phối thu nhập cũng như chăm
sóc sức khoẻ, giáo dục, văn hoá được quan tâm và thực hiện theo phương thức dàn
đều, bình quân cho mọi ngành, mọi vùng và các tầng lớp dân cư trong xã hội. Đây
là mô hình khá nổi bật của các nước đi theo mô hình chủ nghĩa xã hội trước đây,
trong đó có cả Việt Nam. Theo mô hình này, các nước đã đạt được một mức độ khá
tốt về các chỉ tiêu xã hội. Tuy vậy, nền kinh tế thiếu các động lực cần thiết cho sự
tăng trưởng nhanh, mức thu bình quân đầu người thấp, nền kinh tế lâu khởi sắc và
ngày càng trở nên tụt hậu so với mức chung của thế giới. Các chỉ tiêu xã hội thường
chỉ đạt cao về mặt số lượng mà có thể không đảm bảo về mặt chất lượng.
Hiện nay, nền kinh tế mở cửa, hội nhập cho phép nhiều nước đang phát triển
tận dụng lợi thế để thực hiện một lựa chọn tối ưu hơn bằng con đường phát triển
toàn diện. Theo mô hình này, Chính phủ của các nước, một mặt đưa ra các chính
sách thúc đẩy tăng trưởng nhanh, khuyến khích dân cư làm giầu, phát triển kinh tế
tư nhân và thực hiện phân phối thu nhập theo sự đóng góp nguồn lực; mặt khác,
cũng đồng thời đặt ra vấn đề bình đẳng, công bằng và nâng cao chất lượng cuộc
sống dân cư. Hàn Quốc, Đài Loan là những nước đã thực hiện theo sự lựa chọn này.
Trong quá trình cải tổ nền kinh tế, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã thể hiện sự lựa
chọn theo hướng phát triển toàn diện. Đi đôi với thực hiện mục tiêu tăng trưởng
nhanh, chúng ta đã đưa ra mục tiêu giải quyết vấn đề công bằng xã hội ngay từ đầu
và trong toàn bộ tiến trình phát triển.
Việc hệ thống hoá con đường phát triển kinh tế mặc dù mang nội dung tương
đối, nhưng nó là cần thiết để giúp các nước, các địa phương, căn cứ vào điều kiện
kinh tế, chính trị trong và ngoài nước ở từng giai đoạn cụ thể để có hướng đi thích
hợp cho mình.
1.1.2. Các nội dung phát triển kinh tế
Thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế
Muốn phát triển các mặt của đời sống kinh tế -xã hội, trước hết phải có thêm
của cải , tức là năng lực của nền sản xuất phải được mở rộng hay nền kinh tế phải
tăng trưởng với tốc độ cao trong thời gian dài. cũng vì vậy, các nước nghèo, lạc hậu
muốn tạo ra sự phát triển kinh tế, phải coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu số một
trong chiến lược kinh tế-xã hội của mình.
Tăng tưởng kinh tế là: Sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).
Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh
sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh
tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của
nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng vật chất hoặc giá trị. thu nhập bằng giá trị
phản ánh qua các chỉ tiêu GDP, GNP và được tính cho toàn thể nền kinh tế hoặc
tính bình quân trên đầu người.
Tăng trưởng kinh tế là phạm trù kinh tế diễn tả động thái biến đổi về mặt số
lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế chưa đề cập
đến mối quan hệ của nó với các vấn đề xã hội.
Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền
kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền vững hay
việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Theo khía cạnh này, điều được
nhấn mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục, có hiệu quả của chỉ tiêu quy mô và tốc
độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế nữa, quá trình ấy phải được tạo nên
nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học, công nghệ, vốn và nhân lực trong một
cơ cấu kinh tế hợp lý.
Như vậy mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển có mối quan hệ biện
chứng. Tăng trưởng là điều kiện cần đối với sự phát triển, nhưng nó chưa là điều
kiện đủ. Tăng trưởng mà không phát triển sẽ dẫn đến phân hoá giàu nghèo, khủng
hoảng xã hội, ngược lại phát triển mà không tăng trưởng là không tồn tại trong thực
tế.
Xét trên góc độ kinh tế, tăng trưởng kinh tế có tính hai mặt: lợi ích và chi
phí.
Tăng trưởng kinh tế có rất nhiều ích lợi, là cơ sở là điều kiện để cải thiện
và nâng cao đời sống của dân cư. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề quan trọng bậc
nhất để phát triển các mặt khác của đời sống kinh tế -xã hội như: khoa học, giáo
dục, y tế, thể dục thể thao… do những lợi ích đó, tăng trưởng kinh tế là hết sức
cần thiết với tất cả các quốc gia. Với các nước nghèo, lạc hậu tăng trưởng kinh tế
càng quan trọng vì mức thu nhập, mức sống của dân cư rất thấp, nhiều mặt của
đời sống kinh tế xã hội còn ở trình độ thấp, lạc hậu…
Mặt thứ hai của tăng trưởng kinh tế là chi phí. Nền kinh tế tăng trưởng cành
nhanh, nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên càng lớn vì vậy tài nguyên càng
sớm cạn kiệt, môi trường càng bị tổn hại , ô nhiễm. Nền kinh tế càng tăng trưởng
nhanh, càng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội : như phân hoá giàu nghèo, sự phát
triển của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội… Nền kinh tế tăng trưởng càng nhanh,
chi phí càng lớn.
Thứ hai: Sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. theo hướng tiến
bộ phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội.
Trong các nội dung của phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế được xem như là
tiêu thức phản ánh sự thay đổi về chất, là dấu hiệu đánh giá so sánh các giai đoạn
phát triển của nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là: tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ
trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.
Cơ cấu kinh tế được hiểu là tương quan giữa các bộ phận trong tổng thể nền
kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng
giữa các bộ phận với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều
kiện kinh tế- xã hội nhất định, luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ
thể. Nếu các thước đo tăng trưởng phản ánh sự thay đổi về lượng thì xu thế chuyển
dịch cơ cấu kinh tế là thể hiện mặt chất kinh tế trong quá trình phát triển. Đánh giá
sự phát triển kinh tế cần xem xét một cách toàn diện các góc độ của cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau như: cơ cấu ngành kinh tế, cơ
cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu khu vực thể chế v.v... Trong đó,
cơ cấu kinh tế ngành phản ánh sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành là một nội
dung quan trọng của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
- Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là: tương quan giữa các ngành trong tổng thể kinh tế,
thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng giữa các
ngành với nhau. Các mối quan hệ này hình thành trong điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định. Luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể.
Về lý thuyết cơ cấu ngành kinh tế thể hiện cả về mặt định lượng và định tính.
Mặt định lượng chính là quy mô và tỷ trọng chiếm về GDP, lao động, vốn của mỗi
ngành trong tổng thể kinh tế quốc dân. Mặt định tính thể hiện vị trí và tầm quan
trọng của mỗi ngành trong hệ thống kinh tế quốc dân. Các nước đang phát triển có
xuất phát điểm thấp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp
của các nước này thường chiếm từ 20%-30% GDP. Trong khi đó ở các nước phát
triển,