Việt Nam trong công cuộc đổi mới đã thực sự đem lại nhiều kết quả to lớn, làm
thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và
chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Chúng ta có
được những thành công rực rỡ ấy là nhờ rất nhiều nguyên nhân chủ quan cũng như
khách quan. Song nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi
mới đó là chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, được khởi
xướng từ Đại hội Đảng lần thứ VI.
Bên cạnh những thành tựu to lớn ấy, chúng ta còn rất nhiều mặt hạn chế do chính
nền kinh tế thị trường (KTTT) đem lại, mặt khác từ một đất nước có nền kinh tế nghèo
nàn lạc hậu, chúng ta bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để xây dựng thời kỳ quá độ
chủ nghĩa, cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, những tàn dư của chế độ tập trung quan liêu
bao cấp vẫn còn tồn tại khá nhiều. Khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước thì ngoài những khó khăn về kinh tế, còn tồn tại những mâu thuẫn giữa
cái cũ và cái mới, kìm hãm sự phát triển. Chính vì thế mà việc nghiên cứu tìm ra
hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế phù hợp với điều kiện, hoản cảnh đất nước, phù
hợp với khu vực, thế giới và thời đại là hết sức cần thiết.
Nghiên cứu đề tài: "Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích
mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay" dưới góc độ triết học trong tổng thể các mối quan hệ, biện chứng, sẽ giúp
chúng ta hiểu một cách sâu sắc hơn, bản chất hơn những vấn đề xung quanh việc phát
triển kinh tế.
19 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2367 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận
dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng
trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay
A- Đặt vấn đề
Việt Nam trong công cuộc đổi mới đã thực sự đem lại nhiều kết quả to lớn, làm
thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và
chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Chúng ta có
được những thành công rực rỡ ấy là nhờ rất nhiều nguyên nhân chủ quan cũng như
khách quan. Song nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi
mới đó là chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, được khởi
xướng từ Đại hội Đảng lần thứ VI.
Bên cạnh những thành tựu to lớn ấy, chúng ta còn rất nhiều mặt hạn chế do chính
nền kinh tế thị trường (KTTT) đem lại, mặt khác từ một đất nước có nền kinh tế nghèo
nàn lạc hậu, chúng ta bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để xây dựng thời kỳ quá độ
chủ nghĩa, cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, những tàn dư của chế độ tập trung quan liêu
bao cấp vẫn còn tồn tại khá nhiều. Khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước thì ngoài những khó khăn về kinh tế, còn tồn tại những mâu thuẫn giữa
cái cũ và cái mới, kìm hãm sự phát triển. Chính vì thế mà việc nghiên cứu tìm ra
hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế phù hợp với điều kiện, hoản cảnh đất nước, phù
hợp với khu vực, thế giới và thời đại là hết sức cần thiết.
Nghiên cứu đề tài: "Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích
mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay" dưới góc độ triết học trong tổng thể các mối quan hệ, biện chứng, sẽ giúp
chúng ta hiểu một cách sâu sắc hơn, bản chất hơn những vấn đề xung quanh việc phát
triển kinh tế.
B - Nội dung
I- Tính tất yếu phải xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
Đại hội Đảng lần thứ VI có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước chuyển ngoặt đất
nước ta sang thời kỳ mới, thay thế nền kinh tế hiện vật với cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, sang nền KTTT định hướng XHCN.
Trước năm 1986, ở Việt Nam cũng như các nước XHCN khác đã có nhận thức
không đúng về KTTT và CNXH vì cho rằng chúng đối lập nhau và không thể cùng tồn
tại, cùng phát triển được. KTTT là sản phẩm của CNTB, vì vậy CNXH không thể xây
dựng trên nền tảng của KTTT mà phải xây dựng trên cơ sở của nền kinh tế phi thị
trường. Do những quan niệm trên nên trong một thời kỳ dài, KTTT không thể tồn tại
trong ý thức hệ cũng như trong thực tế ở Việt Nam.
Mô hình kinh tế hiện vật chỉ phù hợp trong thời chiến, lúc đó chúng ta cần tập
trung toàn bộ sức người, sức của để phục vụ cho tiền tuyến. Nhưng trong thời bình, mô
hình đó tỏ ra không phù hợp và thực chất đó là mô hình phi kinh tế. Hơn thế nữa đất
nước ta sau chiến tranh rơi vào tình trạng trầm trọng nhất của khủng hoảng kinh tế - xã
hội: sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt đất nước bị bao vây kinh tế, đời sống nhân
dân hết sức khó khăn. Trong thời kỳ này mọi hoạt động kinh tế không diễn ra trên thị
trường, quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị xem nhẹ, các quy luật của KTTT không được
nhận thức vận dụng, các đòn bẩy kinh tế như lợi nhuận, tiền lương, giá cả, thuế... bị
xem nhẹ, thay vào đó là quan hệ cấp phát hiện vật, sản xuất theo kế hoạch Nhà nước,
các chỉ tiêu kinh tế các quyết định kinh tế được soạn thảo từ Nhà nước, làm cho thị
trường bị biến dạng dẫn đến làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, đã dẫn đến
khủng hoảng kinh tế.
Chính thực tiễn đó buộc Việt Nam phải có nhận thức mới về nền kinh tế XHCN.
Đó là nền KTTT theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước.
Như đã biết, vào cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, đầu thời kỳ xã hội nô lệ loài
người đã có một bước tiến nhảy vọt trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất. Trong
sản xuất đã bắt đầu có sản phẩm thặng dư, mặc dù lúc đầu sự dư thừa đó chỉ là ngẫu
nhiên, nhưng cùng với chế độ tư hữu được xác lập, người lao động đã có thể làm chủ
những sản phẩm "dư thừa" đó, mang trao đổi với nhau để nhận lại những sản phẩm mà
mình thiếu do kết quả của phân công chuyên môn hoá đưa lại. Thị trường sơ khai xuất
hiện từ đó.
Tuy nhiên, phải trải qua quá trình phát triển lâu dài, mãi đến giai đoạn cuối xã
hội phong kiến đầu xã hội tư bản chủ nghĩa KTTT mới được xác lập hoàn toàn.
KTTT trước hết là kinh tế hàng hoá, với đặc trưng phổ biến của nó là người sản
xuất làm ra sản phẩm với mục đích để bán (để trao đổi) chứ không phải để tiêu dùng,
hay sản phẩm dư thừa ngẫu nhiên như trước. Ngày nay, khi KTTT hiện đại đã phát
triển một cách phổ biến thì đặc trưng cơ bản đó, không những không mất đi mà còn
được bổ sung, làm phong phú thêm bởi các hình thức và nhân dân của quan hệ trao đổi
và vai trò can thiệp của Nhà nước vào quá trình đó.
Như vậy nên KTTT phát triển từ sơ khai đến hiện đại là một công trình sáng tạo
của loài người trong quá trình sản xuất và trao đổi, đó là trình độ văn minh mà nhân
loại đã đạt được. Do đó mọi quan niệm cho rằng KTTT là phát minh riêng của CNTB
là không có căn cứ, việc đồng nhất KTTT với CNTB để rồi né tránh, hoặc sử dụng nó
như một công cụ tạm thời, hoặc coi việc áp dụng cơ chế thị trường có nghĩa là mặc
nhiên chấp nhận con đường TBCN... đều có thể dẫn đến những sai lầm đáng tiếc.
Ngay trong văn kiện Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định "sản xuất hàng hoá là thành
tựu, văn minh của nhân loại chúng ta không chỉ kiên định không bỏ qua kinh tế hàng
hoá" như văn kiện Đại hội VI đã nêu, mà còn khẳng định "Kinh tế hàng hoá còn tồn tại
khách quan cho đến khi CNXH đựơc xây dựng" và trong dự thảo văn kiện Đại hội IX
lại tiếp tục khẳng định "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nói gọn là nền KTTT
định hướng XHCN".
Mục đích của nền KTTT định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống
nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản
xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN thể hiện tư
duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất. Đó chính là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong
thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
II- Những mâu thuẫn trong quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định
hướng XHCN ở Việt Nam.
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, đất nước ta tiến bắt đầu tiến hành công cuộc đổi
mới toàn diện, và cho đến nay, sau hơn 15 năm thực hiện đã thực sự đem lại kết quả to
lớn trong mọi mặt đời sống xã hội, tổng sản phẩm trong nước tăng gấp ba, từ tình trạng
hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của
nhân dân. Từ một nước phải nhập khẩu gạo, hiện nay chúng ta đã vươn lên thành nước
xuất khẩu gạo đứng nhất, nhì thế giới. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ
38,7% xuống còn 24,3%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ
tăng từ 38,6% lên 39,1%... Bên cạnh những kết quả mà chúng ta đã đạt được, là những
khó khăn trong khi xây dựng nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết phải
nói đến điểm xuất phát của ta khi chuyển dịch cơ chế, từ nền kinh tế yếu kém, mang
tính tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi
phải có sự tích luỹ dồi dào, khoa học, công nghệ phát triển và một nền kinh tế vững
mạnh.... tiếp theo đó là cơ chế quản lý của Nhà nước, mặc dù đường lối của Đảng đặt
ra là đúng đắn, nhưng việc thực hiện nó không còn đồng bộ. ý thức hệ còn chưa được
rõ ràng tác phong cá nhân yếu kém...
Mặt khác, bản thân KTTT có xu hướng tự phát, còn định hướng XHCN là hoạt
động có ý thức của con người dựa trên nhận thức các quy luật khách quan của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Đây là một trong những mâu thuẫn cơ bản có quan hệ đến nhiều
mâu thuẫn khác... Chính những khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển
KTTT, đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn kìm hãm bước phát triển.
1. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mâu thuẫn cơ
bản trong quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thì vấn đề lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp. Xét tiên phương diện triết
học, thì lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức, lực lượng
sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay đổi, và là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất.
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất lúc
này tỏ ra không còn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm hãm. Để mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển thì cần thay đổi quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời, lạc hậu bằng
quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn phù hợp với lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, nó
là thước đo để đánh giá sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. ở Việt Nam , mặc dù
Nhà nước đã có rất nhiều chính sách để cân đối sao cho lực lượng sản xuất - quan hệ
sản xuất phát triển song song đồng bộ. Nhưng thực tế cho thấy, khi bắt tay vào xây
dựng và phát triển nền KTTT thì lực lượng sản xuất luôn tỏ ra mâu thuẫn với quan hệ
sản xuất.
Tính cạnh tranh và năng động là một trong những điểm cơ bản của nền KTTT,
thì ngược lại chúng ta lại chậm tháo gỡ các vưỡng mắc về cơ chế, chính sách để tạo
động lực và điều kiện cho doanh nghiệp Nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát
huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Việc thí điểm cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước còn chậm chạp. Chưa quan tâm tổng kết thực tiễn, kịp thời chỉ ra
phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác, để hợp tác xã nhiều nơi tan rã hoặc
chỉ còn là hình thức, cản trở sản xuất phát triển, chưa kịp thời đúc kết kinh nghiệm,
giúp đỡ các hình thức kinh tế hợp tác với phát triển. Chưa giải quyết tốt một số chính
sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt
thành phần kinh tế này. Quản lý kinh tế hợp tác liên doanh với nước ngoài còn nhiều
sơ hở, kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Công tác tài chính, ngân hàng,
giá cả, kế hoạch hoá quy hoạch xây dựng, quản lý đấtđai còn yếu kém, thủ tục đổi
mới hành chính còn chậm. Thương nghiệp Nhà nước bỏ trống một số trận địa quan
trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu còn
nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây ra tác động xấu với sản xuất. Chế độ
phân phối thu nhập còn bất hợp lý, bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn. Đó là một
số hạn chế của quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất và điều
đó làm cho quá trình phát triển kinh tế của ta gặp nhiều khó khăn.
Một trong những vấn đề bức xúc đối với chúng ta hiện nay đó là việc làm, tình
trạng thất nghiệp là một biểu hiện rõ ràng để chứng tỏ được rằng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất có mất sự cân đối.
Khi quan hệ sản xuất phù hợp, nó không những giải phóng được sức sản xuất mà
còn tạo tiền đề để thúc đẩy bước phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy vấn đề cần
đặt ra là làm thế nào để giải quyết được mâu thuẫn này.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã và đang từng bước khắc phục những khó khăn
kể trên.
Cần đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính
sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát
triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác
nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo hình thức do luật
định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác
nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh
tranh bình đẳng, đôi bên cùng có lợi, là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền
KTTT định hướng XHCN. Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từng bước
hình thành tập đoàn kinh tế mạnh.
Tiếp tục đổi mới và phát triển KTNN để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế. Phát triển doanh nghiệp Nhà nước trong những sản xuất và dịch vụ quan
trọng: xây dựng các tổng Công ty Nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập
đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đổi mới cơchế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của
doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo cơ chế Công
ty TNHH hoặc Công ty cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ
trong sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật
xoá bỏ bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Thực hiện chủ trương cổ phần hoá những doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm
giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc
đẩy doanh nghiệp có hiệu quả.
Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng phát triển hợp tác xã
kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ, tạo
điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh phù hợp với nền KTTT.
Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với
việc xây dựng khuôn khổ pháp lý thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu
quả, có trật tự kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai minh bạch,
hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Phát triển thị trường vốn và tiền tệ, tổ chức và vận hành an toàn hiệu quả thị
trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm. Hình thành và phát triển thị trường bất động
sản, thị trường lao động. Tạo điều kiện công ăn việc làm cho người dân từ đó nâng cao
đời sống xã hội.
Và việc cuối cùng là việc đổi mới chế độ sở hữu, đó là mấu chốt quan trọng nhất
trong việc cân bằng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Hiện nay ở nước ta, một số hình thức sở hữu đã được hình thành một số hình
thức khác đang được khôi phục hoặc mới bắt đầu hình thành chế độ nhiều hình thức sở
hữu trong nền kinh tế là hoàn toàn có cơ sở khách quan. Đó là những thay đổi diễn ra
trong suốt quá trình phát triển kinh tế. Trình độ lực lượng sản xuất và xã hội hoá sản
xuất trong các khu vực kinh tế quốc doanh không giống nhau. Có những khoảng cách
đáng kể trong phát triển kinh tế ở các xí nghiệp, các ngành, các vùng khác nhau. Chính
vì vậy mà cần điều chỉnh lại cơ cấu quan hệ sản xuất.
Trong việc đổi mới các quan hệ sở hữu, xác lập nhiều hình thức sở hữu cần phải
xem xét, đánh giá đúng, tăng cường vai trò chủ đạo của các hình thức sở hữu Nhà
nước, bằng cách cải tổ khu vực này: những xí nghiệp nào cần được duy trì, những xí
nghiệp nào cần được giải thể và việc giải thể sẽ ra sao, là những vấn đề hết sức phức
tạp. Chính vì thế trong quá trình phát triển KTTT theo định hướng XHCN càng đòi
hỏi phải có sự điều hành hợp lý của Nhà nước.
2. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích xã hội.
Trong hoạt động kinh tế, lợi ích là mục tiêu hàng đầu, vì vậy để thực hiện tăng
trưởng kinh tế cần phải coi trọng mọi lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi tích tập thể và lợi ích
xã hội. Trong nền KTTT, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chẳng
những không bị mất đi mà còn có những diễn biễn phức tạp hơn. Trước hết là phải nói
đến ưu điểm của nền KTTT, nó tạo điều kiện cho mọi cá nhân phát huy năng lực, trí
tuệ, thị trường được tạo ra là một thị trường tự do, tự do giao dịch.... KTTT có sự quản
lý của Nhà nước, một mặt nó đảm bảo tính ổn định của thị trường, mặt khác nó lại tạo
điều kiện tốt cho hoạt động tham nhũng, buôn lậu... của một số người lạm dụng chức
trách của mình. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nếu không được giải
quyết đúng đắn sẽ biểu hiện thành những hiện tượng bất công bằng xã hội. Trong mối
quan hệ này, nếu lợi ích cá nhân bị vi phạm thì xã hội sẽ mất đi một động lực to lớn
của sự phát triển xã hội. Còn ngược lại, nếu cá nhân có lợi, nhưng lợi ích xã hội bị vi
phạm, thì nạn nhân của sự bất công lại là cộng đồng xã hội.
Ví dụ: Vì lợi ích cá nhân mà trong hoạt động sản xuất kinh doanh, người ta có
thể phá hoại môi trường sống, có thể làm những việc phi pháp, phi đạo đức, phi nhân
tính, để có lợi cho bản thân, làm thất thoát tài sản của Nhà nước... Trong trường hợp
này hậu quả do cá nhân đó tạo ra làm ảnh hưởng đến cộng đồng xã hội.
Chúng ta cần phân biệt lợi ích chính đáng với lợi ích ích kỷ cá nhân. Lợi ích
chính đáng của cá nhân là động lực phát triển của xã hội, là cái mà xã hội phải tôn
trọng và phát huy, còn lợi ích ích kỷ của cá nhân là nguồn gốc của chủ nghĩa cá nhân,
là nguyên nhân đến sự thoái hoá, biến chất, trộm cắp, tham nhũng của một số cá nhân
trong bộ máy của Nhà nước. Nếu xã hội không có những biện pháp tích cực và có hiệu
quả thì những tệ nạn này chẳng những không giảm đi, mà trái lại càng gia tăng, vì
cùng với sự phát triển kinh tế, của cải xã hội, phúc lợi tập thể sẽ tăng lên và những thứ
này lại được giao cho cá nhân trực tiếp quản lý.
Thực tế cho thấy rằng ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tình trạng tham nhũng, suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên là
rất nghiêm trọng. Sở dĩ có tình trạng trên là do nguyên nhân chủ quan trong quá trình
thực hiện đường lối của Đảng:
Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt, kỷ
luật, kỷ cương chưa nghiêm. Tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh
thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, pháp luật, chính sách
của Nhà nước, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho đường lối của Đảng khó
đi vào cuộc sống. Công tác chỉ đạo, điều hành ở các cấp, các ngành còn bất cập, thiếu
kiểm tra, đôn đốc và chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu lực và hiệu quả chưa cao.
Nhiều cán bộ, Đảng viên vi phạm pháp luật và Điều lệ của Đảng còn chưa được xử lý
thật kiên quyết.
Một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa
được thông suốt ở các cấp, các ngành. Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên
quyết, hiệu quả thấp. Tổ chức bộ máy Nhà nước còn cồng kềnh, trùng lặp chức năng
với nhiều tầng nấc trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà, không ít trường
hợp trên và dưới, trung ương và địa phương hành động không thống nhất, gây khó
khăn cho việc phát triển kinh tế xã hội và là giảm động lực phát triển. Một số người và
cơquan do lợi ích cá nhân, cục bộ không muốn đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách
tổ chức bộ máy Nhà nước....
Trên đây là những tiêu cực của một số cá nhân có chức quyền và lạm dụng nó để
tiến hành mưu lợi riêng cho mình, gây tổn thất nặng nề cho nền kinh tế quốc dân. Còn
đối với các chủ thể sản xuất kinh doanh bất chấp pháp luật để chạy theo lợi nhuận.
Hiện tượng làm hành giả, hàng lậu vẫn tiếp tục phát triển làm ảnh hưởng đến chất
lượng sản phẩm.
Như vậy, chính mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nảy sinh trong
nền kinh tế thị trường, càng cho thấy rõ được tầm quan trọng trong vai trò quản lý của
Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tiêu cực
trong xã hội đó là sự quản lý yếu kém, không đồng bộ của Nhà nước. Chính vì vậy mà
trong Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ IX, chủ trương chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự
thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong toàn Đảng, lãnh đạo tổ chức thực
hiện, xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Cần nhận thức
rằng: "Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự