Ngày nay,  trên thế giới du lịch trở thành hiện tượng kinh tế  -  xã hội (KT-XH) phổ 
biến, là cầu nối tình hữu nghị, là phương tiện gìn giữ hòa bình và hợp tác giữa các quốc 
gia, dân tộc. Ở nhiều quốc gia, du lịch là một trong những ngành kinh tế hàng  đầu, phát 
triển với tốc độ cao, đem lại những lợi ích về KT-XH trong phát triển.
Ở Việt Nam, sau hơn 20 năm đổi mới ngành du lịch  đã  có nhiều khởi sắc, thay  đổi 
diện mạo và từng bước khẳng  định tầm vóc của ngành trong nền kinh tế quốc dân, góp 
phần phát triển KT-XH, thúc đẩy giao lưu văn hóa làm cho nhân dân thế giới hiểu biết 
thêm về đất nước con người Việt Nam, tranh thủ được sự thiện cảm và sự đồng tình ủng hộ 
quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; đóng góp tích cực hơn cho sự nghiệp 
công nghiệp hóa, hiện  đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Hoạt  động du lịch (HĐDL)tăng cả 
bề rộng lẫn chiều sâu. Có thể nói rằng không có ngành kinh tế nào  đi tắt đón đầu đuổi kịp 
trình  độ phát triển của các nước trong khu vực, rút ngắn khoảng cách và chống tụt hậu về 
kinh tế nhanh bằng ngành du lịch. Chính vì vậy, những năm qua Đảng và Nhà nước ta có 
sự quan tâm đặc biệt đến ngành "công nghiệp không khói" này. Công tác quản lý nhà nước 
(QLNN) đối với ngành du lịch luôn  được tăng cường,  đổi mới, từng bước hoàn thiện  để 
phù hợp với điều kiện phát triển du lịch trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và 
hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới.
Kiên Giang là tỉnh nằm ở phía Tây Nam của tổ quốc, thuộc vùng  đồng bằng sông 
Cửu Long (ĐBSCL), có tiềm năng phát triển du lịch rất phong phú và  đa dạng.  Điều kiện 
tự nhiên  đã tạo cho Kiên Giang những cảnh quan thiên nhiên  độc  đáo, nhiều danh  lam 
thắng cảnh tuyệt đẹp về hang động, sông, suối, bãi biển, rừng nguyên sinh,... Bên cạnh đó, 
Kiên Giang còn có các di tích văn hóa, lịch sử mang  đậm nét  đặc trưng của  đất và người 
Kiên Giang tập trung ở các  địa bàn như: TP Rạch Giá, thị xã Hà Tiên, huyện Phú Quốc, 
Kiên Lương, Hòn Đất và U Minh Thượng. Đặc biệt, Phú Quốc là một huyện đảo có nhiều 
tiềm năng nhất để phát triển du lịch. Chính vì vậy, ngày 05-10-2004 Thủ tướng Chính phủ 
đã ra Quyết  định số 178/2004/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án phát triển tổng thể  đảo Phú 
Quốc, tỉnh Kiên Giang  đến năm 2010 và tầm nhìn  đến năm 2020”. Tại  Điều 2 ghi rõ: 
“...Từng bước xây dựng  đảo Phú Quốc thành Trung tâm du lịch (du lịch sinh thái, nghỉ 
dưỡng và du lịch biển) tầm cỡ khu vực và quốc tế với các hình thức dịch vụ chất lượng 
cao, thu hút nhiều khách quốc tế và  đáp  ứng nhu cầu của khách du lịch trong nước” [50]. 
Mặt khác, các  địa bàn bao gồm: huyện Phú Quốc, Kiên Hải, Hòn  Đất, Kiên Lương, An 
Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, U Minh Thượng, thị xã Hà Tiên và TP Rạch Giá, tỉnh Kiên 
Giang còn  được tổ chức UNESCO Liên Hợp Quốc công nhận là Khu bảo tồn sinh quyển 
thế giới vào ngày 27-10-2006, với tổng diện tích hơn 1,1 triệu ha,  đây là điều kiện thuận 
lợi to lớn cho việc phát triển du lịch sinh thái của tỉnh. Có thể nói, Kiên Giang là một tỉnh 
có tiềm năng và lợi thế để phát triển du lịch hơn nhiều so với các địa phương khác ở vùng 
ĐBSCL. Công tác QLNN đối với HĐDL được  Đảng bộ và chính quyền tỉnh quan tâm 
củng cố thường xuyên, từng bước hoàn thiện. Do  đó, du lịch thời gian qua  đã có nhiều 
đóng góp tích cực cho sự phát triển KT-XH của tỉnh.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 118 trang
118 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2855 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Quản lý nhà nước đối với hoạt động du 
lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Ngày nay, trên thế giới du lịch trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội (KT-XH) phổ 
biến, là cầu nối tình hữu nghị, là phương tiện gìn giữ hòa bình và hợp tác giữa các quốc 
gia, dân tộc. Ở nhiều quốc gia, du lịch là một trong những ngành kinh tế hàng đầu, phát 
triển với tốc độ cao, đem lại những lợi ích về KT-XH trong phát triển. 
Ở Việt Nam, sau hơn 20 năm đổi mới ngành du lịch đã có nhiều khởi sắc, thay đổi 
diện mạo và từng bước khẳng định tầm vóc của ngành trong nền kinh tế quốc dân, góp 
phần phát triển KT-XH, thúc đẩy giao lưu văn hóa làm cho nhân dân thế giới hiểu biết 
thêm về đất nước con người Việt Nam, tranh thủ được sự thiện cảm và sự đồng tình ủng hộ 
quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; đóng góp tích cực hơn cho sự nghiệp 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Hoạt động du lịch (HĐDL)tăng cả 
bề rộng lẫn chiều sâu. Có thể nói rằng không có ngành kinh tế nào đi tắt đón đầu đuổi kịp 
trình độ phát triển của các nước trong khu vực, rút ngắn khoảng cách và chống tụt hậu về 
kinh tế nhanh bằng ngành du lịch. Chính vì vậy, những năm qua Đảng và Nhà nước ta có 
sự quan tâm đặc biệt đến ngành "công nghiệp không khói" này. Công tác quản lý nhà nước 
(QLNN) đối với ngành du lịch luôn được tăng cường, đổi mới, từng bước hoàn thiện để 
phù hợp với điều kiện phát triển du lịch trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và 
hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới. 
Kiên Giang là tỉnh nằm ở phía Tây Nam của tổ quốc, thuộc vùng đồng bằng sông 
Cửu Long (ĐBSCL), có tiềm năng phát triển du lịch rất phong phú và đa dạng. Điều kiện 
tự nhiên đã tạo cho Kiên Giang những cảnh quan thiên nhiên độc đáo, nhiều danh lam 
thắng cảnh tuyệt đẹp về hang động, sông, suối, bãi biển, rừng nguyên sinh,... Bên cạnh đó, 
Kiên Giang còn có các di tích văn hóa, lịch sử mang đậm nét đặc trưng của đất và người 
Kiên Giang tập trung ở các địa bàn như: TP Rạch Giá, thị xã Hà Tiên, huyện Phú Quốc, 
Kiên Lương, Hòn Đất và U Minh Thượng. Đặc biệt, Phú Quốc là một huyện đảo có nhiều 
tiềm năng nhất để phát triển du lịch. Chính vì vậy, ngày 05-10-2004 Thủ tướng Chính phủ 
đã ra Quyết định số 178/2004/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án phát triển tổng thể đảo Phú 
Quốc, tỉnh Kiên Giang đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020”. Tại Điều 2 ghi rõ: 
“...Từng bước xây dựng đảo Phú Quốc thành Trung tâm du lịch (du lịch sinh thái, nghỉ 
dưỡng và du lịch biển) tầm cỡ khu vực và quốc tế với các hình thức dịch vụ chất lượng 
cao, thu hút nhiều khách quốc tế và đáp ứng nhu cầu của khách du lịch trong nước” [50]. 
Mặt khác, các địa bàn bao gồm: huyện Phú Quốc, Kiên Hải, Hòn Đất, Kiên Lương, An 
Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, U Minh Thượng, thị xã Hà Tiên và TP Rạch Giá, tỉnh Kiên 
Giang còn được tổ chức UNESCO Liên Hợp Quốc công nhận là Khu bảo tồn sinh quyển 
thế giới vào ngày 27-10-2006, với tổng diện tích hơn 1,1 triệu ha, đây là điều kiện thuận 
lợi to lớn cho việc phát triển du lịch sinh thái của tỉnh. Có thể nói, Kiên Giang là một tỉnh 
có tiềm năng và lợi thế để phát triển du lịch hơn nhiều so với các địa phương khác ở vùng 
ĐBSCL. Công tác QLNN đối với HĐDL được Đảng bộ và chính quyền tỉnh quan tâm 
củng cố thường xuyên, từng bước hoàn thiện. Do đó, du lịch thời gian qua đã có nhiều 
đóng góp tích cực cho sự phát triển KT-XH của tỉnh. 
Tuy nhiên, QLNN đối với hoạt động này ở tỉnh Kiên Giang còn những hạn chế nhất 
định. Đó là, mặc dù tầm quan trọng của du lịch trong kế hoạch phát triển KT-XH của tỉnh 
đã được nâng lên một bước, nhưng trên thực tế, các ban, ngành và các cấp trong tỉnh chưa 
quan tâm đúng mức tới việc tạo môi trường thuận lợi cho du lịch phát triển, chưa khơi dậy 
được tiềm năng và chưa huy động được các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch; 
chưa quan tâm đầy đủ đến việc bảo vệ và tôn tạo tài nguyên du lịch. Việc giáo dục du lịch 
cho cán bộ và nhân dân trong tỉnh chưa tốt nên không phải ai cũng hiểu được vị trí, vai trò 
của du lịch trong đời sống cộng đồng để nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch trên quan 
điểm phát triển du lịch bền vững. Cơ chế, chính sách về du lịch có mặt chưa đồng bộ và 
nhất quán. Quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng 
(KCHT), cơ sở vật chất - kỹ thuật (CSVC-KT) du lịch còn nhiều bất cập, dẫn đến tình 
trạng thừa, thiếu cục bộ ở nhiều khu, điểm du lịch. 
Những hạn chế nêu trên là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc chưa tận 
dụng được lợi thế, tiềm năng sẵn có của tỉnh để phát triển du lịch cũng như những bất cập 
trong HĐDL ở tỉnh Kiên Giang thời gian qua. 
Mặt khác, trước những yêu cầu mới trong giai đoạn hiện nay, nhất là sau khi Việt 
Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), 
công tác QLNN đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang cần được đổi mới một cách toàn diện, để 
vừa đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của tỉnh, vừa góp phần tạo ra sự phát triển nhanh 
và bền vững của ngành du lịch tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới. 
 Với lý do đó, tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở tỉnh 
Kiên Giang hiện nay” làm luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý nhằm góp phần giải 
quyết vấn đề thực tiễn đặt ra. 
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 
Vấn đề QLNN đối với HĐDL ở phạm vi cả nước nói chung và của từng địa phương 
nói riêng là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, các nhà lãnh đạo và quản lý 
kinh tế. Một số công trình khoa học tiêu biểu như sau: 
- Nguyễn Minh Đức (2007), “Quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại, du 
lịch tỉnh Sơn La trong quá trình CNH, HĐH”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị 
Quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là một công trình nghiên cứu QLNN đối với hoạt động 
thương mại, du lịch ở một địa phương cụ thể. Luận án đã phân tích cơ sở lý luận và thực 
tiễn nhằm làm rõ chức năng, nhiệm vụ; đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm góp phần đổi 
mới và nâng cao trình độ QLNN về thương mại, du lịch ở tỉnh Sơn La. Tuy nhiên, tác giả 
chỉ nghiên cứu QLNN đối với hoạt động thương mại, du lịch thuộc khu vực Tây Bắc Bộ, 
bao gồm các tỉnh miền núi, trong đó có tỉnh Sơn La, có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, 
văn hóa, tiềm năng phát triển du lịch khác nhiều so với khu vực Tây Nam Bộ, trong đó có 
tỉnh Kiên Giang. 
- Nguyễn Thị Thanh Hiền (1995) “Quản lý nhà nước về du lịch trong giai đoạn 
phát triển mới của nền kinh tế Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, Học viện 
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đã phân tích đặc điểm, vai trò của ngành du 
lịch trong giai đoạn đầu phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam, đánh giá thực trạng 
QLNN về du lịch nói chung và đề xuất những giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu lực 
QLNN về du lịch. Tuy nhiên, tác giả chưa nghiên cứu vấn đề QLNN về du lịch ở một địa 
phương cụ thể. 
- Huỳnh Vĩnh Lạc (2005), “Khai thác tiềm năng du lịch đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên 
Giang”, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 
Luận văn chủ yếu phân tích, đánh giá thực trạng tiềm năng phát triển du lịch và đề xuất 
những giải pháp đẩy mạnh khai thác tiềm năng phát triển du lịch trong phạm vi của một 
huyện, thuộc tỉnh Kiên Giang. Tác giả chưa nghiên cứu sâu vấn đề QLNN đối với HĐDL 
nói chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng. 
- Trịnh Đăng Thanh (2004) “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du 
lịch ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí 
Minh. Luận án đã đưa ra cơ sở lý luận về sự cần thiết phải QLNN bằng pháp luật đối với 
HĐDL; phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN 
bằng pháp luật đối với HĐDL trước yêu cầu mới. Tuy nhiên, tác giả chưa nghiên cứu toàn 
diện vấn đề QLNN đối với HĐDL nói chung và ở từng địa phương nói riêng. 
Ngoài ra, còn một số bài viết liên quan đến vấn đề phát triển du lịch và QLNN về 
du lịch, cụ thể như: 
- Trần Xuân Ảnh (2007), "Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về thị trường du 
lịch", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 132. 
- Nguyễn Văn Mạnh (2007), “Để du lịch Việt Nam phát triển nhanh và bền vững 
sau khi gia nhập WTO”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 115. 
- Vũ Khoan (2005), “Đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn vào năm 2010”, 
Tạp chí Du lịch, số 11. 
- Trịnh Đăng Thanh (2004), “Một số suy nghĩ về công tác quản lý nhà nước đối với 
ngành du lịch”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 98. 
- Võ Thị Thắng (2001), "Tăng cường quản lý nhà nước để du lịch Việt Nam phát huy vai trò 
ngành kinh tế mũi nhọn", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 7(66). 
- Hoàng Anh Tuấn (2007), “Du lịch Việt Nam - Thành tựu và phát triển”, Tạp chí 
Quản lý nhà nước, số 133. 
- Trần Nguyễn Tuyên (2005), “Du lịch Việt Nam phát triển theo hướng trở thành 
ngành kinh tế mũi nhọn”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 114. 
Như vậy, cho đến nay chưa có tác giả nào nghiên cứu sâu và toàn diện về quản lý 
nhà nước đối với hoạt động du lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay. 
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
3.1. Mục đích nghiên cứu 
Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện QLNN đối với HĐDL ở tỉnh Kiên 
Giang nhằm thúc đẩy hoạt động này phát triển nhanh và bền vững, đóng góp tích cực vào 
quá trình phát triển KT-XH chung của tỉnh. 
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ 
yếu sau: 
- Phân tích về mặt lý luận đặc điểm, vai trò, ý nghĩa KT-XH của HĐDL và vai trò, 
chức năng, nhiệm vụ QLNN đối với HĐDL nói chung và ở cấp tỉnh nói riêng. 
- Nghiên cứu kinh nghiệm QLNN về du lịch của một số tỉnh thuộc khu vực ĐBSCL 
trong thời gian gần đây. 
- Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang trong thời 
gian qua. Chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân. 
- Đề xuất phương hướng, các giải pháp phù hợp, khả thi nhằm hoàn thiện QLNN 
đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang trong thời gian từ nay đến năm 2010 và 2020. 
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở 
tỉnh Kiên Giang. 
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn ở việc nghiên cứu công tác quản lý nhà 
nước của chính quyền cấp tỉnh đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Thời 
gian khảo sát thực trạng từ năm 2001 đến năm 2007; các giải pháp dự kiến đề xuất cho giai 
đoạn từ nay đến năm 2010 và 2020. 
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
* Cơ sở lý luận: 
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí 
Minh; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế và quản lý kinh tế, nhất là những 
quan điểm được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, IX và X. 
* Phương pháp nghiên cứu: 
- Phương pháp chung: Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. 
- Phương pháp cụ thể: Phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê, 
so sánh, dự báo, phương pháp chuyên gia. 
Ngoài ra, luận văn cũng tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình 
khoa học đã được công bố. 
6. Những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận văn 
- Hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về QLNN đối với 
HĐDL trên địa bàn cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay. 
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng QLNN đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang những 
năm qua; chỉ ra được những mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân. 
- Đề xuất được phương hướng và các giải pháp thiết thực, khả thi nhằm hoàn thiện 
QLNN đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang thời gian tới. 
7. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung 
chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết. 
Chương 1 
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC 
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH 
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH 
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động du lịch và các loại hình hoạt động 
kinh doanh du lịch 
1.1.1.1. Khái niệm du lịch và hoạt động du lịch 
- Khái niệm du lịch: 
Thuật ngữ “du lịch” bắt nguồn từ tiếng Pháp: “Tour” nghĩa là đi vòng quanh, 
cuộc dạo chơi, còn “touriste” là người đi dạo chơi. Trong tiếng Anh “to tour” có 
nghĩa là đi dã ngoại đến một nơi nào đó. Mặt khác, “du lịch” là từ Hán-Việt, có thể 
coi là từ ghép giữa “du” là đi chơi với “lịch” là sự lịch lãm, hiểu biết. 
Vậy du lịch là gì? 
Có nhiều quan niệm khác nhau về du lịch, đầu tiên du lịch được hiểu là việc 
đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong khoảng 
thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh. Ngày 
nay, khi du lịch phát triển mạnh trở thành lĩnh vực không thể thiếu trong đời sống 
con người (từ giữa thế kỷ XX đến nay), người ta đưa ra những khái niệm cụ thể hơn 
về du lịch. 
Có quan niệm cho rằng: 
Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên 
quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường 
xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng 
cao trình độ nhận thức - văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ 
những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa [67, tr.15]. 
Tại Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Ottawa - Canada (6/1991) đã đưa 
ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường 
thường xuyên của mình trong một khoảng thời gian nhất định, mục đích của chuyến 
đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm” 
[21]. 
Theo định nghĩa của Tổ chức Du lịch thế giới của Liên Hợp Quốc (UNWTO): 
Du lịch bao gồm tất cả các hoạt động của những người du hành, tạm 
trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục 
đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích 
khác nữa, trong thời gian liên tục không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống 
định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch 
cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư 
[31]. 
Luật Du lịch do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 
XI, kỳ họp lần thứ 7 thông qua ngày 14-6-2005 đưa ra định nghĩa: “Du lịch là các 
hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên 
của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một 
khoảng thời gian nhất định” [36, tr.9]. 
Trên cơ sở các yếu tố hợp lý của các định nghĩa về du lịch nêu trên, khái 
niệm du lịch sử dụng trong luận văn được hiểu là: Du lịch là bao gồm tất cả các mối 
quan hệ, các hoạt động liên quan đến chuyến đi và lưu trú của con người ở ngoài 
nơi cư trú thường xuyên của họ nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, khám phá, nghỉ 
dưỡng, chữa bệnh, giải trí, phát triển thể chất và tinh thần kèm theo việc tiêu thụ 
những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa trong một khoảng thời gian nhất định. 
Như vậy, một mặt, du lịch mang ý nghĩa thông thường của từ: việc đi lại của 
con người với mục đích nghỉ ngơi, giải trí... Mặt khác, du lịch được nhìn nhận dưới 
góc độ một hoạt động gắn chặt với những kết quả kinh tế (sản xuất, tiêu thụ) do 
chính nó tạo ra. 
Ở khía cạnh thứ nhất, trong điều kiện kinh tế phát triển, du lịch là một hoạt 
động không thể thiếu được trong cuộc sống bình thường của mỗi người dân. Ở các 
chuyến du lịch trong và ngoài nước, con người không chỉ dừng lại ở việc nghỉ ngơi, 
giải trí,... mà còn thỏa mãn cả những nhu cầu to lớn về mặt tinh thần. 
Ở khía cạnh thứ hai, du lịch là một hiện tượng KT-XH thu hút hàng tỷ người 
trên thế giới. Bản chất kinh tế của nó là ở chỗ sản xuất và cung cấp hàng hóa phục 
vụ việc thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của khách du lịch. 
- Khái niệm hoạt động du lịch: 
Cũng như khái niệm du lịch, cũng có rất nhiều quan niệm khác nhau về hoạt 
động du lịch. Trước đây, người ta chỉ quan niệm hoạt động du lịch là một hoạt động 
mang tính chất văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu giải trí và những nhu cầu hiểu biết 
của con người, hoạt động du lịch không được coi là hoạt động kinh tế, không mang 
tính chất kinh doanh và ít được đầu tư phát triển. Ngày nay, khi du lịch được nhiều 
quốc gia trên thế giới xem là một ngành kinh tế quan trọng thì quan niệm về hoạt động 
du lịch được hiểu một cách đầy đủ hơn. 
Trên cơ sở tổng hợp lý luận và thực tiễn hoạt động du lịch ở Việt Nam thời 
gian một vài thập kỷ gần đây, Luật Du lịch do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp lần thứ 7 thông qua ngày 14-6-2005 đưa ra khái 
niệm hoạt động du lịch như sau: "Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, 
tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân 
có liên quan đến du lịch" [36, tr.9]. 
Với cách tiếp cận này, hoạt động du lịch được nhìn nhận ở ba khía cạnh: Thứ 
nhất, “hoạt động của khách du lịch” nghĩa là việc di chuyển và lưu trú tạm thời của 
người đi du lịch đến một nơi ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ để tham quan, 
nghỉ dưỡng, chữa bệnh, tìm hiểu lịch sử, văn hóa, nghệ thuật... Thứ hai, “tổ chức, cá 
nhân kinh doanh du lịch”, tức là những người hoạt động tổ chức lưu trú, phục vụ ăn 
uống, hướng dẫn tham quan, vận chuyển đưa đón du khách, kinh doanh các hàng 
hóa, dịch vụ khác... nhằm mục tiêu lợi nhuận. Thứ ba, “cộng đồng dân cư và cơ 
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan”, tức là cơ quan nhà nước và các tổ chức có 
liên quan tại địa phương du lịch tổ chức quản lý, điều phối, phục vụ hoạt động của 
“khách du lịch” và “tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh du lịch” nhằm đảm bảo 
cho các đối tượng này thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia HĐDL 
theo đúng luật định. 
1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động du lịch 
Xuất phát từ các khái niệm về du lịch và HĐDL, có thể rút ra một số đặc 
điểm chủ yếu của HĐDL như sau: 
Một là, HĐDL mang tính chất của một ngành kinh tế dịch vụ. 
Ngày nay, nền sản xuất xã hội cùng với khoa học - kỹ thuật và công nghệ 
phát triển với tốc độ cao đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân công lao động xã hội, 
làm gia tăng nhu cầu phục vụ sản xuất cũng như cuộc sống văn minh của con người. 
Từ đó, hoạt động du lịch trở thành một ngành kinh tế độc lập. Ở các nước phát triển 
và đang phát triển, tỷ trọng du lịch trong thu nhập quốc dân ngày càng tăng lên. Du 
lịch là một ngành kinh tế dịch vụ, bởi vậy sản phẩm của nó vừa mang những đặc 
điểm chung của dịch vụ vừa mang những đặc điểm riêng mà các ngành dịch vụ 
khác không có. 
Hai là, HĐDL là loại hình dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh 
thần cho khách du lịch trong thời gian đi du lịch. 
Dịch vụ du lịch khác với các ngành dịch vụ khác ở chỗ: dịch vụ du lịch chỉ 
thỏa mãn nhu cầu cho khách du lịch chứ không thỏa mãn nhu cầu cho tất cả mọi 
người dân. Dịch vụ du lịch là nhằm thỏa mãn những nhu cầu hàng hóa đặc thù của 
du khách trong thời gian lưu trú bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ về ăn, ở, nghỉ 
ngơi, đi lại, tham quan, vui chơi giải trí, thông tin về văn hóa, lịch sử, tập quán và 
các nhu cầu khác. Như vậy, dịch vụ du lịch là loại hình dịch vụ đời sống nhằm thỏa 
mãn nhu cầu con người, làm cho con người sống ngày càng văn minh, hiện đại. 
Thực tế hiện nay cho thấy, ở nhiều nước trên thế giới, khi thu nhập của người dân 
tăng lên, đủ ăn, đủ mặc thì du lịch trở thành không thể thiếu, bởi vì ngoài việc thỏa 
mãn nhu cầu tình cảm và lý trí, du lịch còn là một hình thức nghỉ dưỡng tích cực, 
nhằm tái tạo lại sức lao động của con người. 
Ba là, việc tiêu dùng và cung ứng dịch vụ du lịch xảy ra trong cùng một thời 
gian và không gian. 
Việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hóa (thức ăn, đồ uống chế biến tại 
chỗ...) xảy ra cùng một thời gian và cùng một địa điểm với việc sản xuất ra chúng. 
Trong du lịch, người cung ứng không phải vận chuyển dịch vụ và hàng hóa đến cho 
khách hàng, mà ngược lại, tự khách du lịch phải đi đến nơi