Trong thời kì đầu của xã hội loài người từ khi lực lượng sản xuất phát triển
và có nhiều thành tựu mới, con người dần thoát khỏi nền khinh tế tự nhiên và
chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Nền kinh tế hàng hoá phát triển càng
mạnh mẽ và đến đỉnh cao của nó là nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường có
những ưu việt của nó , đó là sự thoả mãn tối đa nhu cầu của con người vói một
khối lượng hàng hoá khổng lồ. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ những hạn chế , nhất là
trong chế độ xã hội TBCN , một chế độ xã hội ở đó chỉ có lợi nhuận được chú
trọng hàng đầu dẫn đến sự phân hoá xã hội sâu sắc và quyền bình đẳng trong xã
hội bị xem nhẹ.
Nước ta sau khi giành được độc lập ở miền Bắc , Đảng đã xác định đưa đất
nước lên tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Khi miền Bắc hoàn
toàn đư ợc giải phóng thì cả nước bước vào thời kì quá độ lên CNXH. Đại hội
Đảng VI (1986) là một bước ngoặt lịch sử của nền kinh tế với đường lối mới của
Đảng để phát triển đất nước. Theo đó ta xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tư tưởng ấy càng
được nhấn mạnh trong các kì đại hội tiếp theo của Đảng.
21 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2691 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay
Lời nói đầu
Trong thời kì đầu của xã hội loài người từ khi lực lượng sản xuất phát triển
và có nhiều thành tựu mới, con người dần thoát khỏi nền khinh tế tự nhiên và
chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Nền kinh tế hàng hoá phát triển càng
mạnh mẽ và đến đỉnh cao của nó là nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường có
những ưu việt của nó , đó là sự thoả mãn tối đa nhu cầu của con người vói một
khối lượng hàng hoá khổng lồ. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ những hạn chế , nhất là
trong chế độ xã hội TBCN , một chế độ xã hội ở đó chỉ có lợi nhuận được chú
trọng hàng đầu dẫn đến sự phân hoá xã hội sâu sắc và quyền bình đẳng trong xã
hội bị xem nhẹ.
Nước ta sau khi giành được độc lập ở miền Bắc , Đảng đã xác định đưa đất
nước lên tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Khi miền Bắc hoàn
toàn được giải phóng thì cả nước bước vào thời kì quá độ lên CNXH. Đại hội
Đảng VI (1986) là một bước ngoặt lịch sử của nền kinh tế với đường lối mới của
Đảng để phát triển đất nước. Theo đó ta xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tư tưởng ấy càng
được nhấn mạnh trong các kì đại hội tiếp theo của Đảng.
Cho tới nay, sau gần hai mươi năm đổi mới ta đã gặt hái được nhiều thành
tựu đáng kể. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có khá nhiều những mặt cần điêù chỉnh.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu em đã chọn đề tài: "Phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay"
Nội dung
I - Tính tất yếu của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta :
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ được phát triển theo định hướng
XHCN. Sự định hướng của xã hội hùng mạnh lấy cơ sở “nhân dân lao động làm
chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có đIều kiện phát triển toàn
diện cá nhân”. Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học công nghệ
và lực lượng sản xuất hiện đại.
Sự định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta là cần thiết và
có tính khách quan. Xây dựng nền kinh tế thị trường không có gì mâu thuẫn với
định hướng XHCN. Đại hội đảng VIII đã khẳng định: “ cơ chế thị trường đã phát
huy tác dụng đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà
còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước
theo con đường XHCN ”
Ngay từ tháng 8 năm 1979, Nhà nước ta đã chủ trương phát triển sản
xuất hàng hoá. Chỉ thị 1000 của ban bí thư trung ương và quyết định số 25/CP của
chính phủ năm 1981 đã để cho các hợp tác xã tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
Đại hội Đảng VI, tháng 12 năm 1986 đã khẳng định quá trình từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển từ nền kinh tế tự cung tự
cấp thành nền kinh tế hàng hoá. Điều quan trọng là ở đây chúng ta không chỉ thừa
nhận từng khâu, từng phần sản phẩm là sản xuất hàng hoá mà là cả một nền kinh
tế hàng hoá coi đó là một quá trình có tính quy luật đi lên sản xuất lớn XHCN ở
nước ta.
Tuy nhiên, lúc này vẫn coi kế hoạch là đặc trưng số một, quan hệ hàng
hoá tiền tệ ở vị trí số hai.
Đại hội VII của Đảng đã tiế xa hơn, cho rằng “Thị trường có vai trò trực
tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn linh hoạt các mặt hàng quy mô, công
nghệ và hình thức sản xuất kinh doanh nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong hợp
tác và cạnh tranh ”. Rồi “Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN đang trở thành cơ chế vận hành nền kinh tế. ”
Nền kinh tế Việt Nam đang bước sang một trang mới, một quá trình phát
triển lịch sử mới. Do vậy việc lựa chọn kinh tế thị trường là đúng đắn vì nền kinh
tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản. Nó là hình
thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Theo Mác: “sản xuất và trao đổi hàng
hoá là một nét chung cho hình thái kinh tế xã hội hết sức khác nhau ”. Mặt khác ở
nước ta đã có những bước xây dựng và đạt được một số thành tựu trong quá trình
phát triển kinh tế hàng hoá. Nên việc chuyển sang kinh tế thị trường là một đIều
đương nhiên.
Mặt khác, kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội có thể dung hoà. Chế độ sở
hữu không quyết định trực tiếp thể chế kinh tế, thông qua cơ cấu quyền sở hữu tài
sản được hình thành bởi một chế độ sở hữu nào đó, tác động gián tiếp đến thể ché
kinh tế. Vì vậy, trong điều kiện chế độ công hữu XHCN, xã hội có thể thực hiện
đượcthể chế kinh tế thị trường, nếu sở hữu nhà nước được phân giảI thành các
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt ( Trong đó nhà nước đại diện
cho chủ sở hữu nắm giữ quyền chiếm hữu còn quyền sử dụng kinh doanh trao cho
doanh nghiệp ) sẽ hình thành nền kinh tế thị trường. Tuy vậy, trong việc phát triển
nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra là giải quyết tốt mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách phân hoá
giầu nghèo, giảm bớt thất nghiệp…
1. Thị trường và vai trò thị trường:
-Thị trường là một phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hoá được biểu
hiện các hoạt động mua bán, trao đổi cùng với các mối quan hệ do chúng gây ra
được diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định .
-Vai trò: Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng
hoá, nơi ra đời và phát triển cùng qúa trình ra đời và phát triển của sản xuất và lưu
thông hàng hoá, sản xuất hàng hoá phát triển, lượng sản hẩm lưu thông trên thị
trưtờng ngày càng dồi dào phong phú-thị trường mở rộng- khái niệm thị
trườngđược mở rộng hơn. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm
môi giới. ở đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá
cả và lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường.
- Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình tái sản xuất hàng hóa.
Những vấn đề cơ bản của nền sản xuất hàng hoá là sản xuất cái gì? sản
xuất như thế nào?và cho ai? đều phải thông qua thị trường. Vì vậy, thị
trường đóng vai trò hoạt động và phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu
quả.
- Thị trường các yếu tố sản xuất hay thị trường đầu vào là nơi mua bán
các yếu tố sản xuất. Thông qua thị trường này mà nhà kinh doanh mua
được các yếu tố sản xuất như tư liệu sản xuất, sức lao động, có vốn để
sản xuất kinh doanh. Ngược lại, người có tư liệu sản xuất, sức lao động
vốn, thực hiện được việc mua bán, có thu nhập để tái sản xuất ra các yếu
tố đó. Thông qua việc trao đổi mua bán trên thị trường các chủ thể kinh
tế có được thu nhập,lượng thu nhập này có thể nhiều hay ít là tuỳ thuộc
vào tính chất của công việc và thể hiện ở sự phân phối cho ai ? Chính vì
vậy thị trường thực hiện chức năng phân phối của quá trình táI sản xuất.
- Thị trường là nơi cuối cùng để chuyển lao động tư nhân, cá biệt thành
lao động xã hội. Chi phí cá biệt có được xã hội chấp nhận hay không sẽ
quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
2. Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN:
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, chúng ta đứng trước thực trạng là:
đất nước đang từng bước quá độ lên CNXH từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa
phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội rất thấp. Đất nước
lại phải trải qua hàng chục năm chiến tranh, tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều,
lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Với điểm xuất phát ấy có thể thấy rằng: nền kinh tế nước ta không hoàn
toàn là nền kinh tế tự nhiên nữa nhưng cũng chưa phải là kinh tế hàng hoá theo
nghĩa đầy đủ. Mặt khác do đổi mới kinh tế nên nền kinh tế nước ta không còn là
nền kinh tế chỉ huy. Có thể nói nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị
trường, là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển, còn mang nặng tính tự cấp tự túc
và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Thực trạng đó được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất: Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang
nặng tính chất tự nhiên. sự yếu kém của kinh tế hàng hoá ở nước ta thể hiện ở :
Trình độ cơ sở vật chất – kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém (
do chiến tranh kéo dài, cơ sở hạ tầng bị phá huỷ nặng nề, mặt khác mọi chi phí
thời bấy giờ tập trung cho chiến tranh nên chưa có đIều kiện tập trung cho sản xuất
)
Hệ thống kết cấu hầng, phục vụ sản xuất và phục vụ xã hội chưa đủ để
phát triển kinh tế thị trường trong nước và chưa có khả năng mở rộng giao lưu với
thị trường thế giới.
Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả. Từ điểm xuất phát
thấp, nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấu kinh tế nước ta còn
mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Trong nông nghiệp lại
có hiện tượng độc canh cây lúa, ngành nghề chưa phát triển. Từ sau ĐạI hội Đảng
VI đến nay tuy cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu thành phần kinh tế đã có nhiều thay
đổi nhưng vẫn chưa hình thành một cơ cấu kinh tế mới hợp lý và có hiệu quả.
(Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý và có hiệu quả khi nó phản ánh đúng
yêu cầu của quy luật khách quan, khi nó cho phép khai thác mọi tiềm năng của đất
nước và thực hiện được sự phân công và hợp tác quốc tế)
Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó _Trong những năm qua thị
trường ở nước ta còn ở trình độ thấp với tính chất còn hoang sơ, dung lượng thị
trường còn thiếu và có phần rối loạn, mới từng bước có thị trường nói chung,
trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường với hệ số giá cả và quan hệ
mua bán bình thường theo cơ chế thị trường. Mà về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị
trường sức lao động hoặc mới chỉ có thị trường này ở khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh với hình thức thuê mướn còn thô sơ mà phần lớn sử dụng chế độ lao động
theo biên chế. Ta cũng chưa có thị trường tiền tệ và thị trường vốn hoặc đã có
nhưng mới chỉ ở mức độ thô sơ.
Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Về khách quan trình
độ phát triển của phân công lao động thấp. Về mặt chủ quan là do nhận thức chưa
đúng đắn về nền kinh tế XHCN, do sự phân biệt duy ý chí giữa thị trường có tổ
chức và thị trường tự do. Với những quan niệm quy tư liệu sản xuất lưu chuyển
trong nội bộ các xí nghiệp quốc doanh là hàng hoá đặc biệt không được mua bán
tự do, lại do quản lý theo chiều dọc – theo chức năng kinh doanh của từng ngành
một cách máy móc dẫn đến hiện tượng cửa quyền cắt đứt mối quan hệ tự nhiên
giữa các ngành, dẫn đến thị trường bị chai cắt, manh mún.
Từ đó ta thấy với tất cả tính phức tạp và các mặt tiêu cực xảy ra trên thị
trường, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường vẫn chưa tới bước tiến bộ về kinh
tế hơn hẳn trước đây và tạo ra khả năng dẫn tới các bước ngoặt quyết định. Vì vậy
phải tiếp tục thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của thị trường ngày càng
thông suốt, đầy đủ và thống nhất trên cả nướ, gắn liền cới thị trường nước ngoài.
Năng suất lao động và thu nhập quốc dân theo đầu người còn thấp, như
vậy rõ ràng lá nền kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, cơ cấu kinh tế còn mất cân
đối, thị trường trong nước chưa phát triển.
Theo số liệu thống kê của ngân hàng thế giới năm 1991 thì mức thu
nhập bình quân đầu người ở nước ta so với các nước đang phát triển ở Đông Nam
á vào loại thấp nhất. Theo sự dự đoán của các nhà kinh tế Việt Nam thì
GNP/người, năm 2000 là 250 USD trong khi đó Singapore là 22520 USD , Thái
Lan là 2315 USD , Thụy Sỹ >40000 USD.
Thứ hai: ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp.
Chính những nhược điểm lạc hậu của cơ chế này đã kìm hãm sự phát
triển của nền kinh tế, nó xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ làm nền kinh tế bị “ hiện
vật hoá ”. Một cơ chế lệnh kế hoạch, lệnh giá cả, tài chính tiền tệ theo quy tắc cấp
phát giao nộp nhằm thực hiện kế hoạch, một cơ chế mà phạm trù giá cả, tài chính,
lưu thông tiền tệ là những phạm trù vốn có của kinh tế hàng hoá mà dù có được sử
dụng thì cũng chỉ là hình thức – gần như đối lập với nền kinh tế hàng hoá vận
động theo cơ chế thị trường. ở mặt quan hệ tổ chức hành chính cơ chế kinh tế ấy là
cơ chế quản lý chủ yếu theo lệnh tập trung nhưng lại điều hành bởi nhiều đầu mối
của các ngành chức năng (công nghiệp , nông nghiệp …), kiểu một dàn nhạc có
nhiều nhạc trưởng nên mang tính chất phân tán.
ở mặt quan hệ kinh tế, cơ chế ấy thể hiện quan hệ giao nộp, thu mua
cấp phát. Sản xuất và kinh doanh được tiến hành gần như là ở khu vực hành chính
sự nghiệp hay hậu cần quân đội tạo đIều kiện cho sự phát triển kinh tế, suy yếu,
triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, gây hiện tượng ỉ nại, dựa dẫm, lười biếng, tạo
môi trường cho lãng phí thất thoát tài sản quốc gia, cản trở việc cải thiện đời sống
và phát triển sản xuất.
Vì vậy Đại hội Đảng VII đã khẳng định : “Xoá bỏ triệt để cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát triển
đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động
…Thực hiện giao lưu kinh tế thông suốt trong nước và với thị trường thế giới”.
3. Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế
thị trường và phát triển theo định hướng XHCN:
Xuất phát từ thực trạng của nền kịnh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế
thị trường theo ta thấy thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là quá trình kết hợp giữa chuỷên nền
kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới
nền kinh tế thị trường và quá trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn “đòn xeo” là nền kinh tế hàng hoá. Chính Mác đã coi sự phát triển của
kinh tế hàng hoá là xuất phát điểm và là điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu
được đối với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất lớn TBCN. Về sau khi nội
chiến kết thúc Lê Nin cũng chủ trương thi hành chính sách kinh tế mới (NEP) để
khởi động sự sống động của nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa thành thị
và nông thôn, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ hàng hoá tiền
tệ trên thị trường.
Đối với nước ta quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có nhưỡng
đặc điểm khác với các nước Đông Âu và Liên Xô cũ. Trong khi họ đi lên từ một
nền kinh tế phát triển, đã được cơ khí hoá, thoát khỏi tính chất tự nhiên thì chúng
ta đi lên từ một nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc, đó cũng là mô
hình nền kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung đối lập với thị trường.
Do vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường đồng thời
cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập với thị trường thế giới.
Trong bối cảnh hiện nay, bài học về sự kết hợp sức mạnh đân tộc với
sức mạnh của thời đại trong công cuộc đấu tranh giành độc lập tự do trước đây lại
một lần nữa sống động trong công cuộc phát triển đất nước.
Quan hệ quốc tế của ta đã có nhiều đổi mới quan trọng, ta chuyển từ
quan hệ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước không chỉ với
các nước XHCN như trước nữa. Vì vậy mà hoạt động kinh tế đã có những tiến bộ
lớn. Xuất khẩu hàng hoá tăng nhanh với nhịp độ 20%/năm (1986-1992 ) bảo đảm
nhập khẩu các loại vật tư và cônh nghệ chủ yếu, cải thiện cán cân thanh toán quốc
tế. Ta đã nhanh chóng điều chỉnh và khắc phục được những hụt hẫng về nguồn
vốn và thị trường từ các nước SNG và Đông Âu. Hàng hoá xuất khẩu của ta đẫ tìm
được những thị trường mới trong khu vực Đông Nam á và Tây Âu. nguồn vốn
nước ngoài vào Việt Nam cũng tăng nhanh.
Trong khi hoà nhập vào thị trường thế giới và đẩy mạnh hoạt động thương
mại cần áp dụng có hiệu quả nguyên tắc lợi thế so sánh. Từ đó để xác định rõ cần
sản xuất và cung ứng cho thị trường loại hàng hoá nào, và số lượng bao nhiêu để
từ đó xác định quy mô sản xuất.
Những năm gần đây, lợi thế so ssánh của ta đã và đang chú ý và phát huy:
đó là sự phong phú của tài nguyên thiên nhiên ( về số lượng loại ), nhuồn nhân lực
dồi dào với tiền công thấp và vị trí lãnh thổ thuận lợi. Bên cạnh đó nhà nước lại có
chính sách đầu tư hấp dẫn, tạo đIều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Ta tiếp tục coi trọng các thị trường truỳên thống, nhanh chóng thâm nhập vào các
thị trường mới, mở rộng thị trường khu vực cải tiến cơ cấu suất khẩu theo hướng
tăng tỉ trọng các chế biến, giảm tỉ trọng xuất khẩu nguyên liệu tạo ra các sản phẩm
xuất khẩu chủ lực như dầu mỏ, nông-lâm-thuỷ-hải sản…phát triển dịch vụ vận tải
hàng không, thông tin liên lạc…
Để làm được những vấn đề đó Nhà Nước cần có những chính sách bảo hộ
mậu dịch hợp lý nhằm khuyến khích các ngành kinh tế phát triển, thu hút những
sản phẩm quý hiếm và sản phẩm khoa học từ bên ngoài, ngăn chặn nhập khẩu
những mặt hàng ta có khả năng sản xuất. Đồng thời cần duy trì ổn định về chính
trị, kinh tế và xã hội nhằm tạo ra môi trường và hành lang cần thiết cho tất cả các
doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế hoạt động-thúc đẩy kinh tế hàng hoá
phát triển.
II - Các giai đoạn và biện pháp hình thành phát triển kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN ở Việt Nam
Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá theo định
hướng XHCN ở nước ta là một quan hệ phức tạp, nhiều khó khăn, không nên quan
niệm giản đơn và nóng vội cần phải tuân thủ những quy luật của quá trình hình
thành và phát triển kinhtế thị trường. Gồm các giai đoạn sau:
+ Giai đoạn quá độ chuyển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phầntheo
định hướng XHCN:
Về mặt lịch sử giai đoạn này bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sử rất
quan trọng là nghị quyết BCHTW lần VI ( khoá IV ), tháng 9 năm 1979. Về mặt
logic thì bắt đầu từ việc hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá
theo đúng nghĩa nhằm tạo ra mối quan hệ vừa tự chủ vừa lệ thuộc lẫn nhau giữa
các chủ thể sản xuất. Giai đoạn nằy mang nội dung chủ yếu là khắc phục tính hiện
vật trong quan hệ trao đổi, hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ. cùng với nội dung
ấy là các giải pháp chủ yếu sau:
- Hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá nhằm
chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hoá tiền tệ.
- Chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sở hữu có
tính đa dạng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
- Đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh tế
theo chiều dọc sang các quan hệ kinh tế theo chiều ngang.
+ Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
XHCN:
Đại hội III của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan
đIểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước
ta. Quan đIểm này đã được tái khẳng định rõ hơn ở Đại hội lần thứ VII, VIII của
Đảng ta. Gắn với giai đoạn này là nội dung : phát triển và mở rộng quan hệ hàng
hoá, tiền tệ tạo đIều kiện cho kinh tế hàng hoá phát triển. Cùng những giải pháp
chủ yếu:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Để đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần ổn định của hệ thống kinh tế quốc dân cũng như ổn
định chính trị xã hội. Thúc đẩy ngành trọng đIểm mũi nhọn tạo sự tích
luỹ đồng bộ để thu hút được nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài vào tạo công
ăn việc làm cho người lao động.
- Chủ động tạo điều kiện cần thiết để xây dựng đồng bộ các yếu tố của
thị trường, phát huy những ưu thế và động lực của thị trường đồng thời
hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Hiện nay ở nước ta thị trường đầu ra của sản xuất, khả năng cạnh tranh
của hàng nội địa còn kém nên cần nâng cao chất lượng sản phẩm và phấn đấu
giảm giá cả hàng hoá.còn ở thị trường đầu vào của sản xuất cần hình thành nhanh
chón