Qua tất cả các phần đã nghiên cứu ở trên, chúng ta đã phần nào nắm được tư 
tưởng của Lê nin về chủ nghĩa t ư bản nhà nước trong hệ thống chính sách “ Kinh 
tế mới ” cũng như vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước đối với thực tiễn hiện nay 
của nước ta.
Như vậy, chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự can thiệp một cách tích cực của 
nhà nước xã hội chủ nghĩa vào quá trình kinh tế của các nhà tư bản. Nó khác hẳn 
chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ còn tồn tại nhà nước tư sản. Tính chất 
hoạt động của nó đã thay đổi: nó không chỉ chịu sự kiểm soát và chi phối của nhà 
nước xã hội chủ nghĩa mà còn hợp tác với nhà nước xã hội chủ nghĩa để cùng sản 
xuất kinh doanh. Chính vì vậy, Lê nin đã cho rằng việc sử dụng chủ nghĩa tư bản 
nhà nước là “ bước đệm quan trọng để tiến tới chủ nghĩa xã hội ”. Và việc sử dụng 
chủ nghĩa tư bản nhà nước “ sẽ đưa chúng ta tới chủ nghĩa xã hội bằng con đường 
chắc chắn nhất ”.
Hiện nay, nước ta đang từng bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn 
cảnh mới. Trong đường lối đổi mới của mình, chúng ta đã đặt kinh tế tư bản nhà 
nước đứng ở vị trí thứ ba trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Như vậy, kinh tế 
tư bản nhà nước không chỉ được coi như một thành phần kinh tế cùng tồn tại bình 
đẳng với các thành phần kinh tế khác, mà nó còn mang ý nghĩa như những “ nấc 
thang trung gian cần thiết ” để liên kết các thành phần kinh tế tư bản tư nhân trong
nước, kể cả tầng lớp tiểu tư sản hướng sự phát triển đó theo tay lái Nhà nước 
XHCN. Với ý nghĩa như vậy, kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta không thể chỉ coi 
như là một giải pháp mang tính chất tình thế mà là một nội dung tổng quát có ý 
nghĩa chiến l ược xuyên suốt thời kỳ quá độ cũng như quá trình công nghi ệp hoá, 
hiện đại hoá. 
Như vậy, có thể nói vận dụng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước chính là 
phương thức để chúng ta huy động sức mạnh dân tộc, của các thành phần kinh tế 
nhằm giải phóng sức sản xuất, kết hợp nội lực bên trong với các yếu tố bên ngoài 
để đưa nước ta thoát khỏi đói nghèo, hướng tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã 
hội công bằng văn minh như đại hội VIII của Đảng đã khẳng định.
Tuy nhiên, vận dụng kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta đang còn là vấn đề 
mới mẻ và phức tạp. Những gì nhận thức và đạt được đến nay mới chỉ là bước 
đầu. Vì vậy, cần xuất phát từ thực tiễn đổi mới để tìm ra con đường, biện pháp phù 
hợp đưa nước ta từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc. Những 
vấn đề mà trong đề án này đã đề cập còn rất hạn hẹp và cần phải được tiếp tục 
nghiên cứu.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 19 trang
19 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2006 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phương hướng và những điều kiện để vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản nhà nước vào nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Thực trạng – giải pháp phát triển kinh tế 
tư bản nhà nước ở việt nam hiện nay 
1. Sự cần thiết và khả năng sử dụng kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta 
hiện nay. 
1.1. Tính tất yếu khách quan của việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản 
nhà nước ở nước ta hiện nay. 
Để thấy rõ tính khách quan của việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà 
nước ở nước ta hiện nay chúng ta cần phải nắm được đặc điểm cũng như trình độ 
của nền kinh tế nước ta. Có thể nói nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông 
nghiệp lạc hậu với gần 80% dân số tham gia hoạt động nông nghiêp với kỹ thuật 
thô sơ là phổ biến. Công nghiệp nhỏ bé, thương nghiệp, giao thông vận tải và dịch 
vụ chưa phát triển. Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang lãnh đạo nhân dân ta tiến 
hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với mục đích đưa 
nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp tiên 
tiến, hiện đại, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đổi mới ấy, nền 
kinh tê nước ta cũng được chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan 
liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị 
trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Trong nền 
kinh tế nhiều thành phần ấy, Đảng ta đã xác định kinh tế tư bản nhà nước là một 
trong năm thành phần kinh tế cơ bản. Đó là một chủ trương đúng đắn, tất yếu của 
Đảng và nhà nước ta vì những nguyên nhân sau đây: 
Thứ nhất, như trên đã nói, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa 
xã hội, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó tất yếu tồn tại 
thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Mặt khác, với chính sách khuyến khích tự do 
trao đổi hàng hoá, khuyến khích làm giàu chính đáng, tất yếu sẽ nảy sinh một tầng 
lớp tư sản mới. Không thể dùng sắc lệnh để loại bỏ được thành phần kinh tế này, 
cách tốt nhất là hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Như vậy, sự 
tồn tại của kinh tế tư bản nhà nước vừa mang tính tất yếu khách quan vừa như là 
một sách lược kinh tế của nhà nước ta để định hướng cho các thành phần kinh tế 
khác (tiêu biểu là thành phần kinh tế tư bản tư nhân) đi lên chủ nghĩa xã hội. 
Thứ hai,ở một nước mà nền tiểu sản xuất chiếm ưu thế như nước ta thì không 
thể trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội được. Do đó chúng ta phải sử dụng kinh tế 
tư bản nhà nước như một sách lược kinh tế. Hay nói cách khác chủ nghĩa tư bản 
nhà nước sẽ là mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất va chủ nghĩa xã hội, làm 
phương tiện, con đường, phương pháp phương thức để tăng lực lượng sản xuất. Lê 
nin đã từng nói: “ trong một nước tiểu nông trước hết các đồng chí phải bắc những 
chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước tiến lên chủ 
nghĩa xã hội ”. Sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước sẽ giúp chúng ta phát 
triển lực lượng sản xuất vì kinh tế tư bản nhà nước có ưu thế về vốn, kỹ thuật và 
công nghệ cũng như những kinh nghiệm và biện pháp quản lý kinh tế tiên tiến. 
Thông qua hình thức hơp tác, đầu tư với tư bản trong và ngoài nước, chúng ta sẽ 
thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại.... Đặc biệt trong điều kiện cuộc 
cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra như vũ bão thì hình thức kinh tế tư 
bản nhà nước sẽ giúp chúng ta tránh khỏi nguy cơ bị tụt hậu. Bên cạnh đó, chúng 
ta còn học tập thêm được những phương pháp cũng như những kinh nghiệm quý 
báu của các nhà tư bản nước ngoài trong quản lý kinh tế. Đó là những tiền đề hết 
sức cần thiết để nước ta tiến hành thành công công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá đất nước. Như vậy, sử dụng kinh tế tư bản nhà nước không những là một tất 
yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà còn là một biện pháp 
để chúng ta tăng cường phát triền lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó phát triển 
nhanh nền kinh tế để đi lên chủ nghĩa xã hội. 
Thứ ba, việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước còn phù hợp với xu 
thế quốc tế hoá đang diễn ra trên toàn bộ thế giới và đặc biệt là khu vực Đông 
Nam á. Chúng ta sẽ không thể phát triển được nếu không mở rộng quan hệ kinh tế 
với các nước trong khu vực và trên thế giới kể cả các nước chủ nghĩa xã hội cũng 
như các nước tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, sự hợp tác về kinh tế với các nước tư bản 
thông qua hình thữc kinh tế tư bản nhà nước là một tất yếu trong quá trình mở 
rộng sự hợp tác phát triển trên mọi lĩnh vực. 
Từ tất cả các điều trên có thể kết luận rằng ở nước ta hiện nay, việc sử dụng 
hình thức kinh tế tư bản nhà nước là một tất yếu khách quan. Sử dụng kinh tế tư 
bản nhà nước sẽ là điều kiện cần thiết để khắc chế tính tự phát trong sản xuất và 
chế độ sản xuất phân tán kém hiệu quả của kinh tế sản xuất nhỏ, nhằm khai thác 
tối đa tiềm năng để tập trung cho các nguồn lực hướng về mục tiêu kinh tế - xã hội 
cao nhất như công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và các chương trình kinh tế 
lớn khác. Hơn nữa, tố chất cạnh tranh vốn có của hình thái kinh tế tư bản chủ 
nghĩa sẽ như chất xúc tác cho một môi trường kinh tế cạnh tranh sôi động, giúp 
cho tất cả các thành phần kinh tế trong xã hội có một sự nhận thức về bản thân 
mình đúng hơn, ý thức hơn về nhu cầu tồn tại trong phát triển xã hội, và do đó sẽ 
đáp ứng sản phẩm tốt hơn cho người tiêu dùng. Một hệ quả hết sức quan trọng của 
sự phối hợp kinh tế trong nước với nhau và trong nước với nước ngoài là sự giao 
lưu và tăng trưởng trí tuệ, kiến thức xã hội và do đó thúc đẩy mặt bằng học vấn 
kinh tế xã hội được nâng cao. Chính vì tất cả những lý do trên mà Đảng và Nhà 
nước ta đã áp dụng một cách rộng rãi, phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà 
nước để phát triển lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị 
quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII viết: “ Kinh tế tư bản nhà nước bao gổm các hình 
thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và 
hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản 
nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công 
nghê, khả năng tổ chữc quản lý.... của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, 
cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước... ”. 
2.1. Những khả năng sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta. 
Như vậy, qua phần phân tích trên ta thấy rõ tính tất yếu của việc sử dụng 
hình thức kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta. Nhưng chúng ta sẽ vận dụng như thế 
nào? Liệu nước ta có đủ điều kiện và khả năng để sử dụng hình thức kinh tế tư bản 
nhà nước hay không? 
Lý luận của Lê nin đã chỉ rõ, để sử dụng có hiệu quả chủ nghĩa tư bản nhà 
nước thì trước hết, chính quyền nhà nước phải nằm trong tay giai cấp công nhân. ở 
nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản - Đảng tiên phong của giai cấp công nhân và 
nhân dân lao động đang giữ vai trò lãnh đạo. Toàn thể nhân dân ta đều tin tưởng 
vào sự lãnh đạo của Đảng và đang nỗ lực phấn đấu để đưa đất nước ta tiến lên chủ 
nghĩa xã hội. Có thể nói, đây là điều kiện đầu tiên quan trọng nhất để sử dụng chủ 
nghĩa tư bản nhà nước. 
Thứ hai, về mặt kinh tế, nước ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá quan 
liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị 
trường có sự điều tiết của nhà nước. Đây là một điều kiện rất quan trọng để phát 
triển kinh tế tư nhân trong nước cũng như nước ngoài trên cơ sở đó vận dụng các 
hình thức kinh tế tư bản nhà nước như: liên doanh, liên kết giữa nhà nước và tư 
bản tư nhân trong nước và liên doanh, liên kết giứa nhà nước và tư bản tư nhân 
nước ngoài.... 
Thứ ba, về mặt luật pháp, chúng ta đã ban hành và đang tiếp tục hoàn thiện 
hành lang pháp lý về thành phần kinh tế tư nhân trong nước, liên doanh giữa nhà 
nước và kinh tế tư bản tư nhân trong nước, về đầu tư nước ngoài cũng như liên 
doanh giữa nhà nước và nước ngoài.... 
Không những thế, những xu thế quốc tế hiện nay cũng tạo cho nước ta những 
thuận lợi nhất định. Trước hết, đó là xu thế hoà bình, hợp tác quốc tế trên cơ sở hai 
bên cùng có lợi. Khác với thời kỳ chiến tranh lạnh trước kia, ngày nay, Việt Nam 
mong muốn làm bạn với tất cả các nước, cùng hợp tác trong mọi lĩnh vực, đặc biệt 
là kinh tế. Đây không chỉ là mong muốn của nước ta mà đã là sách lược của tất cả 
các nước trong khu vực và hầu hết các nước trên thế giới. Xu thế này tạo điều kiện 
rất thuận lợi để chúng ta kêu gọi, thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 
Cùng với xu thế hợp tác là xu thế quốc tế hoá. Quá trình quốc tế hoá đang 
diễn ra hết sức mạnh mẽ trong khu vực cũng như toàn thế giới tác động rất mạnh 
mẽ đến nền kinh tế nước ta. Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào có 
thể tồn tại độc lập, riêng rẽ mà phải nằm trong mối quan hệ với các quốc gia khác, 
đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Có thể nói nền kinh tế của một quốc gia ngày 
nay nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế thế giới, nền kinh tế toàn cầu. 
Chính vì vậy, kinh tế tư bản nhà nước đặc biệt là liên kết giữa nhà nước và tư bản 
nước ngoài sẽ tạo điều kiện để nước ta gia nhập và là một bộ phận trong nền kinh 
tế đó để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu. 
Như vậy, nước ta có đầy đủ khả năng và điều kiện để vận dụng chủ nghĩa tư 
bản nhà nước kể cả về mặt kinh tế cũng như chính trị, xã hội, luật pháp và xu 
hướng quốc tế. Điều quan trọng nhất hiện nay là chúng ta phải vận dụng tốt lý luận 
của Lê- nin vào tình hình cụ thể của nước ta để thu được hiệu quả cao. 
2. Những hình thức cụ thể của kinh tế tư bản nhà nước đang được vận 
dụng ở nước ta. 
Để có thể vận dụng có hiệu quả chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta một 
mặt chúng ta không thể xa rời các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mac - Lê-nin, 
mặt khác, chúng ta cũng không thể rập khuôn máy móc hay mô phỏng một cách 
giáo điều mô hình kinh tế của nước Nga những năm 20. Vì vậy, chúng ta cần phải 
nẵm vững những tư tưởng mà Lê nin đã nêu ra đồng thời dựa trên tình hình thực tế 
của nước ta để vận dụng lý luận đó sao cho có hiệu quả nhất. áp dụng máy móc 
hoặc xa rời chủ nghĩa Mac- Lê- nin trong tổ chức và thực hiện đều là sai lầm 
không thể chấp nhận được. 
Từ quan điểm của Lê nin và căn cứ vào thực tiễn nước ta trong bối cảnh hiện 
nay có thể xác định các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước cần vận dụng ở 
nước ta như sau: 
2.1. Hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản tư nhân trong nước. 
Thông qua sự liên doanh, liên kết giữa nhà nước và các chủ thể sở hữu ngoài 
quốc doanh ỏ trong nước, nhà nước có thể huy động vốn được nhiều, đổi mới kỹ 
thuật và quy trình công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị 
trường.... Đồng thời, phía nhà nước cũng dễ dàng thực hiện được sự kiểm kê, kiểm 
soát, hướng dẫn, điều tiết sự phát triển để thúc đẩy cải cách cơ cấu kinh tế và cơ 
cấu sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế, cấu 
trúc lại nền kinh tế. 
Trước đây, hình thức này gọi là “ công tư hợp doanh ” nhưng chúng ta mới 
chỉ áp dụng một cách hạn chế với chủ trương cốt để cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm 
sớm đi đến xoá bỏ kinh tế tư bản tư nhân. Nay, trên cơ sở quan điểm thừa nhận 
các thành phần kinh tế còn tồn tại và phát triển lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ 
nghĩa xã hội, hình thức này cần được sử dụng và phát triển phong phú và đa dạng 
hơn. 
Tính đến nay, nước ta đã có khá nhiều doanh nghiệp thuộc thành phần kinh 
tế tư nhân. Quy mô của đa số những doanh nghiệp này còn rất nhỏ bé, lại dàn trải 
ở các ngành kinh tế dịch vụ, nông lâm -ngư- nghiệp xây dựng và chỉ chiếm trên 
9% GDP của cả nước. Để phát huy thế mạnh của thành phần kinh tế này, bên cạnh 
việc tạo điều kiện cho thành phần kinh tế tư bản tư nhân phát triển, cần khuyến 
khích nó liên doanh, liên kết với kinh tế nhà nước, qua đó mà tăng vốn, đổi mới 
công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, tăng sức cạnh tranh và tăng khả năng hợp 
tác với nước ngoài. Đây là một đòi hỏi bức xúc của công nghiệp hoá, hiện đại hoá 
đất nước. 
Trong thời gian qua, nước ta đã áp dụng các phương thức góp vốn liên doanh 
giữa nhà nước với các nhà tư bản để hình thành các công ty cổ phần, công ty trách 
nhiệm hữu hạn nhưng trong tổ chức vẫn còn những trở ngại. Để mở rộng hình 
thức này, một mặt cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, mặt khác, đẩy mạnh hơn 
nữa cổ phần hoá một bộ phận các doanh nghiệp nhà nước, phát triển các loại hình 
các công ty cổ phần, có quy chế tạo khả năng lưu hành rộng rãi cổ phiếu, phát 
triển thị trường chứng khoán, hoàn thiện các yếu tố của nền kinh tế thị trường. 
2.2. Hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản tư nhân nước ngoài. 
Trong lý luận của mình về chủ nghĩa tư bản nhà nước, Lê nin đã chỉ rõ việc 
sử dụng vốn, các chuyên gia tư sản nước ngoài vào phát triển kinh tế trong thời kỳ 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là hết sức quan trọng. Hiện nay, trong bối cảnh quốc 
tế mới, các nước đang và mới phát triển có cơ hội sớm đi tới một nền kinh tế hiện 
đại thông qua nhiều con đường như học hỏi, tiếp nhận chuyển giao công nghệ... 
của các nước phát triển. Chính vì vậy, đối với nước ta hình thức liên doanh giữa 
kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân nước ngoài sẽ giúp chúng ta phát triển sản 
xuất trong nước, rút ngắn khoảng cách lạc hậu giữa nước ta với các nước trong 
khu vực. 
Hiện nay, liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản nước ngoài có hai hình 
thức. Đó là các công ty liên doanh giữa nhà nước và tư bản nước ngoài và các 
công ty 100% vốn nước ngoài. Thông qua các hình thức này, Nhà nước thu hút và 
cho phép các nhà tư bản và công ty nước ngoài đầu tư vào trong nước để phát triển 
sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, ta có thể tiếp thu những công nghệ sản xuất tiên 
tiến của nước ngoài, học tập được các phương thức và kinh nghiệm quản lý hiện 
đại - những kiến thức mà hiện nay chúng ta rất yếu và rất thiếu. Hơn nữa, thông 
qua hình thức này, chúng ta có thể sản xuất được nhiều mặt hàng cao cấp mà trong 
nước chưa sản xuất được, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng 
hoá trong nước. 
Hiện nay, ở nước ta, các hình thức này đang được triển khai tích cực. Tính 
đến tháng 7 năm 1997, trong cả nước đã có 2067 dự án đầu tư nước ngoài được 
cấp giấy phép hoạt động với số vốn đăng ký 31,3 tỷ USD. Ngoài ra những năm 
gần đây các nhà tài trợ nước ngoài đã dành cho Việt Nam một khoản tài trợ đáng 
kể, mỗi năm trên dưới 2 tỷ USD. Đây là một bộ phận rất quan trọng của kinh tế tư 
bản nhà nước được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và có nhiều chính sách 
nhằm tạo điều kiện cho nó phát triển. Các xí nghiệp liên doanh này cần đầu tư khá 
đa dạng vào các lĩnh vực khác nhau từ công nghiệp cho tới dịch vụ. Khu vực này 
đã góp phần rất đáng kể vào định hướng xây dựng cơ cấu kinh tế thiên về xuất 
khẩu thu ngoại tệ ở Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất 
nước. Không những thế khu vực này đã tạo ra nhiều ngành nghề và sản phẩm mới 
cho xã hội, tăng năng lực sản xuất xã hội và công nghệ mới, hiện đại cho nhiều 
ngành then chốt như: khai thác dầu khí, khí đốt, sản xuất sắt thép, sản xuất xi 
măng,.... Trên cơ sở đó đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, thu hút nhiều lao động 
xã hội có mức thu nhập bình quân cao đồng thời góp phần đào tạo nhiều cán bộ có 
năng lực làm việc tốt. Cuối cùng, cũng như các loại hình kinh tế tư bản nhà nước 
khác, khu vực kinh tế này tạo môi trường thuận lợi cho chúng ta tiếp thu tốt công 
nghệ, kỹ thuật tiên tiến nhất, kinh nghiệm tổ chức tiến bộ nhất. Do đó kinh tế tư 
bản nhà nước trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần không 
nhỏ vào sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên, để hình thức này đạt hiệu quả 
cao, chúng ta cần chú ý tập trung vào những ngành đòi hỏi có kỹ thuật cao, những 
ngành mũi nhọn mà khả năng trong nước chưa thể sản xuất được, đồng thời nhà 
nước phải nắm cổ phần lớn để có thể kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp 
này theo đúng đường lối của Nhà nước. 
2.3. Hình thức gia công đặt hàng. 
Hình thức này áp dụng trong các ngành sản xuất vật chất. Thông qua hình 
thức này, Nhà nước đặt hàng với các nhà tư bản trong và ngoài nước hoặc các 
doanh nghiệp nhà nước nhận gia công cho các công ty nước ngoài. Hình thức này 
với những chính sách phù hợp cũng đang mang lại những kết quả khả quan ở Việt 
Nam trong những năm gần đây. Do đặc điểm của lực lượng lao động ở Việt Nam 
là dổi dào với giá nhân công rẻ, lao động khéo léo, chăm chỉ nên nhiều đơn vị 
nước ngoài đã quan tâm và thực hiện liên doanh, liên kết với các đơn vị kinh tế 
thuộc sở hữu nhà nước dưới hình thức gia công, đặt hàng tham gia sản xuất một số 
công đoạn trong dây chuyền chế tạo. Điều này cũng phù hợp với xu thế quốc tế 
hoá và chính sách mở cửa ở Việt Nam hiện nay, tạo điều kiện giải quyết việc làm, 
đúc rút kinh nghiệm về quản lý và cạnh tranh cho các đơn vị trong nước. Ngoài ra, 
trong hình thức gia công đặt hàng này còn có hình thức các đơn vị tham gia sản 
xuất kinh doanh theo đơn đặt hàng của nhà nước, cũng có những vai trò nhất định 
đối với sự nghiệp phát triển kinh tế. 
2.4. Khu chế xuất. 
Khu chế xuất về thực chất được coi là các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà 
nước. Tại đây không phải chỉ có một loại hình kinh tế tư bản nhà nước đơn độc, 
thuần tuý mà có nhiều hình thức cụ thể, bao gồm cả hình thức tô nhượng, liên 
doanh, cho tư bản nước ngoài thuê. ở Việt Nam hiện nay, kể từ ngày thành lập khu 
chế xuất đầu tiên 25/12/1981, bên cạnh 45 khu công nghiệp còn có 3 khu chế xuất. 
Với việc phát triển nhanh về quy mô và số lượng các khu công nghiệp, khu chế 
xuất, Việt Nam không chỉ giải quyết được một số lượng lớn lao động có việc làm 
mà các khu công nghiệp, khu chế xuất này còn góp phần thúc đẩy nhanh quá trình 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tham gia vào quá trình hợp lý hoá, quy 
hoạch hoá đô thị và bảo vệ môi trường. Do đó, các khu công nghiệp, khu chế xuất 
này đã góp phần biến những vùng chậm phát triển có mức sống thấp thành những 
khu đô thị có cơ sở hạ tầng tốt, số người dân có công ăn việc làm và thu nhập ổn 
định tăng lên. 
Tuy nhiên, để góp phần phát triển có hiệu quả các loại hình khu công nghiệp, 
khu chế xuất chũng ta cần tạo điều kiện như quy hoạch, phát triển theo từng địa 
phương hay theo từng ngành nghề, trao thêm quyền tự chủ cho các ban quản lý 
khu chế xuất, thành lập các trung tâm đào tạo nghề có hiệu quả phục vụ cho các 
khu chế xuất, có những ưu đãi về thuế.... để nó có thể thể hiện đầy đủ những ưu 
điểm của kinh tế tư bản nhà nước. 
2.5. Nhà nước cho tư bản trong và ngoài nước thuê các cơ sở sản xuất 
kinh doanh và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân. 
Hiện nay ỏ nước ta do ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu toàn dân cho nên 
các căn hộ - với tính cách là đơn vị sản xuất cơ bản trong nông nghiệp hiện nay - 
chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu. Do vậy, đây cũng là một hình 
thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Chỉ riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, trên cơ 
sở tư liệu sản xuất cơ bản thuộc sở hữu toàn dân, chúng ta có chế độ kinh doanh 
hỗn hợp giữa nhà nước với hộ cá thể. Đây là một hình thức kinh tế được nhà nước 
ta quan tâm và tạo điều kiện để phát triển nhằm cải thiện đời sống của nhân dân 
phát huy được nội lực để phát triển kinh tế. 
Không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp, mà trong lĩnh vực sản xuất kinh 
doanh, ta cũng có thể triển khai hình thức này thông qua đấu thầu một số cơ sở vật 
chất của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, thực hiện các hợp 
đồng ký kết giữa nhà nước ta với các nhà tư bản trong và ngoài nước. So với tô 
nhượng, hình thức cho thuê kinh doanh khác ở hai điểm: thứ nhất, thời gian hợp 
đồng thường ngắn hơn; thứ hai, đối tượng chủ yếu cho thuê kinh doanh không 
phải chủ yếu là quyền sử dụng đất mà chủ yếu là các hầm mỏ, khu rừng, xí nghiệp, 
cửa hàng... Thông qua phát triển hình thức này mà mở rộng một số ngành và lĩnh 
vực kinh tế, đồng thời Nhà nước có điều kiện để tập trung vốn đầu tư vào các 
ngành, các lĩnh vực trọng yếu, then chốt nhằm tăng cường vai trò chủ đạo trong 
nền kinh tế