Đất nước Việt Nam - điểm đến du lịch của thiên niên kỷ - Đó là một lời chào của đất nước Việt Nam chúng ta. Trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau xa xôi. Đất nước Việt Nam thống nhất lãnh thổ từ Bắc đến Nam chạy dài suốt biển Đông cùng dãy núi Trường Sơn hùng vĩ. Đất nước cong cong hình chữ S, gánh lấy sứ mệnh nối liền dải đất Miền Trung đầy nắng và gió. Nơi đây đã từng tồn tại một nền văn hoá vô cùng rực rỡ là nền văn hoá nơi đến của cư dân Chăm Pa.
Việt Nam một đất nước phải gánh chịu trên vai mình suốt chiều dài lịch sử là những cuộc chiến tranh đẫm máu, là những cuộc chiến tranh không ngừng nghỉ để chống áp bức, chống nô dịch và chống đồng hoá. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử “ta vẫn là ta” vẫn giữ được bản sắc văn hoá của dân tộc, giữ được nét riêng truyền thống thiêng liêng của đất nước. Là cửa ngõ thông thương nằm trên trục đường giao thương buôn bán của thế giới, Việt Nam có một vị trí vô cùng chiến lược cho sự trung chuyển và phát triển kinh tế từ lâu đời. Nhưng đó cũng chính là những điểm mà kẻ thù luôn luôn tranh thủ và nhòm ngó để xâm chiếm.
Đất nước còn lại hôm nay đó chính là một quá trình đấu tranh gian cường và anh dũng để bảo vệ chủ quyền, bảo vệ nền văn hoá, bảo vệ cái ý thức cộng đồng tồn tại trong mỗi con người. Lịch sử Việt Nam là lịch sử của lòng yêu nước, của ý chí và của những con người anh hùng. Lịch sử Việt Nam là những trang đầy máu và nước mắt cũng là những trang sử vinh quang và hào hùng. Đó là một sức mạnh không gì có thể lay chuyển, là sức mạnh của sự đoàn kết keo sơn chung sức chung lòng đấu tranh bảo vệ, là sức mạnh của tình nhân ái một lòng bao dung. Đó là tinh thần hoà hợp sống với nhau của 54 dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam.
Chăm Pa-nhắc đến nó chúng ta có thể hình dung ra được rằng những giá trị văn hoá vô cùng độc đáo còn lại cho đến ngày nay mà không ở đâu trên đất nước Việt Nam này có được. Là những di sản văn hoá của thế giới. Nền văn hoá của cư dân Chăm Pa đã tồn tại một thời rực rỡ trong lịch sử dân tộc Việt Nam để lại những thành tựu vô cùng quý giá.
49 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2923 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quá trình giao lưu văn hoá của nền văn minh Chăm Pa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(((
ĐỀ TÀI
QUÁ TRÌNH GIAO LƯU VĂN HOÁ CỦA NỀN VĂN MINH CHĂM PA
Giáo viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện :
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VĂN MINH CHĂM PA 6
1. Định nghĩa giao lưu văn hoá tộc người 6
2. Sơ lược về điều kiện töï nhieân, kinh tế - xã hội của Chăm Pa 9
2.1 ñieàu kieän veà töï nhieân…………………………………………………………………………………………9
2.2 ñieàu kieän veà kinh teá-xaõ hoäi……………………………………………………………………………11
CHƯƠNG II: QUÁ TÌNH GIAO LƯU VĂN HOÁ CỦA NỀN VĂN MINH CHĂM PA 15
1. Sự hình thành những nhân tố mới trong quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá từ nguời Chăm Pa 15
1.1 Giao lưu với Ấn Độ vaø aán ñoä giaùo 15
1.2 Giao lưu với Khơme 22
1.3 Aûnh höôûng cuûa hoài giaùo……………………………………………………………………………….23
1.4 Vaên hoaù champa trong söï giao löu vôùi ñaïi vieät…………………………………..17
1.5 Aûnh höôûng cuûa trung quoác……………………………………………………………………………28
2. Xu hướng phân ly, hoà nhập, tiếp biến văn hoá của cư dân Chăm Pa……………… 28
CHƯƠNG III: NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA NỀN VĂN HOÁ CHĂM PA……37
1. Thöïc traïng cuûa caùc giaù trò vaên hoaù chaêmpa hieän nay………………………………….38
1.1 Chöõ vieát……………………………………………………………………………………………………………………38
1.2 Ngheä thuaät kieán truùc……………………………………………………………………………………………39
1.3 Ngheä thuaät ñieâu khaéc………………………………………………………………………………………….40
1.4 Ngheä thuaät ca muùa nhaïc…………………………………………………………………………………….41
1.5 Một số nghề thủ công.............................................................................42
1.6 Phong tục và tín ngưỡng
2. Biện pháp, phương hướng trong việc giữ gìn, bảo tồn phát huy văn hoá Chăm……………………………………………………………………………..43
2.1 Biện pháp……………………………………………………………… .43
2.2 Phương hướng…………………………………………………………...44
KEÁT LUAÄN…………………………………………………………………………………………………………………………………..46
TAØI LIEÄU THAM KHAÛO…………………………………………………………………………………………………………48
MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam - điểm đến du lịch của thiên niên kỷ - Đó là một lời chào của đất nước Việt Nam chúng ta. Trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau xa xôi. Đất nước Việt Nam thống nhất lãnh thổ từ Bắc đến Nam chạy dài suốt biển Đông cùng dãy núi Trường Sơn hùng vĩ. Đất nước cong cong hình chữ S, gánh lấy sứ mệnh nối liền dải đất Miền Trung đầy nắng và gió. Nơi đây đã từng tồn tại một nền văn hoá vô cùng rực rỡ là nền văn hoá nơi đến của cư dân Chăm Pa.
Việt Nam một đất nước phải gánh chịu trên vai mình suốt chiều dài lịch sử là những cuộc chiến tranh đẫm máu, là những cuộc chiến tranh không ngừng nghỉ để chống áp bức, chống nô dịch và chống đồng hoá. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử “ta vẫn là ta” vẫn giữ được bản sắc văn hoá của dân tộc, giữ được nét riêng truyền thống thiêng liêng của đất nước. Là cửa ngõ thông thương nằm trên trục đường giao thương buôn bán của thế giới, Việt Nam có một vị trí vô cùng chiến lược cho sự trung chuyển và phát triển kinh tế từ lâu đời. Nhưng đó cũng chính là những điểm mà kẻ thù luôn luôn tranh thủ và nhòm ngó để xâm chiếm.
Đất nước còn lại hôm nay đó chính là một quá trình đấu tranh gian cường và anh dũng để bảo vệ chủ quyền, bảo vệ nền văn hoá, bảo vệ cái ý thức cộng đồng tồn tại trong mỗi con người. Lịch sử Việt Nam là lịch sử của lòng yêu nước, của ý chí và của những con người anh hùng. Lịch sử Việt Nam là những trang đầy máu và nước mắt cũng là những trang sử vinh quang và hào hùng. Đó là một sức mạnh không gì có thể lay chuyển, là sức mạnh của sự đoàn kết keo sơn chung sức chung lòng đấu tranh bảo vệ, là sức mạnh của tình nhân ái một lòng bao dung. Đó là tinh thần hoà hợp sống với nhau của 54 dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam.
Chăm Pa-nhắc đến nó chúng ta có thể hình dung ra được rằng những giá trị văn hoá vô cùng độc đáo còn lại cho đến ngày nay mà không ở đâu trên đất nước Việt Nam này có được. Là những di sản văn hoá của thế giới. Nền văn hoá của cư dân Chăm Pa đã tồn tại một thời rực rỡ trong lịch sử dân tộc Việt Nam để lại những thành tựu vô cùng quý giá.
Một vương quốc nằm ở miền đất Nam Trung Bộ-nơi đây thực sự hội tụ đủ các yếu tố cho sự phát triển của một nền văn hoá. Với vị trí thuận lợi, cư dân đã định cư lâu đời ở đây. Đã xây dựng cho mình một phức hợp văn hoá đủ các loại hình. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử dân tộc. Vương quốc Chăm Pa vẫn tồn tại được trong một thời gian dài gần mười thế kỷ. Bằng chính sự lao động không mệt mỏi và tài năng sáng tạo tuyệt vời, người Chăm đã xây dựng nền văn minh của chính họ bằng những giá trị văn hoá độc đáo trải dài từ suốt dải đất miền Trung đầy nắng và gió cho đến vùng đất phía Nam trù phú của tổ quốc.
Vương quốc Chăm Pa với một vị trí địa lí đặc biệt, nằm trong khu vực Đông Nam Á nơi được xem là “ ngã tư đường” giao lưu quốc tế, nơi hội tụ của các nền văn minh. Bên cạnh đó là các yếu tố bản địa núi, biển, đồng bằng xen kẽ đã tạo nên nét độc đáo trong văn hóa Chăm. Đặc biệt nghề đi biển rất phát triển. Chính con đường thông thương trên biển đã giúp nơi đây bên cạnh việc lưu giữ các tín ngưỡng, lễ hội dân gian của cư dân nông nghiệp lúa nước ( có thần mưa, thần biển, các lễ hội nông nghiệp…) làm nền tảng cùng nền văn hóa của chế độ mẫu hệ ( Pô Inư Nưgat-bà mệ xứ sở) còn tiếp thu dung hòa một cách thân thiện với các nền văn hóa An Độ, văn hóa Hồi Giáo và cả cac nước láng giềng. Tiếp thu những nét mới du nhập, đồng thời để phù hợp với một xã hội mà chế độ mẫu hệ là độc tôn, cư dân Chăm Pa đã từng bước “ bản địa hóa” các luồng văn hóa du nhập vào vương quốc này, tạo nên sự khác biệt, mới mẻ rất riêng của ChămPa so với cái gốc của các nền văn hóa mà nó chịu ảnh hưởng. Chính điều này đã tạo sự phong phú, độc đáo trong văn hóa Chăm trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại của vương Quốc Chămpa và đến cả ngày nay văn hóa Chămpa vẫn còn nhiều ẩn số cần tìm hiểu.
Nền văn hóa của vương quốc ChămPa xưa kia và của người Chămpa ngày nay mang đậm sắc thái tôn giáo. “ Không có một người Chămpa nào không có tôn giáo…Những yếu tố tôn giáo đã in đậm dấu ấn trong mọi dạng thức sinh hoạt văn hóa của người Chămpa” ( Phan Xuân Biên – Phan An – Phan Văn Dốp – Văn Hóa Chăm). Cương chính tôn giáo la biểu hiện trong mối giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Chămpa với văn hóa của nhiều thành phần dân tộc cư dân vùng lục địa và hải đảo Châu Á.
Với quá trình giao lưu văn hoá của cư dân Chăm Pa bằng cả con đường tự nguyện lẫn chiến tranh. Dù bằng phương thức nào nhưng với sự sáng tạo của mình họ đã tạo ra những giá trị văn hoá tuyệt vời, mà ngày nay nó vẫn là một thứ cực kỳ quý giá trong kho tàng lịch sử dân tộc.
Nền văn minh Chăm Pa đã tồn tại từ II đến XIX. Đó là một quá trình mà cư dân Chăm Pa đã sinh sống và tạo ra nền văn hoá của chính họ, một nền văn hoá hội tụ đủ yếu tố bản địa vô cùng độc đáo, chúng cũng có những yếu tố du nhập vào đây chất sáng tạo. Đó là một quá trình giao lưu văn hoá, của sự phân ly và tích hợp, để rồi cải biến một cách tuyệt vời để biến cái ngoại lai thành cái nội sinh.
Quá trình giao lưu văn hoá diễn ra trên mọi lĩnh vực từ văn hoá, tôn giáo tín ngưỡng, nghệ thuật điêu khắc, văn học trên nền tảng của những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội thuận lợi nhất của cư dân Chăm Pa có được.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VĂN MINH CHĂM PA
Định nghĩa giao lưu văn hoá tộc người
Mỗi tộc người trong qúa trình tồn tại và phát triển của mình ở những điều kiện địa lý tự nhiên cụ thể, đã tạo ra nền văn hóa phản ánh sắc thái riêng thích ứng với trình độ phát triển của tộc người đó. Mặt khác, trong suốt chiều dài tồn tại và phát triển, các tộc người không chỉ khép kín trong phạm vi lãnh thổ cư trú của mình mà thường mở rộng ra giao tiếp với tộc người khác. Trong quá trình giao tiếp ấy, họ đã tiếp nhận có ý thức hoặc không có ý thức những thành tố văn hoá của những tộc người láng giềng để làm phong phú thêm văn hoá của mình. Trải qua nhiều thế hệ, những yếu tố văn hoá tiếp nhận từ các tộc người khác đã thử nghiệm qua thời gian và thực tế cuộc sống, đã gắn bó, hoà quyện vào các yếu tố của bản thân tộc người tạo nên một phức hợp văn hoá của tộc người đó. Giao lưu văn hoá đã xảy ra trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại vì con người muốn tồn tại và phát triển thì phải có nhu cầu giao tiếp với thế giới xung quanh, chính yếu tố đó đã thúc đẩy tộc người này giao lưu với tộc người khác.
Giao lưu văn hoá là sự di chuyển qua lại giữa các nền văn hoá. Nói cách khác giao lưu văn hoá là sự tiếp xúc và trao đổi văn hoá trong quá trình vận động, phát triển của xã hội. Hay giao lưu văn hoá là sự tiếp thu những nét cơ bản từ một trạng thái văn hoá ngoại sinh, trong khi vẫn giữ những nét cơ bản của trạng thái văn hoá nội sinh ở một dạng phát triển hơn.
Giao lưu văn hoá có thể sảy ra ở một khu vực rộng lớn bao gồm nhiều quốc gia, chủng tộc, cũng có thể xảy ra ở những vùng rộng hẹp khác nhau, trong cùng một quốc gia muốn diễn ra giao lưu văn hoá thì cần phải có những điều kiện nhất định. Tuỳ từng giai đoạn khác nhau của tiến trình lịch sử nhân loại, những điều kiện giao lưu văn hoá giữa các tộc người cũng khác nhau.
Điều kiện đầu tiên là môi trường khung cảnh địa lý nơi tộc người đó cư trú và coi đây là điều kiện quan trọng tác động sâu sắc đến quá trình giao lưu văn hoá tộc người khi những tộc người bị ngăn cách với nhau bởi những chướng ngại tự nhiên thì giữa hai tộc người đó không có điều kiện tiếp xúc thường xuyên với nhau thì không thể sảy ra việc giao lưu văn hoá. Ngược lại, giữa hai tộc người có diều kiện tiếp xúc với nhau thuận lợi thì diễn ra quá trình giao lưu văn hoá. Vì tuy là các cư dân có nguồn gốc khác nhau nhưng do cùng sống trong một không gian sống với nhau khá lâu dài nên giữa họ đã tạo nên những yếu tố văn hoá chung nhất, tiếp thu một phần văn hoá của tộc người láng giềng vào nền văn hoá của mình.
Giao lưu và tiếp xúc văn hoá giữa các tộc người diễn ra rất đa dạng mà một trong những hoạt động có ý nghĩa đặc biệt đối với giao lưu và tiếp xúc văn hoá là trao đổi kinh tế. Các tộc người sinh sống ở những vùng lãnh thổ khác nhau không phải bất kỳ nơi nào cũng đáp ứng được nhu cầu của đời sống. Các sản phẩm làm ra của một cộng đồng cư dân nào đó, trước hết là đáp ứng nhu cầu của chính nhu cầu của cộng đồng đó, nhưng trong nhiều trường hợp các sản phẩm làm ra không những đáp ứng nhu cầu của cộng đồng mà còn có thể trao đổi. Lúc đầu có thể là những trao đổi sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của cộng đồng bạn, nhưng dần dần lại mang ý nghĩa trao đổi văn hoá. Từ việc trao đổi các sản phẩm các tộc người dần dần tiếp thu những yếu tố văn hoá của tộc người khác dựa vào sản phẩm biến nó thành nét văn hoá của mình.
Một hiện tượng khác trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại có ảnh hưởng đến giao lưu văn hoá là hiện tượng di dân. Di dân là một hiện tượng xã hội nhưng cũng là một hiện tượng văn hoá, xảy ra ở hầu hết các dân tộc. Di dân sảy ra trong suốt tiến trình của lịch sử nhân loại chịu tác động của các yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội những cuộc chiến tranh những tác động của thiên tai. Di dân sảy ra làm tăng quá trình giao lưu, tiếp xúc tộc người. Khi các đợt di dân sảy ra với cường độ không lớn tức với số lượng không đông sẽ ít phá vỡ lãnh thổ tộc người. Lớp cư dân mới đến cộng cư hoà nhập vào lớp cư dân bản địa làm cho quá trình giao lưu văn hoá tăng lên. Trong trường hợp di dân với cường độ lớn có thể đẩy người bản địa ra khỏi lãnh thổ cư trú tạo nên sự xáo trộn rất lớn trong lãnh thổ cư trú, giao lưu văn hoá tăng. Di dân làm tăng nhanh và mở rộng quá trình giao tiếp tộc người và làm tăng nhanh quá trình giao lưu văn hoá.
Ngoài hoạt động kinh tế, di dân còn có những hoạt động trao đổi phi kinh tế ảnh hưởng của chúng đế giao lưu văn hoá là không nhỏ. Đó là sự trao đổi tặng phẩm, vật phẩm tôn giáo. Lúc đầu những vật phẩm tặng phẩm có ý nghĩa khuyếch trương hơn. Cùng với sự tồn tại và phát triển của các tộc người đã dẫn đến những giao tiếp tộc người như quan hệ hôn nhân, quan hệ ngoại giao những tiếp xúc đó đều kéo theo những tiếp xúc văn hoá.
Những quá trình tiếp xúc trong giai đoạn đầu đơn thuần là giao tiếp tộc người nhưng càng về sau thì chứa đựng những yếu tố văn hoá. Qua trình đó diễn ra liên tục, dưới nhiều hình thức khác nhau, làm cho sự giao lưu văn hoá tăng lên.
Như vậy từ sự tiếp xúc văn hoá - xã hội giữa các tộc người đã tạo ra sự tiếp xúc và giao lưu văn hoá. Khi diễn ra quá trình tiếp xúc, giao lưu văn hoá cũng là diễn ra quá trình tiếp biến văn hoá. Tức là khả năng của một tộc người tiếp nhận các yếu tố văn hoá tộc người khác biến đổi nó thành của mình. Quá tình giao lưu văn hoá diễn ra rất phức tạp bị chi phối bởi các điều kiện tự nhiên, môi trường khác nhau.
Sơ lược về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Chăm Pa
2.1 Điều kiện tự nhiên.
Vương quốc Chăm Pa hình thành và phát tiển trên dải ven biển miền Trung trong một phần cao nguyên Trường Sơn lúc lớn mạnh trải dài đến Hoàng Sơn, sông Gianh ở phía Bắc đến sông Dinh –Hàm Tân, phái Nam khu vực sông Krông Po Cô và sông Đà Rằng trên Tây Ninh. Vùng đất từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi có nhiều núi và lãnh thổ giáp biển đây là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế và giao lưu với các nước.
Vùng có hệ thống sông ngòi tương đối nhiều chỉ riêng từ Quảng Bình đến Bình Thuận cứ 15-20km lại có một con sông đổ ra biển có những rãnh núi đâm ngang nên mỗi sông là một hệ thống riêng lẻ. Vùng có nguồn động thực vật phong phú. Các con sông mang lại lượng phù sa màu mỡ của vùng, tạo điều kiện cho sự phát triển các ngành kinh tế.
Vùng biển có bờ biển dài, dạng răng cưa gồm bộ phận bồi tụ mài mòn xen kẽ. Các vũng vịnh rộng lớn thường là các bán đảo lồi ra được các bán đảo che chở. Vùng có tài nguyên động thực vật phong phú có tài nguyên khoáng sản tuy số lượng không lớn lắm phần lớn tập trung ở Quảng Nam Đà Nẵng các loại thân đá, đá quý, vàng…tạo kiện cho cư dân champa sớm hướng ra biển.
Tất cả những điều kiện tự nhiên ấy giúp Chăm Pa phát triển một nền kinh tế vững mạnh dựa vào các ưu thế vốn có của vùng.
Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, Nhân dân trồng các loại ngũ cốc, nếp, kê, đậu, vừng đây là vùng đất mới khai phá sau nên đất đai phì nhiêu họ còn trồng các loại mía, chuối, thốt nốt, dừa, sen, cau, đặc biệt là mía. Ngoài ra người Chăm Pa còn nuôi trâu bò, ngựa, voi và voi được sử dụng chủ yếu trong quân đội. tại đây Chăm Pa cũng học cách cày cấy bằng trâu bò cửa Cửu Chân. Ruộng hai mùa, mùa trồng lúa trắng mùa trồng lúa đỏ tên lúa là Chiêm đây cũng là loại lúa được người Việt tiếp nhận qua đó cho thấy quá trình giao lưu học hỏi người Đại Việt và người Chăm Pa hình thành rất sớm.
Vieäc chuyeån höôùng töø noâng nghieäp khai thaùc bieån sang noâng nghieäp thuaàn tuùy laø söï kieän ñaëc bieät cho quaù trình naøy.Treân cô sôû phaùt trieån cuûa kyõ thuaät luyeän kim ñoàng thau ñaõ taïo ñieàu kieän cho naêng suaát taêng, dö thöøa ñeå trao ñoåi, buoân baùn, xuaát hieän giao löu tieáp bieán
Hơn nữa với vùng tự nhiên giáp Đại Việt trong công cuộc chống Bắc thuộc hai vùng cũng có những mối quan hệ bang giao và kéo dài theo chiều dài lịch sử mối quan hệ ở mỗi giai đoạn tuy có biến đổi nhưng đặc biệt trong các đợt chống ngoại xâm phương Bắc hai nước thể hiện tinh thần hoà hiếu với nhau rất thân thiết.
Quaù trình hôïp taùc laâu ñôøi giöõa hai daân toäc Ñaïi Vieät- Chaêmpa do cuøng cö truù trong moät khu vöïc ñòa lí chung, vaø trong cuoäc ñaáu tranh laâu daøi vôùi thieân nhieân maø boä phaän cö daân Ñai Vieät- Chaêmpa trong vuøng cuøng nhau ghaùnh vaùc. Hai daân toäc söû duïng chung nhieàu con ñaäp, ñöôøng möông trong vuøng töø ñoù ñöa ñeán vieäc cuøng nhau lao ñoäng ñeå baûo veä caùc nguoàn cung caáp nöôùc vaø qua lao ñoäng hai cö daân coù dòp tieáp xuùc vaø giao löu vôùi nhau.
Nhân dân trồng dâu nuôi tằm ngành dệt lụa rất phát triển, nghề khai quặng nấu quặng và rèn đúc kim loại cũng rất phát tiển, sản xuất được nhiều vàng, bạc, sắt. Chăm Pa cũng rất giàu lâm sản quý như hương liệu, tê giác, ngà voi, sáp ong, hổ phách, đồi mồi đặc biệt là vùng có trầm hương các sản phẩm này thường dùng thông thương với nước ngoài và là thứ hàng trao đổi hàng năm của ngoại thương Chăm Pa.
Ngoại thương là ngành kinh tế quan trọng của Chăm Pa, thường các vua Chăm giàu có hnờ ngoại thương. Đặc điểm ngoại thương ở Chăm Pa là trong ngoại thương cướp biển trở thành một bộ phận quan trọng trong đó đặc biệt là bán và cướp nô lệ hoạt động ngoại thương chủ yếu bằng đường biển do địa hình có biển chạy dọc lãnh thổ nên Chăm Pa rất thuận lợi trong giao lưu buôn bán bằng đường biển với các nước khác. Các sản phẩm của Chăm Pa rất được thương nhân nước ngoài ưa chuộng. Trầm hương trở thành hàng xuất khẩu có vị trí quan trọng, gốm Chăm Pa với trình độ phát triển cao đã có mặt ở nhiều nơi.
2.2. Ñieàu kieän xaõ hoäi
Thế kỷ III, người ta phát hiện ra bia viết chữ Chăm chứng tỏ người Chăm Pa có chữ viết riêng của mình từ rất sớm. Nó đã xây dựng trên cơ sở từ chữ Nam Ấn gần chữ Phạn qua đó cho thấy Chăm Pa tiếp thu nền văn hoá Ấn cũng từ rất sớm.
Nghệ thuật Chăm Pa cũng rất phát triển với các tháp Chàm nổi tiếng những bức phù điêu, những pho tượng Phật, Mỹ Sơn là di chỉ thành cổ Chăm rất nổi tiếng. Đạo Phật Chăm pa được du nhập và phát triển rất sớm. Nhân dân Chăm pa phần lớn theo đạo Phật trong đó vua theo đạo ni càn một phái tu hành khổ hạnh, các quan lại có một số theo đạo Bà la môn-Bà ni. Khi đó nhiều nhà sư sang Giao Châu để truyền đạo và ở lại bên ấy.
Người Chăm rất lịch sự gặp nhau thường chắp tay vái hay cú đầu chào, họ lại có tục ăn trầu như người Việt nên người Trung Quốc qua đây nói người Chăm ăn cau luôn mồm không biết mỏi.
Trong gia đình người phụ nữ có vai trò rất quan trọng trong xã hội và trong sản xuất. Thường theo phong tục người Chăm người con gái đi hỏi con trai vì con gái quý hơn con trai.
Nguồn gốc tộc người: họ là người nói tiếng Malayo – Polynesian nhóm người nói tiếng Nam Á và sự di chuyển dân cư của nguời Nam Đảo họ di từ biển Đông vào định cư ở ven bờ biển từ suốt chiều dài từ Bắc đến Nam mang theo cả bản sắc của họ.
Chủ nhân của nền văn hoá Sa Huỳnh tiền thân vương quốc Chăm pa là cư dân nói tiếng Nam đảo, tộc người Chăm Pa là cư dân đa chủng tộc có nhiều nét văn hoá khác nhau.
Chính trị: Chăm pa là một nhà nước quân chủ chuyên chế vua đứng đầu giải quyết mọi việc từ sản xuất đến việc theo dõi các hình phạt uy quyền của nhà vua rất lớn quan lại cũng không được đến gần nhân dân thấy vua phải quỳ còn quan lại yết kiến nhà vua mà thôi. Dưới vua có các quan lại họ không có lương bổng chỉ được tư cấp theo thổ tục địa phương, đôi khi được cấp thức ăn, miễn tiêu, dịch. Để đảm bảo quyền lực nhà vua có một đạo quân mạnh thường trực. Quân lính mỗi tháng được cấp hai học gạo nếp, mỗi năm cấp từ 3-5 áo đông và hè họ được trang bị vũ khí gươm giáo, cung tên thuốc độc. Trong nước ai phạm tội thì phạt bằng gậy đánh hoăc tội nặng thì trèo cây lấy ngọn cây đâm vào cổ, hay tội nặng hơn nữa thì cho voi dày hay voi quật chết, cũng có khi bắt tự tử ở núi Bất lao.
Khi mới thành lập vương quốc Chăm pa vào cuối thế kỷ II thì liên tiếp tiến hành giao hảo với Giao châu và cử xứ sang. Thế kỷ III Châu khu liên là Phạm hung (cháu ngoại) liên kết với Phù Nam để tấn công các trưởng lại nhà Tấn và tấn công cả Giao Chỉ nhưng cuộc tấn công thất bại. Năm 284 Chăm Pa cử sứ sang Tấn triều cống và ngừng cuộc xâm lấn. Với vị trí như vậy Chăm pa luôn có các mối quan hệ phức tạp với phương Bắc, với Đại Việt với Phù Nam và Chăm Pa thường phải nộp triều cống cho Đại Việt và phương Bắc.
Chăm Pa và Đại Việt có lúc mối quan hệ diễn ra hoà bình hoà hiếu cùng nhau tồn tại và phát triển nhưng có lúc quan hệ trở nên căng thẳng, đặc biệt là vùng phía Bắc Chăm Pa và phía Nam Đại Việt có thời gian thường sảy ra tranh chấp và theo thời gian do sự mở rộng về phía Nam của Đại Việt làm lãnh thổ Chăm Pa ngày càng thu hẹp về phía Nam và cuối cùng sát nhập hoàn toàn vào Đại Việt. Lãnh thổ Chăm Pa tuy không còn nhưng dân tộc Chăm vẫn tồn tại họ sống chủ yếu ở phía Nam đặc biệt là Ninh Thuận-Bình Thuận, qua thời gian họ vẫn giữ vững bản sắc văn hoá riêng của mình và bản sắc văn hoá hoà vào tạo thành nền văn hoá đa dạng của 54 dân tộc Việt Nam. Bản sắc văn hoá đó cần được phát huy, bảo tồn và phát triển.
Baát kyø moät neàn vaên hoùa naøo ñöô