Việt nam là một nước nông nghiệp lạc hậu bị tàn phá nhiều bởi chiến tranh,
thực hiện công cuộc đổi mới chuyển từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường mở
cửa được hơn mười năm. Trong thời gian đó nền kinh tế bắt đầu khởi sắc và đạt được
một số thành tựu quan trọng. Xuất phát từ đó chúng ta đang chuyển sang một thời kỳ
phát triển kinh tế mới: thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Với mục tiêu phấn đấu sau vài thập kỷ của thế kỷ XXI nước ta cơ bản sẽ trở
thành “một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng văn minh.
Muốn vậy đảng và Nhà nước đã nghiên cứu, phân tích, nắm bắt những quy
luật khách quan và thực tiễn để đề ra chính sách công nghiệp hoá sao cho có cơ sở
khoa học phù hợp với đièu kiện hoàn cảnh của việt nam góp phần rút ngắn quá trình
công nghiệp hoá khắc phục tình trạng tụt hậu nhằm tiến kịp các nước đi trước tạo cơ
sở cho sự phát triển toàn bộ nền kinh tế.
47 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2007 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm, định hướng và giải pháp của chính sách công nghiệp hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nghiên cứu, phân tích, nắm bắt những
quy luật khách quan và thực tiễn để đề
ra chính sách công nghiệp hoá
Lời mở đầu
Việt nam là một nước nông nghiệp lạc hậu bị tàn phá nhiều bởi chiến tranh,
thực hiện công cuộc đổi mới chuyển từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường mở
cửa được hơn mười năm. Trong thời gian đó nền kinh tế bắt đầu khởi sắc và đạt được
một số thành tựu quan trọng. Xuất phát từ đó chúng ta đang chuyển sang một thời kỳ
phát triển kinh tế mới: thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Với mục tiêu phấn đấu sau vài thập kỷ của thế kỷ XXI nước ta cơ bản sẽ trở
thành “một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng văn minh.
Muốn vậy đảng và Nhà nước đã nghiên cứu, phân tích, nắm bắt những quy
luật khách quan và thực tiễn để đề ra chính sách công nghiệp hoá sao cho có cơ sở
khoa học phù hợp với đièu kiện hoàn cảnh của việt nam góp phần rút ngắn quá trình
công nghiệp hoá khắc phục tình trạng tụt hậu nhằm tiến kịp các nước đi trước tạo cơ
sở cho sự phát triển toàn bộ nền kinh tế.
Phần I
Lý luận chung về công nghiệp hoá và chính sách
công nghiệp hoá
I. Khái quát chung về công nghiệp hoá
1. Quan điểm về công nghiệp hoá
Trong thực tiễn đến nay vẫn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về phạm trù
“công nghiệp hoá”.
Quan niệm giản đơn nhất về công nghiệp hoá cho rằng “công nghiệp hoá là
đưa đặc tính công nghiệp cho một hoạt động, trang bị (cho một vùng, một nước) các
nhà máy, các loại công nghiệp. . . ”
Quan niệm này có những mặt chưa hợp lý. Trước hết nó không cho thấy mục
tiêu của quá trình cần thực hiện. thứ hai trong nội dung trình bày quan niệm này gần
như đồng nhất với quá trình công nghiệp hoá với quá trình phát triển công nghiệp.
thứ ba quan niệm này cũng không thể hiện được tính lịch sử của quá trình công
nghiệp hoá. Chính vì vậy quan niệm này được USE rất hạn chế trong thực tiễn.
Trong điều kiện ngày nay, quan niệm về công nghiệp hoá dù ở trên góc độ nào
cũng không đồng nhất với quá trình phát triển công nghiệp. Công nghiệp hoá là quá trình
rộng lớn và phức tạp với nội dung cốt lõi thể hiện :
“Công nghiệp hóa, Hiện đại hoá là sự phát triẻn và chuyển dịch cơ cấu gắn với
đổi mới căn bản kỹ thuật và công nghệ phát triển mạnh mẽ các nghành có hàm lượng
khoa học công nghệ hiện đại nhằm mục tiêu tăng trưởng và phát triển kỹ thuật cao,
lâu bền”.
2. Vai trò của công nghiệp hoá
Từ khái niệm công nghiệp hoá ở trên ta thấy được vai trò của công nghiệp
hoá đối với sự phát triển kinh tế là rất quan trọng. Nó được thể hiện qua những mặt
chủ yếu sau.
- Công nghiệp hoá là chìa khoá để phát triển kinh tế thật vậy công nghiệp hoá
có nghĩa là năng suất lao động trong cong nghiệp cao dần đến sự gia tăng thu nhập
bình quân đầu người, tăng sức mua, mở rộng thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ.
Đặc biệt là sự phát triển của công nghệ chế biến vì đây là ngành tạo ra khả năng thay
thế nhập khẩu có hiệu quả và cũng là nghành có khả năngtăng xuất khẩu giải quyết
đầu ra cho sản xuất nông nghiệp làm tăng giá trị nông sản phẩm.
Mặt khác công nghiệp càng đóng góp nhiều trong tổng sản phẩm quốc dân là
điều kiện để thu nhập theo đầu người được nâng cao.
- Công nghiệp hoá thực hiện quá trình đô thị hoá đất nước thông qua việc phân
bố sản xuất công nghiệp, xây dựng các khu công nghiệp, chế xuất mà ta có thể phân
bố lại dân cư ở các vùng cho phù hợp để thúc đẩy quá trình đô thị hoá đất nước là
động lực phát triển kinh tế và ạo điều kiện công bằng xã hội.
- Công nghiệp hoá tạo ra việc làm.
Vì công nghiệp hoá là sự phát triển cao của công nghiệp mà công nghiệp lại là
ngành duy nhất tạo ra công cụ lao động, phương tiện sản xuất trang bị kỹ thuật cho
các ngành tạo ra việc làm.
- Công nghiệp hoá hình thành nên những mối liên kết trong nền kinh tế. Quá
trình công nghiệp hoá đòi hỏi sự liên kết ngược từ các ngành khác với công nghiệp
cũng như giữa các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất và các ngành công
nghiệp sản xuất tư liệu tiêu dùng.
Trước hết nông nghiệp ảnh hưởng qua lại rất lớn đối với công nghiệp hoá phát
triển nông nghiệp sẽ phát triển tài nguyên của nhân dân từ đó làm tăng nhu cầu tiêu
dùng hàng hoá công nghiệp mặt khác nông nghiệp cũng cung cấp đầu vào cho công
nghiệp là nguyên vật liệu và nhân công do đó khi nông nghiệp phát triển thì sẽ thuận
lợi để phát triển công nghiệp (giá đầu vào rẻ).
Không những thế nông nghiệp phát triển thì thu nhập người dân phát triển suy
ra nguồn tiết kiệm trong dân phát triển suy ra nguồn đầu tư cho công nghiệp cũng
tăng.
Như vậy công nghiệp hoá đã tạo mối liên kết trong nền kinh tế và là động lực
để phát triển kinh tế bền vững.
- Công nghiệp hoá đã hiện đại hoá cơ cấu sản xuất thay đổi tập quán kinh tế -
xã hội, tập quán tiêu dùng từ đó thúc đẩy quá trình đa dạng hoá mặt hàng với công
nghệ cao.
- Công nghiệp hoá là quá trình hiện đại hoá công nghệ từ đó dẫn đến chất
lượng hàng hoá được ngày càng nâng cao và tạo ra sức cạnh tranh chiếm lĩnh trên thị
trường.
- Công nghiệp nâng cao chất lượng cuộc sống.
Công nghiệp hoá đã làm tăng GNP/người do đó những nhu cầu về chất lượng
cuộc sống như tuổi thọ bình quân, mức độ biết chữ và sức mua thực tế của người dân
được nâng cao. Do đó công nghiệp hoá kết hợp với các chính sách đúng đắn của
chính phủ sẽ nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao mức sống của xã hội.
Như vậy để công nghiệp hoá đóng một vai trò then chốt trong sự phát triển
kinh tế Do đó để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế vững mạnh thì tất yếu phải tiến
hành công nghiệp hoá.
II. Chính sách công nghiệp hoá
1. Khái niệm chính sách công nghiệp hoá
Đặc điểm có tính chất bao trùm của quá trình công nghiệp hoá như đã diễn ra
trên thế giới trong suốt lịch sử của nó là sự chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế, một
mặt là sự giảm phần của khu vực nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế do năng suất
và sản lượng của khu vực này đã tăng lên, sau đó là sự giảm tương đối của khu vực
công nghiệp do sự tăng của khu vực dịch vụ do chính kết qủa phát triển khu vực công
nghiệp, mặt khác là sự thay đổi cơ cấu trong nội bộ khu vực của công nghệ chế tạo.
Sự thay đổi cơ cấu trong nội bộ khu vực công nghệ chế tạo đã diễn ra như sau:
Trong thời kỳ đầu của công nghiệp hoá thế giới sản xuất công nghiệp đã tập
trung vào hàng dệt sau đó chuyển sang sắt thép và các sản phẩm cơ khí sử dụng thép
tiếp đến là hoá chất các sản phẩm điện và cuối cùng ngày nay các sản phẩm điện tử
và vi điện tử tức là cơ cấu trong công nghiệp đã bắt đầu từ những ngành nghề có
công nghệ thập đến những ngành công nghệ cao.
Vì vậy vấn đề đặt ra là phải lựa chọn sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới
công nghệ như thế nào. Đó chính là chính sách công nghiệp hoá.
2. Nội dung của các chính sách công nghiệp hoá
Theo báo cáo của ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng thì nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 1996 - 2000 là tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với
chính sách chủ yếu là.
2.1. Chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Cơ cấu ngành : Hoàn thiện cơ cấu nông-công nghiệp và dịch vụ để tạo tiền
đề chuyển sang cơ cấu kinh tế mới : cơ cấu công-nông-dịch vụ cụ thể.
+ Thứ nhất: ưu tiên phát triển các ngành thu hút lao động, có khả năng duy trì
chỉ số ICOR thấp, lâu dài. Các ngành đó bao gồm:
Dệt, da, may mặc, chế bién nông sản và sản xuất hàng tiêu dùng.
+ Thứ hai: đầu tư cho một số ngành mũi nhọn về công nghệ - kỹ thuật để tạo
năng lực tiếp cận nhanh đến hệ thống kinh tế thế giới đó là các ngành lắp ráp ô tô,
điện tử và tin học.
+ Thứ ba: nông nghiệp phát triển theo mức có khả năng bảo đảm an toàn về
lương thực cho đất nước, một phần dành cho xuát khẩu và tạo cơ sở nguyên liệu cho
một số ngành công nghiệp chế biến.
+ Thứ tư: phát triển các ngành công nghiệp đóng vai trò nền móng cho toàn bộ
hệ thống công nghiệp như: khai khoáng, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng.
+ Thứ năm: phát triển mạnh các ngành mang tính chất dịch vụ như:
Tài chính - ngân hàng, thương mại, thông tin viễn thông, du lịch khách sạn.
+ Thứ sáu: cải tạo và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng như đường sắt, các loại
cảng, thông tin bưu điện.
- Cơ cấu vùng:
Phát triển hợp lý các vùng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế lãnh thổ trên cơ
sở khai thác triệt để các lợi thế tiềm năng của từng vùng, liên kết hỗ trợ lẫn nhau làm
cho tất cả các vùng đều phát triển
- Cụ thể.
+ Thứ nhất : cần tập trung đầu tư cho các vùng trọng điểm tạo ra sức bật cao
hơn mức bình quân của cả nước. ba vùng trọng điểm:
Bắc bộ-Trung bộ-Nam bộ.
+ Thứ hai : đầu tư tận dụng tối đa lợi thế phát triển của từng vùng, tạo điều
kiện giảm dần sự chênh lệch về khả năng và cơ hội hấp dẫn đầu tư giữa các địa
phương.
+ Thứ ba : lựa chọn hợp lý cơ cấu ngành cho từng vùng các địa phương mà
nông nghiệp và nông thôn chiếm tỷ trọng áp đảo trong cơ cấu, thiếu các đầu tàu tăng
trưởng mạnh thì buộc phải chấp nhận một tốc độ tăng trưởng thấp hơn. Trong dài han
những vùng này phải có chiến lược cơ cấu ngành hợp lý của mình và hình thành
những trung tâm tăng trưởng mạnh, đóng vai trò xung lực của tăng trưởng trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành trên vùng lãnh thổ.
- Cơ cấu thành phần kinh tế:
Tiếp tục thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách nhiều thành phần kinh tế,
khuyến khích mọi doanh nghiệp và cá nhẩn trong và ngoài nước khai thác tiềm năng
ra sức đầu tư phát triển, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước là hạt nhân của quan
hệ sản xuất mới.
- Cụ thể.
- Hình thành nhiều thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức kinh doanh đa
dạng. Các thành phần chủ yế là: kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản
Nhà nước, kinh tế tiểu chủ cá thể và kinh tế tư bản tư nhân.
- Kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành
nền tảng. Cần phải đánh giá cao vai trò của kinh tế tư bản Nhà nước trong việc động
viên tiềm năng vốn, công nghệ kinh nghiệm tổ chức quản lý và khẳng định cần phát
triển phổ biến hình thức kinh tế tư bản Nhà nước.
- Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ có một vị trí quan trọng lâu dài cần phải
giúp đỡ, giải quyết các khó khăn về vốn, khoa học công nghệ và thị trường tiêu thụ
sản phẩm. Hướng dẫn thành phần kinh tếnày đi vào con đường hợp tác tự nguyện
hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác xã.
- Hướng tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, phát triển lâu dài phục vụ cho
công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
2.2. Chính sách đổi mới công nghệ:
* Chính sách chuyển giao công nghệ tập trung đầu tư, nhập trực tiếp hoặc hợp
tác liên doanh với những ngành công nghệ có tầm chiến lược, các ngành công nghệ
mũi nhọn.
- Đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong các ngành.
* Sản xuất và dịch vụ chủ yếu, đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với các
lĩnh vực sản xuất sản phẩm xuất khẩu, các lĩnh vực đầu tư mới. Tổ chức tốt việc giám
định các công nghệ nhập khẩu. Tiếp tục hoàn thiện và đổi mới công nghệ trong một
số ngành nghề truyền thống. Đổi mới phương tiện kỹ thuật kiểm tra, đo lường, điều
khiển áp dụng kỹ thuật tự động hoá để nâng cao chất lượng sản phẩm của các ngành
sản xuất.
- Phát triển các công nghệ cao.
- Khai thác tối đa năng lự hiện có và cải tiến đổi mới từng phần đối với những
cơ sở sản xuất vừa và nhỏ. Chú trọng công nghệ đòi hỏi suất đầu tư thấp, thu hồi vốn
nhanh, có khả năng tạo thêm nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp.
- Tranh thủ công nghệ hiện đại, tận dụng công nghệ truyền thống để phát triển
công nghiệp đa dạng, tiểu thủ công nghiệp nông thôn và đặc biệt là công nghiệp chế
biến.
- Thu hút nhiều nguồn vốn để tăng nhanh đầu tư cho khoa học và công nghệ.
Ngoài nguồn vốn từ ngân sách cần huy động thêm vốn của các doanh nghiệp, các
thành phần kinh tế, các nguồn viện trợ quốc tế.
- Đào tạo nhân lực, đào tạo đội ngũ chuyên gia khoa học và công nghệ có trình
độ cao, có phẩm chất tốt và đội ngũ công nhân có tay nghề giỏi để tiếp thu và làm
chủ các công nghệ được chuyển giao.
* Chính sách tư tạo ra công nghệ mới :
- Phát triển các ngành khoa học tư nhiên, nghiên cứu một số vấn đề cơ bản có
triển vọng của khoa học.
- Đẩy mạnh viêc bảo hộ sở hữu công nghiệp, bảo đảm sự cạnh tranh lành
mạnh trong cơ chế thị trường và khuyến khích sáng tạo của các nhà khoa học và
những người lao động.
Xây dựng và ban hành các luật khoa học và công nghệ tạo lập thị trường cho
hoạt động khoa học và công nghiệp, dựa vào khoa học, công nghiệp để phát triển sản
xuất có hiệu quả. Nhà nước hỗ trợ cho các thành phần kinh tế có nhu cầu nghiên cứu
khoa học và sáng tạo công nghệ. Tiếp tục sắp xếp lai các cơ quan khoa học và công
nghệ theo hướng tập trung hơn cho các lĩnh vực khoa học và công nghệ chiến lược
nghiên cứu khoa học với giáo dục, đào tạo, chuyển một số viện nghiên cứu chuyên
ngành về trực thuộc các tổng công ty, gắn các chương trình kinh tế xã hội với quy
hoạch phát triển các vùng lãnh thổ.
III. Kinh nghiệm của các nước trong việc áp dụng chính sách công
nghiệp hoá đối với sự phát triển kinh tế
1. Kinh nghiệm của các nước NICS và ASEAN trong việc lựa chọn chính
sách chuyển dịch cơ cấu
a. Các nước NICS
Cùng với việc nghiên cứu, phân tích nắm bắt những quy luật khách quan và
thực tiễn để đề ra chính sách công nghiệp hoá một cách khoa học và phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh của việt nam việc tham khảo học tập kinh nghiệm của các nước phát
triển và các nước trong khu vực đang tiến hành công nghiệp hoá là rất cần thiết Qua
đó chúng ta có thể tim ra được các chính sách tốt nhất nhằm rút ngắn các quá trình
công nghiệp hoá và đưa nền kinh tế phát triển vững chắc.
Đài Loan thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung phát
triển nông nghiệp bằng con đường hiện đại hoá, hoá học hoá, thâm canh hoá đồng
thời phát triển dần các ngành công nghiệp có khả năng như điện - điện tử, hàng tiêu
dùng phổ thông và hàng tiêu dùng cao cấp. Do vậy kinh tế Đài Loan đã phát triển đều
cả về nông nghiệp và công nghiệp. Bộ mặt nông thôn được nhanh chóng đổi mới theo
xu hướng nhích dần tới như kiểu các đô thị năm 1992, tốc độ tăng kinh tế của đài
loan là 6,8% và tốc độ tăng xuất khẩu là 9,2% trong đó có những sản phẩm nông
nghiệp chế biến. Hiện nay đài loan đang tập trung đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ
tầng, chỉ ra 300 tỷ USD cho kế hoạch 6 năm xây dưng đường quốc lộ, đường sắt và
nhà máy điện. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế như vậy đã tạo nên sự phát triển kinh tế
đạt tới trình độ khá cao, được quốc tế chú ý, GDP bình quân đầu người là 10.000
USD.
Singapore có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặc biệt mạnh dạn. Vốn dĩ là một
bang tách ra từ Malaysia diện tích không lớn, tài nguyên nghèo nàn. Lúc đầu kinh tế
của Singapore chủ yếu dựa vào thương mại quốc tế và dịch vụ đời sống kinh tế trong
nước gắn chặt với kinh tế quốc tế khoảng 15 năm trở lại đây, Nhà nước Singapore
quyết định phải xây dựng ngành sản xuất tạo nên sức mạnh kinh tế của mình. Theo
đó các ngành công nghiệp có chất lượng cao được đưavào cơ cấu kinh tế, thích hợp
với điều kiện đất đai hạn chế và vị trí thuận lợi với giao lưu quốc tế. Đó là các ngành
công nghiệp điện tử, dụng cụ y tế cao cấp, dệt hiên đại, chế tạo thiết bị và dụng cụ
chuyên dùng, dịch vụ thương mại và dịch vụ kinh tế, tài chính, hoá dầu, vận tải biển,
du lịch. Cơ cấu kinh tế của Singapore hiện nay đã thay đổi, đã tăng tỷ lệ sản xuất
trong nước và đang hướng tới đưa các công ty quốc gia sang đầu tư ở nước ngoài
Singapore là nơi có số lượng văn phòng đại diện công ty nước ngoài nhiều nhất trong
khu vực. Ngành dịch vụ có vị trí đặc biệt quan trọng trong cơ cấu kinh tế của
Singapore. Sự phát triển các ngành sản xuất trong nước là biện pháp quan trọng để
hạn chế mức độ phụ thuộc vào biến động quan hệ thương mại quốc tế, song phải là
những ngành có chất lượng cao, sản phẩm có hàm lượng khoa học khá cao để bảo
đảm chiến lược những vị trí xứng đáng trên thị trường thế giới.
Hàn Quốc là một nước rất thành công trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước với các chính sách phù hợp.
Hàn Quốc đã lựa chọn sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho từng giai đoạn phù
hợp với trình độ lao động và khả năng vốn của đất nước.
Vào giai đoạn phục hồi kinh tế sau chiến tranh Hàn Quốc đã áp dụng chiến
lược hướng nội, phát triển hàng tiêu dùng trong nước nhằm thay thế hàng nhập khẩu
để khôi phục nền kinh tế. Sau đó chuyển sang giai đoạn mở đầu cho cuộc cất cánh
nền kinh tế, Hàn Quốc đã thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu tạo điều kiện tăng
dần dung lượng thị trường nội địa, nhất là đẩy mạnh các ngành công nghiệp nhẹ có
khả năng sử dụng nhiều sức lao động nhưng ít vốn bên cạnh đó Hàn Quốc cũng phat
triển một số ngành công nghiệp nặng tạo điều kiện chuyển mạnh sang chiến lược
hướng về xuất khẩu. Ngành sợi hoá chất đã trỡ thành mũi nhọn của công nghiệp xuất
khẩu góp phần tạo ra kinh tế tăng trưởng nhanh chóng.
Bước vào giai đoạn công nghiệp hoá Hàn Quốc đã tập trung đầu tư vào hai
hướng, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn đồng thời phát triển mạnh công
nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất bảo đảm hướng về xuất khẩu và thay thế nhập
khẩu. Hàn Quốc coi các ngành công nghiệp luyện thép, đóng tàu, điện tử, ô tô là
những ngành công nghiệp chiến lược năm 1973, công bố kế hoạch phát triển công
nghiệp nặng, công nghiệp hoá chất, ưu tiên các ngành đóng tàu, sản xuất ô tô, sản
xuất thép và hoá dầu. Đối với quốc gia Hàn Quốc thì các tập đoàn là các đầu tàu để
phát triển công nghiệp bên cạnh đó các doanh nghiệp nhỏ là chân rết bổ sung, hỗ trợ
với tập đoàn để phát triển kinh tế.
b, Các nước ASEAN:
Cách đây 20 năm, Thái Lan có cơ cấu kinh tế tương đối giống Việt Nam, từ
đầu những năm 70, chính phủ Thái Lan đã có nhiều cuộc bàn luận để xác định hướng
phát triển kinh tế. Hai xu hướng chủ yếu là: phát triển nông nghiệp toàn dân, thâm
canh và hiện đại để trở thành nền nông nghiệp hàng hoá phát triển mạnh công nghiệp
hàng tiêu dùng, đồng thời xây dựng ngành công nghiệp điện tử. Sau vài lần đièu
chỉnh hướng phát triển đến nay nền kinh tế Thái Lan đã trở nên một nền nông-công
nghiệpkhá phát triển có sản lượng gạo xuất khẩu đứng thứ hai trên thế giới. Xu
hướng đang tiến tới sản phẩm điện tử sẽ thay thế hàng dệt trở thành mặt hàng xuất
khẩu hàng đầu. Song công nghiệp thái lan đang trong tình trạng khó khăn về tiêu thụ
sản phẩm hàng hoá chủ trương thực hiện nền nông nghiệp phân tán, trở lại nền nông
nghiệp hàng hoá ở những vùng trọng điểm.
Việc đầu tư cho phát triển sẽ được tập trung cho các đô thị, khu công nghiệp
và các vùng nông nghiệp sản xuất hàng hoá trọng điểm. Tuy nhiên sản phẩm khác
của thái lan vẫn có chất lượng cao, có vị trí trên thị trường thế giới. Do đó Thái Lan
luôn đạt được tốc độ tăng trưởng cao, kinh tế phát triển.
Malaysia tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo cách từ từ, không gây
những biến động lớn trong kinh tế và đời sống xã hội. Nông nghiệp vẫn có những
vùng sản xuất tập trung với những sản phẩm truyền thống như cao su, dầu cọ, hạt
điều, cacao, thuỷ hải sản việc đầu tư cho nông nghiệp được giao cho chính quyền các
bang giải quyết, tạo nên khả năng thúc đẩy phát triển kinh tế vùng với một cơ cấu
kinh tế lãnh thổ khá đa dạng. Về công nghiệp những ngành công nghiệp lọc dầu,
luyện thiếc, chế biến nông hải sản được phát triển, xuất hiện thêm những ngành mới,
tạo nên thế mạnh cho nền kinh tế của Malaysia - Công nghiệp điện tử phát triển khá
nhanh, đến nay Malaysia đã trở thành nước xuất khẩu chủ yếu mạnh tính cho công
nghệ lắp ráp máy vi tính trên thế giới và trở thành nước đứng thứ ba sau nhật v