Lê nin không những là vị lãnh tụ vĩ đại của nước Nga mà còn là một danh nhân lớn của
thế giới. Suốt cuộc đời ông đã sống và đấu tranh cho giai cấp vô sản, cho chủ nghĩa xã hội và
ông đã để lại cho thế hệ sau nhiều di sản quý báu. Một trong số đó là lý luận về chủ nghĩa tư
bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lý luận đó chẳng những có vị trí rất
quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô cũ mà còn có ý nghĩa rất to
lớn đối với những nước hiện nay đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong đó có nước ta.
Lý luận đó được Lê- nin trình bày trong hệ thống chính sách “Kinh tế mới” - NEP. Theo
Lê nin đối với những nước có nền kinh tế tiểu nông như nước Nga - khi mà cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội chưa có- thì việc chuyển sang chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải
qua một loạt những bước quá độ, cần phải: “ bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên
qua chủ nghĩa tư bản nhà nước tiến lên chủ nghĩa xã hội ”; “ phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản
(nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung
gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp,
phương thức để tăng cường lực lượng sản xuất lên ”.
Lý luận trên được ra đời vào những năm đầu tiên của thập kỷ 20 nhưng cho đến nay (dù
đã trải qua gần 80 năm, lý luận đó vẫn còn nguyên giá trị) nhất là đối với thực tiễn nước ta.
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Cơ sở vật chất kỹ thuật
còn rất thấp kém, nền kinh tế lạc hậu, trì trệ. Bởi vậy, vấn đề cốt yếu đặt ra đối với nước ta là
làm thế nào để đưa nền kinh tế đất nước phát triển, xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa?
Nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước của Lê- nin sẽ giúp chúng ta xác định được
rõ phương tiện, con đường thực hiện mục đích trên. Đó là chúng ta không thể xây dựng trực
tiếp chủ nghĩa xã hội ở nước ta được mà phải “ đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước ”, sử
dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước làm mắt xích trung gian dẫn tới chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta là nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ấy, kinh tế tư
bản nhà nước cũng đang hoạt động rất hiệu quả góp phần đáng kề trong công cuộc xây dựng
đất nước, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chính vì vậy, việc hiểu rõ lý luận của Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước là hết sức
cần thiết và qua đó có thể vận dụng đúng đắn, sáng tạo và có hiệu quả cao lý luận trên vào
thực tiễn nước ta. Vì vậy, em viết đề tài này nhằm tìm hiểu xem: Thế nào là chủ nghĩa tư bản
nhà nước, các hình thức của nó như thế nào, quá trình vận dụng ở nước Nga đã thu được
những thành quả gì, và có áp dụng vào tình hình nước ta được không ? Nếu có, thì áp dụng
như thế nào cho có hiệu quả ?
35 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1715 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và những điều kiện để vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản nhà nước vào nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Lý luận của Lê nin về chủ nghĩa tư
bản nhà nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội
Lời nói đầu
Lê nin không những là vị lãnh tụ vĩ đại của nước Nga mà còn là một danh nhân lớn của
thế giới. Suốt cuộc đời ông đã sống và đấu tranh cho giai cấp vô sản, cho chủ nghĩa xã hội và
ông đã để lại cho thế hệ sau nhiều di sản quý báu. Một trong số đó là lý luận về chủ nghĩa tư
bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lý luận đó chẳng những có vị trí rất
quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô cũ mà còn có ý nghĩa rất to
lớn đối với những nước hiện nay đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong đó có nước ta.
Lý luận đó được Lê- nin trình bày trong hệ thống chính sách “Kinh tế mới” - NEP. Theo
Lê nin đối với những nước có nền kinh tế tiểu nông như nước Nga - khi mà cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội chưa có- thì việc chuyển sang chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải
qua một loạt những bước quá độ, cần phải: “ bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên
qua chủ nghĩa tư bản nhà nước tiến lên chủ nghĩa xã hội ”; “ phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản
(nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung
gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp,
phương thức để tăng cường lực lượng sản xuất lên ”.
Lý luận trên được ra đời vào những năm đầu tiên của thập kỷ 20 nhưng cho đến nay (dù
đã trải qua gần 80 năm, lý luận đó vẫn còn nguyên giá trị) nhất là đối với thực tiễn nước ta.
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Cơ sở vật chất kỹ thuật
còn rất thấp kém, nền kinh tế lạc hậu, trì trệ. Bởi vậy, vấn đề cốt yếu đặt ra đối với nước ta là
làm thế nào để đưa nền kinh tế đất nước phát triển, xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa?
Nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước của Lê- nin sẽ giúp chúng ta xác định được
rõ phương tiện, con đường thực hiện mục đích trên. Đó là chúng ta không thể xây dựng trực
tiếp chủ nghĩa xã hội ở nước ta được mà phải “ đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước ”, sử
dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước làm mắt xích trung gian dẫn tới chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta là nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ấy, kinh tế tư
bản nhà nước cũng đang hoạt động rất hiệu quả góp phần đáng kề trong công cuộc xây dựng
đất nước, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chính vì vậy, việc hiểu rõ lý luận của Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước là hết sức
cần thiết và qua đó có thể vận dụng đúng đắn, sáng tạo và có hiệu quả cao lý luận trên vào
thực tiễn nước ta. Vì vậy, em viết đề tài này nhằm tìm hiểu xem: Thế nào là chủ nghĩa tư bản
nhà nước, các hình thức của nó như thế nào, quá trình vận dụng ở nước Nga đã thu được
những thành quả gì, và có áp dụng vào tình hình nước ta được không ? Nếu có, thì áp dụng
như thế nào cho có hiệu quả ?
I. Lý luận của Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
1. Chính sách “ Kinh tế mới ”- NEP và sự cần thiết vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước.
1.1. Chính sách “ Kinh tế mới”.
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của chính sách “ Kinh tế mới ”.
1.1.1.1. Chính sách “ Kinh tế cộng sản thời chiến ”.
Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, nước xã hội chủ nghĩa đầu
tiên trên thế giới ra đời. Cách mạng Xô Viết tranh thủ giải quyết những vấn đề cấp bách, củng
cố chính quyền của giai cấp vô sản, đặt nền móng cho việc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa.
Đầu năm 1918, Lê nin đã đề ra kế hoạch khôi phục lại nền kinh tế và kế hoạch phát triển
kinh tế trong thời gian trước mắt - kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng đến năm
1918, kế hoạch của Lê nin phải hoãn lại vì nước Nga phải đương đầu với một hoàn cảnh vô
cùng khó khăn: đó là có nội chiến và can thiệp.
Cuộc nội chiến ở Nga là cuộc đấu tranh của nhân dân lao động chống lại sự nổi dậy của
bọn địa chủ, tư sản phản động mong tìm lại “ thiên đường đã mất ”. Lợi dụng tình hình ấy 14
nước đế quốc do Anh, Pháp cầm đầu đã tìm mọi cách can thiệp vũ trang để bóp chết nhà
nước Xô Viết còn non trẻ. Cuộc nội chiến và can thiệp của nước ngoài đã làm cho nước Nga
khó khăn càng thêm khó khăn chồng chất.
Để đối phó với tình hình đó, Lê nin đã nêu ra khẩu hiệu “ Tất cả cho tiêu diệt kẻ thù ”
và thi hành chính sách “ Kinh tế cộng sản thời chiến”.
Chính sách “ Kinh tế cộng sản thời chiến ” gồm các nội dung chính sau đây:
Trưng thu lương thực thừa của nông dân, Nhà nước độc quyền mua bán lúa mì để cung
cấp cho thành thị và quân đội.
Nhà nước kiểm soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm không những đối với đại công
nghiệp mà cả trung và tiểu công nghiệp.
Quốc hữu hoá cả những xí nghiệp vừa và nhỏ, có từ 5 công nhân trở lên (nếu có động
cơ) và 10 công nhân trở lên nếu không có động cơ.
Cầm buôn bán trao đổi sản phẩm trên thị trường, nhất là lúa mì, thực hiện chế độ tem
phiếu, trực tiếp phân phối sản phẩm cho người tiêu dùng, xoá bỏ Ngân hàng Nhà nước.
Đặt chế độ lao động cưỡng bức với nguyên tắc: “ Không làm thì không có ăn”.
Kết quả của chính sách “ Kinh tế cộng sản thời chiến ”.
Chính sách “ Kinh tế cộng sản thời chiến ” đã cho phép sử dụng nhiều nhất tất cả các
nguồn vật lực và hướng sự hoạt động của nhân dân vào phục vụ cho quân đội. Việc trưng thu
lương thực đã đảm bảo cung cấp đủ lương thực cho quân đội và cứu nhân dân lao động tại
các trung tâm công nghiệp khỏi nạn đói. Với chính sách “ Kinh tế cộng sản thời chiến ” và sự
nỗ lực của toàn nhân dân, nước Nga đã giành được những thắng lợi to lớn. Kết quả quan
trọng nhất trong giai đoạn anh hùng này là nước Xô Viết trẻ tuổi đã chiến thắng bọn can thiệp
và bọn Bạch vệ. Đây không chỉ là chiến thắng của quân đội Hồng quân anh hùng mà còn là
chiến thắng của hàng triêụ lao động ở hậu phương Xô Viết. Chiến thắng ấy đã kết thúc những
năm tháng chiến tranh, từ đây nước Nga bước vào thời kỳ xây dựng trong hoà bình.
1.1.1.2. Bước chuyển từ chiến tranh sang hoà bình, hoàn cảnh ra đời của chính sách “
Kinh tế mới ”.
Năm 1920, chiến tranh kết thúc, nước Nga chuyển sang thời kỳ kiến thiết trong hoà
bình. Nước Nga đã tiến hành công cuộc xây dựng đất nước trong những điều kiện vô cùng
khó khăn.
Về tình hình quốc tế: Giai cấp tư sản quốc tế vẫn chưa chịu từ bỏ dã tâm tiêu diệt chế độ Xô
Viết. Chúng vẫn muốn bóp chêt nhà nước Xô Viết về mặt kinh tế. Bởi vậy, nước Nga phải tự lực,
tự cường trong công cuộc xây dựng kinh tế.
Về tình hình trong nước: Tình trạng vô cùng bi đát: 4 năm chiến tranh đế quốc, 3 năm
nội chiến và can thiệp vũ trang của nước ngoài đã tàn phá toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Lúc
này trình độ nền kinh tế chỉ tương đương trình độ nền kinh tế nước Nga quân chủ đầu thế kỷ
XIX.
Về công nghiệp: Bị tổn thất lớn nhất, đặc biệt là đại công nghiệp. So với năm 1913, sản
xuất đại công nghiệp giảm xuống chỉ còn 1/7 (12,8%) . Nhiều nhà máy thuộc hạng lớn nhất
ngừng hoạt động như: Cơ- ma - ra - tốc, E-ca- t ê- ri- nô-slap, A- lếch - xăng- đơ- rôp, Ma -
ri- u- ponski, Ta- gan - rốc,...... Tổng số công nhân giảm đi một nửa. Nếu năm 1913 là 2 triệu
400 ngàn người thì năm 1920 chỉ còn 1 triệu 270 ngàn người. Năng suất lao động giảm sút.
Về nông nghiệp: Mất mùa, hạn hán liên tục xảy ra làm năng suất, sản lượng giảm sút.
Năm 1920 sản lượng nông nghiệp nước Nga chỉ bằng một nửa so với năm 1913. Nước Nga
có nguy cơ lâm vào một nạn đói trầm trọng.
Về giao thông vận tải: Bị tàn phá nghiêm trọng; 61% số đầu máy và 28% số toa xe bị
phá cùng với 4000 chiếc cầu và các ga, các kho tàng. So với trước chiến tranh, khối lượng
vận chuyển năm 1920 chỉ còn 20 % không tính đến khối lượng vận chuyển của quốc phòng
và nhu cầu của bản thân ngành đường sắt là 12 %.
Về tài chính tín dụng: Lâm vào tình trạng rối loạn. Năm 1918, bội chi ngân sách 81 tỷ
rúp. Năm 1921, con số bội chi lên tới 21.937 tỷ rúp. Nếu năm 1914, mức bảo đảm vàng cho
khối lượng tiền tệ trong lưu thông là 98,2% thì năm 1917 chỉ còn 6,8%.
Như vậy, nền kinh tế nước Nga đã lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng và toàn
diện. Lê nin đã ví nền kinh tế nước Nga lúc này như một người bị đánh thập tử nhất sinh chỉ
có thể đi lại bằng đôi nạng.
Trong những năm nội chiến và nước ngoài vũ trang can thiệp, nhân dân vui lòng chịu
đựng khó khăn gian khổ, vui lòng thực hiện chính sách “ Kinh tế cộng sản thời chiến ”, vui
lòng chịu đựng cảnh trưng thu lương thực và sự thiếu thốn gắt gao về những nhu yếu phẩm
cần thiết. Nhân dân nhận thức được rằng toàn quốc cần phải dốc sức ra để đè bẹp bọn can
thiệp và bọn Bạch vệ, tức là kẻ thù chung của gian cấp công nhân và nhân dân lao động.
Nhưng khi cuộc chiến tranh kết thúc, chính sách “ Kinh tế cộng sản thời chiến ” đã làm xong
nhiệm vụ bất đắc dĩ của mình, giờ đây không cho phép dẫn nó đi xa hơn nữa vì trong các tầng
lớp nhân dân bắt đầu có sự bất mãn. Khối liên minh công nông có nguy cơ bị tan vỡ.
ở nhiều nơi, sự bất mãn của nông dân đã bị các thế lực phản cách mạng trong nước lợi
dụng để tổ chức những cuộc phiến loạn công khai chống lại chính quyền Xô Viết. Mùa hè
năm 1920, phiến loạn ở Tam - bốp và Vô - nô - xe - gô. Đầu năm 1921, phiến loạn nổ ra ở
nhiều nơi thuộc Xi- bê - ri và tiêu biểu nhất là cuộc bạo loạn ở Cron- Xtat gần Lê- nin- grát.
Vì vậy, cần thiết phải trở lại những quan hệ kinh tế khách quan giữa công nghiệp và nông
nghiệp, giữa thành thị và nông thôn. Do những yêu cầu đó, Đại hội X của Đảng Cộng sản
Bôn - sê - vích Nga họp từ 8 đến 16/3/1921 đã chủ trương thay chính sách “Kinh tế cộng sản
thời chiến” bằng chính sách “ Kinh tế mới ”.
1.1.2. Nội dung của chính sách “ Kinh tế mới ”.
Chính sách “ Kinh tế mới ” - NEP bao gồm những nội dung chính sau đây:
Bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa, thay vào đó là thuế lương thực.
Những xí nghiệp nhỏ trước đây bị quốc hữu hoá, nay cho tư nhân thuê hay mua lại để
kinh doanh tự do (chủ yếu là xí nghiệp sản xuất hay hàng tiêu dùng) .
Cho phép mở rộng trao đổi hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và
nông nghiệp, cho thương nhân được tự do hoạt động (chủ yếu trong lĩnh vực bán lẻ) để góp
phần khôi phục kinh tế, củng cố lại lưu thông tiền tệ trong nước.
Thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh trong các xí nghiệp quốc doanh.
Thực chất của chính sách “ Kinh tế mới ” - NEP là tăng cường cơ sở kinh tế của liên
minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân và nông dân, liên minh này là nguyên tắc tối cao của
chuyên chính vô sản, là cơ sở của chính quyền Xô Viết, là điều kiện quan trọng nhất để xây
dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội. NEP thiết lập mối quan hệ đúng đắn giữa công nghiệp xã hội
chủ nghĩa với kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân thông qua thông qua việc sử dụng
rộng rãi quan hệ hàng hoá - tiền tệ dưới sự kiểm soát của nhà nước để phát triển lực lượng
sản xuất; đồng thời, NEP cho phép phát triển và hướng kinh tế tư bản vàp con đường chủ
nghĩa tư bản nhà nước khi những đỉnh cao của nền kinh tế vẫn nằm trong tay nhà nước để
phát triển công nghiệp hoá.
Qua nội dung của chính sách “ Kinh tế mới ”, ta có thể thấy tinh thần chính của chính
sách “ Kinh tế mới ” - NEP là không thể xây dựng trực tiếp chủ nghĩa xã hội trong điều kiện
kinh tế lạc hậu mà cần phải quay về với con đường tiến hoá tự nhiên của nền kinh tế xã hội.
Theo Lê nin, chủ nghĩa tư bản nhà nước là một hình thức kinh tế của con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản nhà nước là con đường một nước lạc hậu phải đi qua để
tới chủ nghĩa xã hội.
Lê nin cho rằng từ một nền kinh tế lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển bao nhiêu
thì nội dung tiến hoá tất yếu là phát triển kinh tế hàng hoá thực hiện trao đổi tự do, hình thành
thị trường và phát triển chủ nghĩa tư bản “ như một tất yếu không thể tránh khỏi ”, là nấc
thang trong sự tiến hoá của kinh tế. Chủ nghĩa tư bản là “ xấu so với chủ nghĩa xã hội ” nhưng
lại là tốt, là tiến bộ hơn so với thời trung cổ, với nền sản xuất nhỏ, với chủ nghĩa quan liêu.
Do đó, trong cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản sẽ là mắt xích, là phương thức
để phát triển lực lượng sản xuất, và nhờ đó dẫn tới những cơ sở cho sự thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội. Như vậy, nếu trong con đường tuần tự, chủ nghĩa tư bản hay đúng ra là những
quan hệ tư bản sẽ dẫn tới xã hội tư bản, thì ở đây, chúng chỉ là khâu trung gian để xác lập chủ
nghĩa xã hội.
Có thể nói chủ nghĩa tư bản nhà nước là khâu then chốt nhất trong chính sách “ Kinh tế
mới ” - NEP. Với chủ nghĩa tư bản nhà nước, Lê nin đã tìm ra được “ cái khâu quyết định để
nối tất cả chuỗi tiến hoá trong lịch sử thành một cơ cấu chung, thành một cơ chế vận hành của
một nền kinh tế quá độ. ở đây quá trình tiến hoá lại là một quá trình lịch sử tự nhiên được rút
ngắn lại ”. Trong đó, nguyên tắc kinh tế hàng hoá là cơ sở chung, trên đó mọi thành phần
kinh tế hoạt động. Chủ nghĩa tư bản là nấc thang phát triển cao của kinh tế hàng hoá, bởi vậy,
trong kinh tế hàng hoá phát triển, các thành phần kinh tế đều có tính tư bản còn chủ nghĩa tư
bản nhà nước là nấc thang phát triển cao của chủ nghĩa tư bản, đến lượt mình, chủ nghĩa tư
bản nhà nước lại biểu hiện ra là một trình độ phát triển cao, là hình thái phát triển của xã hội
hoá hoạt động kinh tế. Như vậy, chủ nghĩa tư bản nhà nước là hình thái hội tụ tất cả các thành
phần kinh tế trong một hình thái chung, một cơ cấu chung. Có thể nói, chủ nghĩa tư bản nhà
nước là một hình thức kinh tế của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là con đường tién
hoá lịch sử - tự nhiên được rút ngắn đối với những nước lạc hậu chuyển lên chủ nghĩa xã hội.
Chính sách “ Kinh tế mới ” đã tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất ở cả thành thị
lẫn nông thôn vì nó đáp ứng được yêu cầu của quy luật kinh tế của nền sản xuất xã hội chủ
nghĩa còn mang tính chất hàng hoá và có nhiều thành phần, trong đó có vấn đề sử dụng quan
hệ hàng hoá tiền tệ và việc sử dụng thành phần kinh tế tư bản nhà nước và tư nhân. Ngoài ra,
trong lý luận và thực tiễn hoạt động chính sách này đã nêu và thể hiện quan điểm mới về con
đường và các bước đi của thời kỳ quá độ. Đây không chỉ là sách lược có tính chất bắt buộc để
giải quyết tình trạng khủng hoảng ở Nga mà còn là đường lối chiến lược của thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là lý luận của Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước.
1.2. Sự cần thiết phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội.
1.2.1. Quan niệm của Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Trước khi nghiên cứu tính tất yếu của việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, chúng ta cần nghiên cứu quan niệm của Lê
nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước, bản thân khái niệm này đã nói rõ nguồn gốc lịch sử của nó
gắn với một giai đoạn phát triển nhất định của chủ nghĩa tư bản, với chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện chuyên chính tư sản là hình thức biến dạng
của sở hữu tư bản chủ nghĩa. Mặc dù đó là quyền sở hữu của nhà nước, nhưng hình thức sở
hữu này không làm thay đổi bản chất chế độ tư bản chủ nghĩa, vì nó vẫn dựa trên cơ sở chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất, còn bản thân nhà nước thì nằm trong tay bọn trùm tư bản kếch
xù.
Khi giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền và thiết lập một Nhà
nước của dân, do dân, vì dân cũng xuất hiện một kiểu chủ nghĩa tư bản nhà nước chưa hề có
trong lịch sử - chủ nghĩa tư bản nhà nước trong nhà nước chuyên chính vô sản. Đây là một
khái niệm hoàn toàn mới mà trước Lê nin chưa từng có ai (kể cả Mac) đề cập đến khái niệm
này.
Theo quan niệm của Lê nin, có thể hiểu chủ nghĩa tư bản nhà nước theo nghĩa rộng và
hẹp như nhau:
Chủ nghĩa tư bản nhà nước là chủ nghĩa tư bản do nhà nước “ kiểm soát và điều tiết ” sự
phát triển, vấn đề khác nhau chỉ là ở chỗ sự kiểm soát và điều tiết ấy nhằm mục đích gì, có lợi
cho ai, trong giới hạn nào, bằng phương pháp gì và có khả năng kiểm soát, điều tiết đạt đến
mức độ nào.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước là chính quyền nhà nước trực tiếp khống chế những xí
nghiệp tư bản chủ nghĩa này hay xí nghiệp tư bản chủ nghĩa khác. Sự khống chế trực tiếp ấy
đạt đến mức độ nào trong thực tế sẽ quyết định trình độ và hình thức khác nhau của chủ nghĩa
tư bản nhà nước.
Toàn bộ vấn đề là phải hiểu rõ với điều kiện nào thì phải phát triển chủ nghĩa tư bản và
nhà nước là của ai. Cũng từ đây mà ta hiểu được tính chất “ đặc biệt ”, “ không thông thường
” của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong tay nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trước hết, Lê nin đã khẳng định ngay “ Chủ nghĩa tư bản nhà nước ở trong một nước
mà chính quyền thuộc về tư bản và chủ nghĩa tư bản nhà nước ở trong một nước vô sản là hai
khái niệm khác nhau ”. Lê nin cho rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới chế độ tư bản nhà
nước là chủ nghĩa tư bản nhà nước thông thường, còn chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới chế độ
cộng sản là chủ nghĩa tư bản nhà nước đặc biệt. Chúng phân biệt nhau bởi hai tính chất sau
đây:
Thứ nhất, ở tính chất giai cấp của nhà nước: “ Chủ nghĩa tư bản nhà nước của chúng tôi
khác về căn bản so với chủ nghĩa tư bản nhà nước ở những nước có chính phủ tư sản, sự khác
biệt đó chính là ở chỗ nhà nước của chúng tôi không phải đại diện cho giai cấp tư sản mà là
đại diện cho giai cấp vô sản ”.
Thứ hai, đó là sự khác biệt về tính chất xã hội của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất: “
chủ nghĩa tư bản nhà nước của chúng tôi... chẳng những nắm ruộng đất mà còn nắm những bộ
phận quan trọng nhất của công nghiệp nữa ”.
Từ sự phân biệt đó, Lê nin đã luận giải rằng: “ Hiện nay, thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà
nước có nghĩa là thực hiện chế độ kiểm kê và kiểm soát mà trước đây giai cấp tư sản đã thực
hiện ”, và rằng “ chủ nghĩa tư bản nhà nước là cái gì có tính chất tập trung, được tính toán,
được kiểm soát và được xã hội hoá”.
Về mặt chính trị, Lê nin cũng khẳng định chủ nghĩa tư bản nhà nước là “ không đáng sợ,
không thay đổi được gì có tính chất căn bản trong chế độ xã hội của nước Nga Xô Viết ” và “
chủ nghĩa tư bản nhà nước là một hình thức mới của đấu tranh giai cấp chứ không phải là hoà
bình giai cấp ”.
Khái niệm về chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới chế độ cộng sản là một khái niệm hoàn
toàn mới mẻ, do Lê nin lần đầu tiên đưa ra. Trước Lê nin không có một quyển sách nào viết
một dòng về khái niệm này, kể cả Mác. Nhưng cả trong lý luận và thực tiễn nước Nga thời kỳ
đó đã chứng minh đó là một quan điểm hoàn toàn đúng đắn. Từ quan niệm đúng đắn đó, Lê
nin đã chỉ rõ tính tất yếu phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thực tiễn nước Nga
lúc bấy giờ.
1.2.2. Sự cần thiết vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Theo Lê nin, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước Nga lúc bấy giờ là một tất yếu
vì những lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga lúc bấy giờ, Lê nin đã
nhận thức được rằng không thể trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông như
nước Nga; không thể chỉ đơn thuần dựa vào nhiệt tình cách mạng và những biện pháp trực
tiếp của nhà nước vô sản để tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm theo kiều cộng sản chủ
nghĩa. Lê nin cho rằng: “ Trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những
chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội
“. Như vậy việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước là một chủ trương đúng đắn phù hợp. Đây
không phải là sự quay về chủ nghĩa tư bản mà là một bước lùi chiến lược, là sự trở lại con
đường phát triển hợp quy luật của nền kinh tế.
Thứ hai, do việc chấp nhận các quan hệ thị trường trong chính sách “Kinh tế mới ”, nên
sự tồn tại của