Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Bình Phước

Với tư cách là một hỡnh thỏi ý thức xó hội và là một hiện tượng xó hội, tụn giáo ra đời và biến đổi như thế nào là do tồn tại xó hội quy định. Nhưng với tính độc lập tương đối của mỡnh, tụn giỏo tác động trở lại tồn tại xó hội khá mạnh mẽ, với cả tích cực và tiêu cực. Theo đó, vị trí, vai trũ của mỗi tụn giỏo ở từng khu vực, từng quốc gia và các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng không như nhau. Lịch sử phương Tây từng có thời kỳ thần quyền chi phối thế quyền, giáo hội đứng trên nhà nước, tôn giáo thống trị toàn bộ đời sống xó hội, chi phối cả phần hồn lẫn phần xỏc của con người; thậm chí, đó gõy ra những cuộc chiến tranh tụn giỏo đẫm máu ở thời Trung cổ qua các cuộc Thập tự chinh kéo dài hàng trăm năm. Song cũng có nhiều quốc gia, dân tộc được hưng khởi do có sự đóng góp đáng kể từ phương diện tích cực của tôn giáo, như Việt Nam, Trung Hoa trong lịch sử và Hàn Quốc đương đại. Chớnh vỡ thế, dưới mọi thời đại, dù các quốc gia có thể chế chính trị như thế nào, nhỡn chung đều có chính sách, pháp luật thích hợp để điều chỉnh hoạt động của tôn giáo nhằm duy trỡ sự ổn định xó hội; để tôn giáo tác động đến các lĩnh vực của đời sống xó hội theo hướng đồng thuận, mà trước hết, là đảm bảo lợi ích của giai cấp cầm quyền. Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc và tôn giáo. Chưa kể vài chục triệu người khác vẫn giữ gỡn tớn ngưỡng truyền thống thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng dân gian, chỉ tính riêng 6 tôn giáo lớn, nước ta đó cú gần 1/3 dõn số sinh hoạt tôn giáo thường xuyên. Vỡ thế, Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng công tác tôn giáo theo hướng vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân vừa kịp thời đấu tranh với các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng. Để đảm bảo hiệu quả của công tác tôn giáo của hệ thống chính trị thời kỳ đẩy mạnh và xây dựng nhà nước pháp quyền, thỡ việc nõng cao hiệu lực cụng tỏc quản lý nhà nước về tôn giáo là vấn đề hết sức cấp bách. Vỡ thế, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đó từng bước hoàn thiện chính sách và pháp luật về tôn giáo; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo nhằm thực hiện tốt chính sách đoàn k ết lương giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc.

pdf100 trang | Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2704 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Bình Phước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh bình phước MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với tư cách là một hỡnh thỏi ý thức xó hội và là một hiện tượng xó hội, tụn giáo ra đời và biến đổi như thế nào là do tồn tại xó hội quy định. Nhưng với tính độc lập tương đối của mỡnh, tụn giỏo tác động trở lại tồn tại xó hội khá mạnh mẽ, với cả tích cực và tiêu cực. Theo đó, vị trí, vai trũ của mỗi tụn giỏo ở từng khu vực, từng quốc gia và các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng không như nhau. Lịch sử phương Tây từng có thời kỳ thần quyền chi phối thế quyền, giáo hội đứng trên nhà nước, tôn giáo thống trị toàn bộ đời sống xó hội, chi phối cả phần hồn lẫn phần xỏc của con người; thậm chí, đó gõy ra những cuộc chiến tranh tụn giỏo đẫm máu ở thời Trung cổ qua các cuộc Thập tự chinh kéo dài hàng trăm năm. Song cũng có nhiều quốc gia, dân tộc được hưng khởi do có sự đóng góp đáng kể từ phương diện tích cực của tôn giáo, như Việt Nam, Trung Hoa trong lịch sử và Hàn Quốc đương đại. Chớnh vỡ thế, dưới mọi thời đại, dù các quốc gia có thể chế chính trị như thế nào, nhỡn chung đều có chính sách, pháp luật thích hợp để điều chỉnh hoạt động của tôn giáo nhằm duy trỡ sự ổn định xó hội; để tôn giáo tác động đến các lĩnh vực của đời sống xó hội theo hướng đồng thuận, mà trước hết, là đảm bảo lợi ích của giai cấp cầm quyền. Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc và tôn giáo. Chưa kể vài chục triệu người khác vẫn giữ gỡn tớn ngưỡng truyền thống thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng dân gian, chỉ tính riêng 6 tôn giáo lớn, nước ta đó cú gần 1/3 dõn số sinh hoạt tôn giáo thường xuyên. Vỡ thế, Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng công tác tôn giáo theo hướng vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân vừa kịp thời đấu tranh với các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng. Để đảm bảo hiệu quả của công tác tôn giáo của hệ thống chính trị thời kỳ đẩy mạnh và xây dựng nhà nước pháp quyền, thỡ việc nõng cao hiệu lực cụng tỏc quản lý nhà nước về tôn giáo là vấn đề hết sức cấp bách. Vỡ thế, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đó từng bước hoàn thiện chính sách và pháp luật về tôn giáo; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo nhằm thực hiện tốt chính sách đoàn kết lương giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Hiện nay, ở các vùng DTTS của nước ta cũn tồn tại nhiều vấn đề lịch sử chính trị phức tạp và các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng, kích động lôi kéo đồng bào tạo ra những hoạt động chống đối nhà nước. Như vùng dân tộc Hmông, chúng kích động thành lập nhà nước tự trị; với dân tộc Chăm, là việc đũi phục quốc Chăm Pa; vùng dân tộc Khmer Nam Bộ, âm mưu thành lập nhà nước Khmer-Crôm; ở vùng dân tộc Tây Nguyên, chúng kích động đũi thành lập nhà nước Đêga độc lập. Như vậy, khác với vấn đề tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc đa số, ở các vùng đồng bào DTTS, vấn đề dân tộc và tôn giáo luôn gắn bó chặt chẽ với nhau và đây là một đặc điểm lớn đũi hỏi chủ thể quản lý xó hội cần có sự quan tâm thường xuyên. Bỡnh Phước là một tỉnh miền núi phía Nam Việt Nam, có 41 dân tộc (tộc người) sinh sống, trong đó, người DTTS có 28.133 hộ, với 140.105 khẩu, chiếm gần 20% dân số của tỉnh. Tín đồ các tôn giáo trên địa bàn tỉnh có 225.298 người, chiếm gần 30% dân số của tỉnh. Trong đó, tín đồ là người DTTS có 74. 916 người, chiếm hơn một nửa dân số các DTTS. Trong những năm qua, tỡnh hỡnh tụn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước diễn ra khá phức tạp. Các tổ chức tôn giáo đẩy mạnh phát triển tín đồ, đặc biệt là đạo Tin lành phục hồi và phát triển nhanh tới mức khụng bỡnh thường. Trên địa bàn DTTS tỉnh Bỡnh Phước, hoạt động lợi dụng tôn giáo đó và đang diễn ra, tuy chưa gây nên những hậu quả nghiêm trọng như ở mấy tỉnh Tây Nguyên bên cạnh, nhưng vẫn cần phải được quan tâm từ cả phương diện tỡnh thế và chiến lược. Công tác QLNN về tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS ở Bỡnh Phước trong những năm qua đó cú nhiều chuyển biến tớch cực. Bộ mỏy làm cụng tỏc tụn giỏo ở cơ sở được kiện toàn một bước, gúp phần nõng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo. Thể chế hoá chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, lónh đạo tỉnh đó đề ra các giải pháp đúng đắn, đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ là người DTTS, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xó hội, đấu tranh có hiệu quả đối với các hiện tượng vi phạm pháp luật trong hoạt động tôn giáo. Công tác nắm đối tượng, tranh thủ giáo sỹ, chống địch lợi dụng tôn giáo được các ngành chức năng thường xuyên quan tâm và đó gúp phần đưa giáo hội đi theo chiều hướng hợp tác, tuân thủ pháp luật, củng cố lũng tin của tớn đồ, chức sắc tôn giáo đối với Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, công tác QLNN đối với các hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS trên địa bàn cũng cũn những hạn chế, yếu kém. Đó là việc chậm cụ thể hoá một số chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đối với tôn giáo. Việc thực hiện chính sách tôn giáo cũn thiếu đồng bộ, có hiện tượng né tránh, đùn đẩy cho cấp trên hoặc cơ quan khác. Cán bộ làm công tác tôn giáo của tỉnh nói chung và trong vùng đồng bào DTTS nói riêng trong khi vẫn có thái độ hẹp hũi, định kiến với tôn giáo, thỡ lại cú biểu hiện buông lỏng quản lý, thiếu chủ động trong ngăn ngừa những vi phạm pháp luật của các tôn giáo. Rồi nữa, việc xác định nội dung QLNN đối với tôn giáo trong vùng đồng bào DTTS chưa rừ ràng. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở vùng DTTS ở Bỡnh Phước vẫn cũn yếu kộm, cả về chuyờn mụn nghiệp vụ và kinh nghiệm công tác, đó là chưa kể số lượng cũn thiếu, chưa thật sự yên tâm với công tác này. Vậy, để đáp ứng những vấn đề cấp bách đó nhằm nâng cao hiệu lực QLNN về tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước hiện nay, người viết chọn đề tài: Quản lý nhà nước về tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Bỡnh Phước. 2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài Từ khi có Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị, 10/1990, việc nghiên cứu vấn đề tôn giáo, chủ trương, chính sách đối với tôn giáo ngày càng được nhiều nhà lý luận và quản lý quan tõm. Như: Tôn giáo tín ngưỡng hiện nay-mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết của Trung tâm Thông tin-Tư liệu, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1995; Đề tài cấp bộ thực trạng tỡnh hỡnh phục hồi, phỏt triển đạo Tin lành ở các vùng dân tộc thiểu số nước ta và những vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh, Tiến sỹ Nông Văn Lưu chủ nhiệm, năm 1995; “Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xó hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, chủ nhiệm Tiến sỹ Ngô Hữu Thảo, năm 1998; Đổi mới quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam, của Trần Minh Thư, năm 1999; Đề tài cấp bộ Sự phát triển của đạo Tin lành trong vùng đồng bào dân tộc ít người ở một số tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, Tiến sỹ Nguyễn Đức Lữ, chủ nhiệm, năm 2000; Chuyên đề Đạo Tin lành ở Việt Nam-Thực trạng và xu hướng phát triển, của Nguyễn Thanh Xuân, Ban Tôn giáo Chính phủ; Đề tài cấp bộ Về tỡnh hỡnh phỏt triển đạo Tin lành ở miền núi phía Bắc-Trường Sơn-Tây Nguyên, của Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn, năm 2000; … Những cụng trỡnh đó đó phõn tớch, khái quát những vấn đề thực tiễn, bài học kinh nghiệm và có giỏ trị lý luận sõu sắc. Nhưng, trên lĩnh vực QLNN đối với tôn giáo, cỏc cụng trỡnh này mới dừng lại ở tầm vĩ mô, mà chưa đề cập tới vấn đề QLNN về tôn giáo ở vùng DTTS tỉnh Bỡnh Phước. Song, đây là những tài liệu quý giỏ để tác giả kế thừa và vận dụng trong triển khai đề tài. Ở Bỡnh Phước, có một cụng trỡnh nghiờn cứu về tụn giỏo và cụng tỏc tụn giỏo, đó là Đề án đối với Đạo Tin lành tỉnh Bỡnh Phước, năm 2002, của Ban Dân tộc và Tôn giáo tỉnh. Cụng trỡnh này đi sâu nghiên cứu về đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh, từ đó đưa ra một số giải phỏp quản lý, nhưng thực trạng QLNN đối với tôn giáo và vấn đề đặt ra trong vùng đồng bào DTTS chưa được làm rừ. Do đó, triển khai đề tài này như là sự bổ sung cho việc nghiên cứu đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ 3.1. Mục đích Trên cơ sở làm rừ thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước những năm vừa qua, luận văn đề xuất phương hướng và giải phỏp nhằm nõng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm rừ những đặc điểm tỡnh hỡnh dõn tộc và tụn giỏo ở Bỡnh Phước. - Phõn tớch thực trạng cụng tỏc quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước, từ đó khái quát một số vấn đề đang đặt ra đối với công tác này. - Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước trong tỡnh hỡnh mới. 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước từ khi tái lập tỉnh (1997) đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về tôn giáo và QLNN về tôn giáo. Luận văn cũng xuất phát từ chủ trương của UBND tỉnh Bỡnh Phước đối với tôn giáo và công tác tôn giáo trong vùng đồng bào DTTS. Thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng những nguyên tắc phương pháp luận của CNDVBC và CNDVLS; đồng thời sử dụng tổng hợp những phương pháp khoa học cụ thể, như phương pháp logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh, đối chiếu cùng phương pháp của xó hội học. 6. Đóng góp của luận văn - Khái quát một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong công tác QLNN đối với tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước. - Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước hiện nay và sắp tới. 7. í nghĩa thực tiễn của đề tài - Luận văn là một cơ sở tham khảo để xây dựng, bổ sung chủ trương đối với tôn giáo và công tác tôn giáo nhằm đảm bảo tốt hơn công tác quản lý nhà nước về tôn giáo vùng đồng bào DTTS của Bỡnh Phước. - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy trong trường Chính trị tỉnh Bỡnh Phước 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết. Chương 1 ĐẶC ĐIỂM TèNH HèNH DÂN TỘC, TễN GIÁO TỈNH BèNH PHƯỚC 1.1. TèNH HèNH DÂN TỘC TỈNH BèNH PHƯỚC 1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xó hội - Đặc điểm tự nhiên Bỡnh Phước là tỉnh được tái lập từ năm 1997, là tỉnh miền núi có 240 km đường biên giới với Campuchia là vùng đất cuối cùng của dói Trường sơn, nối liền Nam Tây nguyên với vùng gũ đồi của Đông Nam bộ. Bỡnh Phước có diện tích tự nhiờn 6.853,93km2, phớa Nam giỏp tỉnh Bỡnh Dương, phía Bắc giáp tỉnh Đăk Nông, phía Đông giáp tỉnh Lâm Đồng - Đồng Nai và phía Tây giáp Campuchia. Số dân toàn tỉnh hiện có 749.377 người, trong đó người DTTS có 140.105 người, chiếm gần 20% dân số toàn tỉnh, đông nhất là người dân tộc bản địa S'tiêng, 68.737 người, chiếm 9,17%; dân tộc Khmer 13.393 người, chiếm 1,78%; người Mơnông 7.898 người, chiếm 1,05%; người Tày 17.769 người, chiếm 2,37%; người Nùng 17. 612 người, chiếm 2,35% [19, tr.12]… Trước đây trên vùng đất Bỡnh Phước chủ yếu là người S'tiêng, người Khmer, người Mơnông, nhưng nay có thêm nhiều dân tộc khác, đặc biệt là các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam di dân tự do hết sức mạnh mẽ trong những năm gần đây. Các DTTS sống đan xen với nhau và với người Kinh trên tất cả các huyện, thị của tỉnh. Cũng có một số dân tộc chỉ sống tập trung ở một số huyện, như: người S'tiêng sống ở Phước Long, Bỡnh Long, Bự Đăng, Lộc Ninh; người Nùng tập trung ở Đồng Phú, Bù Đăng và người Kh'mer ở Lộc Ninh, Đồng Xoài, Chơn Thành . . . - Đặc điểm kinh tế Trong lịch sử, vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước tồn tại lâu đời một hỡnh thức kinh tế, đó là canh tác lúa rẫy trong vùng rừng già nhiệt đới. Đây là nền kinh tế nông nghiệp sản xuất tự cấp, tự túc chủ yếu dựa vào phương thức quảng canh trên rẫy, trỡnh độ kỹ thuật thô sơ, tổ chức lao động tập thể giản đơn theo tập quán cổ truyền. Những năm qua, với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thông qua các chương trỡnh dự ỏn như Chương trỡnh 134, 135…về việc hỗ trợ đồng bào DTTS điện, đường, trường, trạm, nhà ở, đất sản xuất, cây con giống…nên đời sồng đồng bào DTTS đó được cải thiện, từng bước được nâng cao. Số hộ giàu đó tăng lên và ngày càng có nhiều mụ hỡnh nụng dõn là người DTTS làm kinh tế giỏi, có mức thu nhập trên dưới 100 triệu đồng/hộ/năm. Việc thực hiện Chương trỡnh 134 về hỗ trợ đất sản xuất, nhà ở, cụng trỡnh nước sạch cho đồng bào DTTS được lónh đạo tỉnh quan tâm, tạo điều kiện để họ ổn định cuộc sống, an tâm sản xuất. Đến nay, chương trỡnh đất ở, cụng trỡnh nước sạch sinh hoạt cho đồng bào DTTS cơ bản đó hoàn thành. Riêng việc hỗ trợ đất sản xuất đạt tỷ lệ 88,9% so với đề án phờ duyệt. Tỡnh hỡnh thực hiện Chương trỡnh 135, Chương trỡnh 168, chính sách trợ cước, trợ giá, định canh - định cư theo Quyết định 33/2007/QĐ – TTg và Quyết định 32/2007/QĐ - TTg được toàn tỉnh tiếp tục chỉ đạo thực hiện. Ngày 10/10/2008, UBND tỉnh ban hành thêm Quyết định về thực hiện chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh - định cư cho đồng bào DTTS giai đoạn 2007 – 2008 trên địa bàn tỉnh. Mỗi khu định canh - định cư cũng được quy định cụ thể về điện sinh hoạt, đường giao thông nông thôn, trường học…ngoài ra, mỗi cụm cũn được hỗ trợ khoa học kỹ thuật tương đương 30 triệu đồng/năm. Nhân dịp tết của đồng bào DTTS các cấp uỷ Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể tổ chức đàn đi thăm, chúc tết và tặng quà cho bà con dân tộc nghèo có đạo không có điều kiện đón tết. Tuy nhiên, vẫn cũn những vấn đề đáng quan tâm, đó là do chưa hiểu đúng chủ trương của tỉnh, bị kẻ xấu lợi dụng xúi dục, một số bà con đó tụ tập đông người đi khiếu kiện tập thể vượt cấp, làm ảnh hưởng xấu đến tỡnh hỡnh an ninh chớnh trị, trật tự an toàn xó hội ở một số địa phương, như: xó Nghĩa Trung, huyện Bự Đăng; xó Đồng Tiến, huyện Đồng Phỳ; xó Phước Tiến và Hưng Phước, huyện Bù Đốp. Một bộ phận đồng bào DTTS trỡnh độ dõn trớ cũn thấp, đời sống kinh tế cũn khú khăn, thu nhập chưa cao, chưa ổn định. Tỡnh trạng di dõn tự do của đồng bào DTTS các tỉnh phía Bắc đến không có đất sản xuất gây khó khăn cho chính quyền trong việc thực hiện giải pháp xoá đói, giảm nghèo và bảo đảm trật tự an toàn xó hội - Đặc điểm văn hoá, giáo dục Cỏc DTTS ở Bỡnh Phước tuy cũn lạc hậu về kinh tế, song họ có kho tàng văn hoá dân gian phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hoá ăn, ở, mặc, văn hoá ứng xử trong giao tiếp cộng đồng, văn hoá nếp sống và lối sống cộng đồng của các DTTS ở Bỡnh Phước chứa đựng những luật tục cổ truyền mang tính cách rất riêng biệt của từng dân tộc. Văn hoá dân gian cũng rất phong phú, đặc biệt các hỡnh thức lễ hội phản ánh rất tổng hợp đời sống văn hoá và tín ngưỡng của từng dân tộc, như lễ hội đâm trâu, lễ cúng lúa…. Bên cạnh những giá trị đặc sắc trong văn hoá tín ngưỡng, các DTTS ở Bỡnh Phước cũn tồn tại những hủ tục lạc hậu, mờ tớn dị đoan rất điển hỡnh, như thầy Hùm, Ma lai, Ngói độc…. Về tín ngưỡng, đồng bào DTTS hầu hết thờ đa thần, tin vào sức mạnh hữu hỡnh và vụ hỡnh. Ngoài mối quan hệ với mụi trường tự nhiên và môi trường xó hội, con người cũn cú mối quan hệ với thế giới đó khuất, với thế giới siờu nhiờn. Mối quan hệ này thể hiện qua những sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo, như là sự đúc kết các mối quan hệ của con người với hiện thực khách quan của họ. Chính những điều kiện tự nhiên và xó hội của họ là cơ sở để hỡnh thành nờn cỏc tớn ngưỡng sơ khai, khi mà cuộc sống của họ rất gần gũi với vạn vật tự nhiên. Họ thường xuyên, trực tiếp đối mặt với tự nhiên, đời sống luụn lệ thuộc vào tự nhiờn, thỡ thiờn nhiờn chính là đối tượng nhận thức chính và mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được coi là mối quan hệ chính yếu, chi phối ảnh hưởng đến mọi quan hệ xó hội khỏc. Từ xa xưa đồng bào DTTS đó biết thuần hoỏ cỏc loại thực, động vật khác nhau, từ đó càng làm cho cuộc sống thêm gắn bó, gần gũi với vạn vật của tự nhiên. Chớnh vỡ thế, các tín ngưỡng nguyên thủy trong đồng bào hầu như vẫn giữ được nét cổ sơ như nó đó nảy sinh, như tục mừng lúa mới, tục cầu mưa, tục cầu nắng…Trước đây, có quan điểm cho rằng tôn giáo hay rộng hơn là đời sống tín ngưỡng, tâm linh là một lĩnh vực không liên quan gỡ đến văn hoá. Nhưng giờ đây quan niệm đó đó được thay đổi, bởi vỡ văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo nên. Từ những hoạt động sáng tạo của người dân đến sức sống của cả một xó hội, những phương thức sản xuất, những hỡnh thức tổ chức lao động, ước mơ và khát vọng…luôn cho thấy tôn giáo luôn gắn chặt với văn hoá. Đối với đồng bào DTTS, do điều kiện tự nhiên chi phối, tín ngưỡng và tâm linh lại càng gắn bó mật thiết với văn hoá. Bởi vậy khi nghiên cứu văn hoá của mỗi dân tộc, nếu thiếu yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo thỡ không thể có kết quả khoa học đúng nghĩa. Về tâm lý của các DTTS, thường có sự quyết định của ba yếu tố, là tự nhiờn, xó hội và lịch sử. Điều kiện tự nhiên về nhiệt độ ẩm, độ rừng già rậm rạp, thú dữ, thêm vào đó nền nông nghiệp lúa rẫy là những yếu tố tác động rất sâu đậm đến đời sống vật chất văn hoá tinh thần của đồng bào DTTS. Theo đó, hỡnh thành tính cách, tâm lý của đồng bào DTTS. Đó là: Giản dị, chân thành, chất phát trong cuộc sống; hay sợ hói, dễ tin tưởng, hay mặc cảm tự ty, khiêm tốn trong ứng xử; nặng nghĩa tỡnh trong quan hệ người - người, tính đoàn kết cộng đồng cao; cần cù chịu đựng, chịu khó, cẩn thận và chậm chạp. Nhưng đó cũng chưa phải là yếu tố chủ yếu quyết định, yếu tố quyết định hơn cả là yếu tố xó hội và lịch sử đó chi phối nhiều nhất đến đặc điểm tâm lý, tính cách, bản sắc dân tộc của họ. Cộng đồng DTTS Bỡnh Phước cũng như các cộng đồng tộc người ở nơi khác, mỗi cộng đồng có thể hỡnh thành và duy trỡ sự tồn tại của mỡnh trong sự liờn kết các cá nhân trong cộng đồng một cách lâu dài trong lịch sử. Như ở cộng đồng của dân tộc S'tiêng, tính cộng đồng của họ rất cao, như là một nột tõm lý, tớnh cỏch đặc trưng của người DTTS bản địa. Trong quá trỡnh hỡnh thành những đặc điểm tâm lý, cấu tạo nên bản lĩnh, bản sắc của cộng đồng DTTS, lưu giữ được bản sắc văn hoá của dân tộc mỡnh thỡ vai trũ, vị trớ của cỏc già làng, kể cả trước và sau 1975 cho đến nay là rất to lớn. Trong chiến tranh, các già làng đó vận động bà con buôn sóc đứng lên đũi quyền dõn sinh, dõn chủ, tự do cơm áo, hoà bỡnh; đó bỏ nhiều công sức, của cải để vận động, động viên đồng bào mỡnh vào bộ đội đánh giặc cứu nước, chống bắt phu, bắt lính để bảo vệ buôn sóc núi rừng. Các già làng và đồng bào DTTS đó nhiệt tỡnh giỳp đỡ cán bộ, bộ đội, kịp thời thông báo tỡnh hỡnh của địch, nuôi dấu cán bộ, ủng hộ heo gà, lúa gạo, làm tốt công tác hậu phương, gió gạo nuụi quõn, chung sức vào sự nghiệp cách mạng của nước nhà, với tinh thần thà hy sinh tính mạng, của cải chứ nhất định không theo giặc, làm cái tay cái chân, con mắt để chúng hại buôn sóc, núi rừng tổ tiên. Các già làng đó thực hiện nhất quỏn khẩu hiệu "Một tấc khụng đi, một ly không rời". Từ sau ngày giải phóng đến nay, các già làng tiếp tục vận động bà con tích cực lao động sản xuất, phát triển kinh tế, định canh định cư, tách hộ lập vườn, xây dựng nhà cửa xoá bỏ dần nhà tạm tranh tre, vách nứa, xoá bỏ tập tục lạc hậu như thầy hùm, ma lai, ngải độc, để xây dựng nếp sống văn hoá mới. Các già làng ở Bỡnh Phước ngày nay vẫn luôn là người có vai trũ quan trọng trong việc giữ gỡn bản sắc văn hoá truyền thống quý báu của dân tộc mỡnh, sỏt cỏnh với đồn
Tài liệu liên quan