Với tư cách là một hỡnh thỏi ý thức xó hội và là một hiện tượng xó hội, tụn giáo ra 
đời và biến đổi như thế nào là do tồn tại xó hội quy  định. Nhưng với tính độc lập tương 
đối của mỡnh, tụn giỏo tác  động trở lại tồn tại xó hội khá mạnh mẽ, với cả tích cực và 
tiêu cực. Theo  đó, vị trí, vai trũ của mỗi tụn giỏo ở từng khu vực, từng quốc gia và các 
thời kỳ lịch sử khác nhau cũng không như nhau. Lịch sử phương Tây từng có thời kỳ 
thần quyền chi phối thế quyền, giáo hội  đứng trên nhà nước, tôn giáo thống trị toàn bộ 
đời sống xó hội, chi phối cả phần hồn lẫn phần xỏc của con người; thậm chí, đó gõy ra 
những cuộc chiến tranh tụn giỏo  đẫm máu ở thời Trung cổ qua các cuộc Thập tự chinh 
kéo dài hàng trăm năm. Song cũng có nhiều quốc gia, dân tộc  được hưng khởi do có sự 
đóng góp đáng kể từ phương diện tích cực của tôn giáo, như Việt Nam, Trung Hoa trong 
lịch sử và Hàn Quốc đương đại.
Chớnh vỡ thế, dưới mọi thời đại, dù các quốc gia có thể chế chính trị như thế nào, 
nhỡn chung đều có chính sách, pháp luật thích hợp  để  điều chỉnh hoạt  động của tôn giáo 
nhằm duy trỡ sự ổn  định xó hội;  để tôn giáo tác động  đến các lĩnh vực của  đời sống xó 
hội theo hướng đồng thuận, mà trước hết, là đảm bảo lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Việt Nam là một quốc gia  đa sắc tộc và tôn giáo. Chưa kể vài chục triệu người 
khác vẫn giữ gỡn tớn ngưỡng truyền thống thờ cúng  tổ tiên và tín ngưỡng dân gian, chỉ 
tính riêng 6 tôn giáo lớn, nước ta đó cú gần 1/3 dõn số sinh hoạt tôn giáo thường xuyên. 
Vỡ thế, Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng công tác tôn giáo theo hướng vừa đảm bảo nhu 
cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân vừa kịp  thời đấu tranh với các thế lực thù địch lợi 
dụng tôn giáo chống phá cách mạng.  Để  đảm bảo hiệu quả của công tác tôn giáo của hệ 
thống chính trị thời kỳ  đẩy mạnh và xây dựng nhà nước pháp quyền, thỡ việc nõng cao 
hiệu lực cụng tỏc quản lý nhà nước về tôn giáo là vấn  đề hết sức cấp bách. Vỡ thế, trong 
thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đó từng bước hoàn thiện chính sách và pháp luật về tôn 
giáo; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo nhằm thực hiện tốt 
chính sách đoàn k ết lương giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 100 trang
100 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2979 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Bình Phước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Quản lý nhà nước đối với hoạt động 
tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số 
tỉnh bình phước 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Với tư cách là một hỡnh thỏi ý thức xó hội và là một hiện tượng xó hội, tụn giáo ra 
đời và biến đổi như thế nào là do tồn tại xó hội quy định. Nhưng với tính độc lập tương 
đối của mỡnh, tụn giỏo tác động trở lại tồn tại xó hội khá mạnh mẽ, với cả tích cực và 
tiêu cực. Theo đó, vị trí, vai trũ của mỗi tụn giỏo ở từng khu vực, từng quốc gia và các 
thời kỳ lịch sử khác nhau cũng không như nhau. Lịch sử phương Tây từng có thời kỳ 
thần quyền chi phối thế quyền, giáo hội đứng trên nhà nước, tôn giáo thống trị toàn bộ 
đời sống xó hội, chi phối cả phần hồn lẫn phần xỏc của con người; thậm chí, đó gõy ra 
những cuộc chiến tranh tụn giỏo đẫm máu ở thời Trung cổ qua các cuộc Thập tự chinh 
kéo dài hàng trăm năm. Song cũng có nhiều quốc gia, dân tộc được hưng khởi do có sự 
đóng góp đáng kể từ phương diện tích cực của tôn giáo, như Việt Nam, Trung Hoa trong 
lịch sử và Hàn Quốc đương đại. 
Chớnh vỡ thế, dưới mọi thời đại, dù các quốc gia có thể chế chính trị như thế nào, 
nhỡn chung đều có chính sách, pháp luật thích hợp để điều chỉnh hoạt động của tôn giáo 
nhằm duy trỡ sự ổn định xó hội; để tôn giáo tác động đến các lĩnh vực của đời sống xó 
hội theo hướng đồng thuận, mà trước hết, là đảm bảo lợi ích của giai cấp cầm quyền. 
Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc và tôn giáo. Chưa kể vài chục triệu người 
khác vẫn giữ gỡn tớn ngưỡng truyền thống thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng dân gian, chỉ 
tính riêng 6 tôn giáo lớn, nước ta đó cú gần 1/3 dõn số sinh hoạt tôn giáo thường xuyên. 
Vỡ thế, Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng công tác tôn giáo theo hướng vừa đảm bảo nhu 
cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân vừa kịp thời đấu tranh với các thế lực thù địch lợi 
dụng tôn giáo chống phá cách mạng. Để đảm bảo hiệu quả của công tác tôn giáo của hệ 
thống chính trị thời kỳ đẩy mạnh và xây dựng nhà nước pháp quyền, thỡ việc nõng cao 
hiệu lực cụng tỏc quản lý nhà nước về tôn giáo là vấn đề hết sức cấp bách. Vỡ thế, trong 
thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đó từng bước hoàn thiện chính sách và pháp luật về tôn 
giáo; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo nhằm thực hiện tốt 
chính sách đoàn kết lương giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. 
Hiện nay, ở các vùng DTTS của nước ta cũn tồn tại nhiều vấn đề lịch sử chính trị 
phức tạp và các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng, kích động lôi kéo đồng bào tạo ra 
những hoạt động chống đối nhà nước. Như vùng dân tộc Hmông, chúng kích động thành 
lập nhà nước tự trị; với dân tộc Chăm, là việc đũi phục quốc Chăm Pa; vùng dân tộc 
Khmer Nam Bộ, âm mưu thành lập nhà nước Khmer-Crôm; ở vùng dân tộc Tây Nguyên, 
chúng kích động đũi thành lập nhà nước Đêga độc lập. Như vậy, khác với vấn đề tôn giáo 
ở vùng đồng bào dân tộc đa số, ở các vùng đồng bào DTTS, vấn đề dân tộc và tôn giáo 
luôn gắn bó chặt chẽ với nhau và đây là một đặc điểm lớn đũi hỏi chủ thể quản lý xó hội 
cần có sự quan tâm thường xuyên. 
Bỡnh Phước là một tỉnh miền núi phía Nam Việt Nam, có 41 dân tộc (tộc người) 
sinh sống, trong đó, người DTTS có 28.133 hộ, với 140.105 khẩu, chiếm gần 20% dân số 
của tỉnh. Tín đồ các tôn giáo trên địa bàn tỉnh có 225.298 người, chiếm gần 30% dân số 
của tỉnh. Trong đó, tín đồ là người DTTS có 74. 916 người, chiếm hơn một nửa dân số 
các DTTS. Trong những năm qua, tỡnh hỡnh tụn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh 
Phước diễn ra khá phức tạp. Các tổ chức tôn giáo đẩy mạnh phát triển tín đồ, đặc biệt là 
đạo Tin lành phục hồi và phát triển nhanh tới mức khụng bỡnh thường. Trên địa bàn 
DTTS tỉnh Bỡnh Phước, hoạt động lợi dụng tôn giáo đó và đang diễn ra, tuy chưa gây 
nên những hậu quả nghiêm trọng như ở mấy tỉnh Tây Nguyên bên cạnh, nhưng vẫn cần 
phải được quan tâm từ cả phương diện tỡnh thế và chiến lược. 
Công tác QLNN về tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS ở Bỡnh Phước trong những 
năm qua đó cú nhiều chuyển biến tớch cực. Bộ mỏy làm cụng tỏc tụn giỏo ở cơ sở được 
kiện toàn một bước, gúp phần nõng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo. Thể chế 
hoá chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, lónh đạo tỉnh đó đề ra các 
giải pháp đúng đắn, đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ là người DTTS, góp 
phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xó hội, đấu tranh có hiệu quả đối với các 
hiện tượng vi phạm pháp luật trong hoạt động tôn giáo. Công tác nắm đối tượng, tranh 
thủ giáo sỹ, chống địch lợi dụng tôn giáo được các ngành chức năng thường xuyên quan 
tâm và đó gúp phần đưa giáo hội đi theo chiều hướng hợp tác, tuân thủ pháp luật, củng cố 
lũng tin của tớn đồ, chức sắc tôn giáo đối với Đảng và Nhà nước. 
Tuy nhiên, công tác QLNN đối với các hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS 
trên địa bàn cũng cũn những hạn chế, yếu kém. Đó là việc chậm cụ thể hoá một số chủ 
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đối với tôn giáo. Việc thực hiện chính 
sách tôn giáo cũn thiếu đồng bộ, có hiện tượng né tránh, đùn đẩy cho cấp trên hoặc cơ quan 
khác. Cán bộ làm công tác tôn giáo của tỉnh nói chung và trong vùng đồng bào DTTS nói 
riêng trong khi vẫn có thái độ hẹp hũi, định kiến với tôn giáo, thỡ lại cú biểu hiện buông lỏng 
quản lý, thiếu chủ động trong ngăn ngừa những vi phạm pháp luật của các tôn giáo. Rồi nữa, 
việc xác định nội dung QLNN đối với tôn giáo trong vùng đồng bào DTTS chưa rừ ràng. 
Đặc biệt, đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở vùng DTTS ở Bỡnh Phước vẫn cũn yếu 
kộm, cả về chuyờn mụn nghiệp vụ và kinh nghiệm công tác, đó là chưa kể số lượng cũn 
thiếu, chưa thật sự yên tâm với công tác này. 
Vậy, để đáp ứng những vấn đề cấp bách đó nhằm nâng cao hiệu lực QLNN về tôn 
giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước hiện nay, người viết chọn đề tài: Quản lý 
nhà nước về tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Bỡnh Phước. 
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài 
Từ khi có Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị, 10/1990, việc nghiên cứu vấn đề tôn 
giáo, chủ trương, chính sách đối với tôn giáo ngày càng được nhiều nhà lý luận và quản 
lý quan tõm. Như: Tôn giáo tín ngưỡng hiện nay-mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp 
thiết của Trung tâm Thông tin-Tư liệu, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 
1995; Đề tài cấp bộ thực trạng tỡnh hỡnh phục hồi, phỏt triển đạo Tin lành ở các vùng 
dân tộc thiểu số nước ta và những vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh, Tiến sỹ Nông 
Văn Lưu chủ nhiệm, năm 1995; “Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở 
rộng giao lưu quốc tế và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xó hội 
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, chủ nhiệm Tiến sỹ Ngô Hữu Thảo, năm 1998; Đổi mới 
quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam, của 
Trần Minh Thư, năm 1999; Đề tài cấp bộ Sự phát triển của đạo Tin lành trong vùng đồng 
bào dân tộc ít người ở một số tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, Tiến sỹ Nguyễn 
Đức Lữ, chủ nhiệm, năm 2000; Chuyên đề Đạo Tin lành ở Việt Nam-Thực trạng và xu 
hướng phát triển, của Nguyễn Thanh Xuân, Ban Tôn giáo Chính phủ; Đề tài cấp bộ Về 
tỡnh hỡnh phỏt triển đạo Tin lành ở miền núi phía Bắc-Trường Sơn-Tây Nguyên, của 
Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn, năm 2000; … 
Những cụng trỡnh đó đó phõn tớch, khái quát những vấn đề thực tiễn, bài học kinh 
nghiệm và có giỏ trị lý luận sõu sắc. Nhưng, trên lĩnh vực QLNN đối với tôn giáo, cỏc 
cụng trỡnh này mới dừng lại ở tầm vĩ mô, mà chưa đề cập tới vấn đề QLNN về tôn giáo ở 
vùng DTTS tỉnh Bỡnh Phước. Song, đây là những tài liệu quý giỏ để tác giả kế thừa và 
vận dụng trong triển khai đề tài. 
Ở Bỡnh Phước, có một cụng trỡnh nghiờn cứu về tụn giỏo và cụng tỏc tụn giỏo, 
đó là Đề án đối với Đạo Tin lành tỉnh Bỡnh Phước, năm 2002, của Ban Dân tộc và Tôn 
giáo tỉnh. Cụng trỡnh này đi sâu nghiên cứu về đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh, từ đó đưa 
ra một số giải phỏp quản lý, nhưng thực trạng QLNN đối với tôn giáo và vấn đề đặt ra 
trong vùng đồng bào DTTS chưa được làm rừ. Do đó, triển khai đề tài này như là sự bổ 
sung cho việc nghiên cứu đó. 
3. Mục đích và nhiệm vụ 
3.1. Mục đích 
Trên cơ sở làm rừ thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng 
đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước những năm vừa qua, luận văn đề xuất phương hướng và 
giải phỏp nhằm nõng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở vùng đồng 
bào DTTS trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới. 
3.2. Nhiệm vụ 
 Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: 
- Làm rừ những đặc điểm tỡnh hỡnh dõn tộc và tụn giỏo ở Bỡnh Phước. 
- Phõn tớch thực trạng cụng tỏc quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở vùng đồng bào 
DTTS tỉnh Bỡnh Phước, từ đó khái quát một số vấn đề đang đặt ra đối với công tác này. 
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà 
nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước trong tỡnh 
hỡnh mới. 
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 
Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng đồng 
bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước từ khi tái lập tỉnh (1997) đến nay. 
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng 
Hồ Chí Minh về tôn giáo; quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về 
tôn giáo và QLNN về tôn giáo. Luận văn cũng xuất phát từ chủ trương của UBND tỉnh 
Bỡnh Phước đối với tôn giáo và công tác tôn giáo trong vùng đồng bào DTTS. 
Thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng những nguyên tắc phương pháp luận của 
CNDVBC và CNDVLS; đồng thời sử dụng tổng hợp những phương pháp khoa học cụ 
thể, như phương pháp logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh, đối chiếu cùng 
phương pháp của xó hội học. 
6. Đóng góp của luận văn 
- Khái quát một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong công tác QLNN đối với tôn 
giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước. 
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả 
QLNN đối với tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước hiện nay và sắp tới. 
7. í nghĩa thực tiễn của đề tài 
- Luận văn là một cơ sở tham khảo để xây dựng, bổ sung chủ trương đối với tôn 
giáo và công tác tôn giáo nhằm đảm bảo tốt hơn công tác quản lý nhà nước về tôn giáo 
vùng đồng bào DTTS của Bỡnh Phước. 
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy trong trường Chính trị tỉnh 
Bỡnh Phước 
8. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu 
gồm 3 chương, 9 tiết. 
Chương 1 
ĐẶC ĐIỂM TèNH HèNH DÂN TỘC, TễN GIÁO 
TỈNH BèNH PHƯỚC 
1.1. TèNH HèNH DÂN TỘC TỈNH BèNH PHƯỚC 
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xó hội 
- Đặc điểm tự nhiên 
Bỡnh Phước là tỉnh được tái lập từ năm 1997, là tỉnh miền núi có 240 km đường 
biên giới với Campuchia là vùng đất cuối cùng của dói Trường sơn, nối liền Nam Tây 
nguyên với vùng gũ đồi của Đông Nam bộ. Bỡnh Phước có diện tích tự nhiờn 
6.853,93km2, phớa Nam giỏp tỉnh Bỡnh Dương, phía Bắc giáp tỉnh Đăk Nông, phía 
Đông giáp tỉnh Lâm Đồng - Đồng Nai và phía Tây giáp Campuchia. Số dân toàn tỉnh 
hiện có 749.377 người, trong đó người DTTS có 140.105 người, chiếm gần 20% dân số 
toàn tỉnh, đông nhất là người dân tộc bản địa S'tiêng, 68.737 người, chiếm 9,17%; dân tộc 
Khmer 13.393 người, chiếm 1,78%; người Mơnông 7.898 người, chiếm 1,05%; người 
Tày 17.769 người, chiếm 2,37%; người Nùng 17. 612 người, chiếm 2,35% [19, tr.12]… 
Trước đây trên vùng đất Bỡnh Phước chủ yếu là người S'tiêng, người Khmer, người 
Mơnông, nhưng nay có thêm nhiều dân tộc khác, đặc biệt là các dân tộc thiểu số miền núi 
phía Bắc Việt Nam di dân tự do hết sức mạnh mẽ trong những năm gần đây. Các DTTS 
sống đan xen với nhau và với người Kinh trên tất cả các huyện, thị của tỉnh. Cũng có một 
số dân tộc chỉ sống tập trung ở một số huyện, như: người S'tiêng sống ở Phước Long, 
Bỡnh Long, Bự Đăng, Lộc Ninh; người Nùng tập trung ở Đồng Phú, Bù Đăng và người 
Kh'mer ở Lộc Ninh, Đồng Xoài, Chơn Thành . . . 
- Đặc điểm kinh tế 
 Trong lịch sử, vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước tồn tại lâu đời một hỡnh 
thức kinh tế, đó là canh tác lúa rẫy trong vùng rừng già nhiệt đới. Đây là nền kinh tế nông 
nghiệp sản xuất tự cấp, tự túc chủ yếu dựa vào phương thức quảng canh trên rẫy, trỡnh độ 
kỹ thuật thô sơ, tổ chức lao động tập thể giản đơn theo tập quán cổ truyền. 
Những năm qua, với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thông qua các 
chương trỡnh dự ỏn như Chương trỡnh 134, 135…về việc hỗ trợ đồng bào DTTS điện, 
đường, trường, trạm, nhà ở, đất sản xuất, cây con giống…nên đời sồng đồng bào DTTS 
đó được cải thiện, từng bước được nâng cao. Số hộ giàu đó tăng lên và ngày càng có 
nhiều mụ hỡnh nụng dõn là người DTTS làm kinh tế giỏi, có mức thu nhập trên dưới 100 
triệu đồng/hộ/năm. Việc thực hiện Chương trỡnh 134 về hỗ trợ đất sản xuất, nhà ở, cụng 
trỡnh nước sạch cho đồng bào DTTS được lónh đạo tỉnh quan tâm, tạo điều kiện để họ ổn 
định cuộc sống, an tâm sản xuất. Đến nay, chương trỡnh đất ở, cụng trỡnh nước sạch sinh 
hoạt cho đồng bào DTTS cơ bản đó hoàn thành. Riêng việc hỗ trợ đất sản xuất đạt tỷ lệ 
88,9% so với đề án phờ duyệt. Tỡnh hỡnh thực hiện Chương trỡnh 135, Chương trỡnh 
168, chính sách trợ cước, trợ giá, định canh - định cư theo Quyết định 33/2007/QĐ – TTg 
và Quyết định 32/2007/QĐ - TTg được toàn tỉnh tiếp tục chỉ đạo thực hiện. Ngày 
10/10/2008, UBND tỉnh ban hành thêm Quyết định về thực hiện chính sách hỗ trợ di dân 
thực hiện định canh - định cư cho đồng bào DTTS giai đoạn 2007 – 2008 trên địa bàn 
tỉnh. Mỗi khu định canh - định cư cũng được quy định cụ thể về điện sinh hoạt, đường 
giao thông nông thôn, trường học…ngoài ra, mỗi cụm cũn được hỗ trợ khoa học kỹ thuật 
tương đương 30 triệu đồng/năm. Nhân dịp tết của đồng bào DTTS các cấp uỷ Đảng, 
chính quyền, MTTQ và các đoàn thể tổ chức đàn đi thăm, chúc tết và tặng quà cho bà con 
dân tộc nghèo có đạo không có điều kiện đón tết. 
Tuy nhiên, vẫn cũn những vấn đề đáng quan tâm, đó là do chưa hiểu đúng chủ 
trương của tỉnh, bị kẻ xấu lợi dụng xúi dục, một số bà con đó tụ tập đông người đi khiếu 
kiện tập thể vượt cấp, làm ảnh hưởng xấu đến tỡnh hỡnh an ninh chớnh trị, trật tự an toàn 
xó hội ở một số địa phương, như: xó Nghĩa Trung, huyện Bự Đăng; xó Đồng Tiến, huyện 
Đồng Phỳ; xó Phước Tiến và Hưng Phước, huyện Bù Đốp. Một bộ phận đồng bào DTTS 
trỡnh độ dõn trớ cũn thấp, đời sống kinh tế cũn khú khăn, thu nhập chưa cao, chưa ổn 
định. Tỡnh trạng di dõn tự do của đồng bào DTTS các tỉnh phía Bắc đến không có đất 
sản xuất gây khó khăn cho chính quyền trong việc thực hiện giải pháp xoá đói, giảm 
nghèo và bảo đảm trật tự an toàn xó hội 
- Đặc điểm văn hoá, giáo dục 
 Cỏc DTTS ở Bỡnh Phước tuy cũn lạc hậu về kinh tế, song họ có kho tàng văn hoá 
dân gian phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. 
 Văn hoá ăn, ở, mặc, văn hoá ứng xử trong giao tiếp cộng đồng, văn hoá nếp sống 
và lối sống cộng đồng của các DTTS ở Bỡnh Phước chứa đựng những luật tục cổ truyền 
mang tính cách rất riêng biệt của từng dân tộc. Văn hoá dân gian cũng rất phong phú, đặc 
biệt các hỡnh thức lễ hội phản ánh rất tổng hợp đời sống văn hoá và tín ngưỡng của từng 
dân tộc, như lễ hội đâm trâu, lễ cúng lúa…. Bên cạnh những giá trị đặc sắc trong văn hoá 
tín ngưỡng, các DTTS ở Bỡnh Phước cũn tồn tại những hủ tục lạc hậu, mờ tớn dị đoan 
rất điển hỡnh, như thầy Hùm, Ma lai, Ngói độc…. 
Về tín ngưỡng, đồng bào DTTS hầu hết thờ đa thần, tin vào sức mạnh hữu hỡnh 
và vụ hỡnh. Ngoài mối quan hệ với mụi trường tự nhiên và môi trường xó hội, con người 
cũn cú mối quan hệ với thế giới đó khuất, với thế giới siờu nhiờn. Mối quan hệ này thể 
hiện qua những sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo, như là sự đúc kết các mối quan hệ của con 
người với hiện thực khách quan của họ. Chính những điều kiện tự nhiên và xó hội của họ 
là cơ sở để hỡnh thành nờn cỏc tớn ngưỡng sơ khai, khi mà cuộc sống của họ rất gần gũi 
với vạn vật tự nhiên. Họ thường xuyên, trực tiếp đối mặt với tự nhiên, đời sống luụn lệ 
thuộc vào tự nhiờn, thỡ thiờn nhiờn chính là đối tượng nhận thức chính và mối quan hệ 
giữa con người với tự nhiên được coi là mối quan hệ chính yếu, chi phối ảnh hưởng đến 
mọi quan hệ xó hội khỏc. Từ xa xưa đồng bào DTTS đó biết thuần hoỏ cỏc loại thực, 
động vật khác nhau, từ đó càng làm cho cuộc sống thêm gắn bó, gần gũi với vạn vật của 
tự nhiên. Chớnh vỡ thế, các tín ngưỡng nguyên thủy trong đồng bào hầu như vẫn giữ 
được nét cổ sơ như nó đó nảy sinh, như tục mừng lúa mới, tục cầu mưa, tục cầu 
nắng…Trước đây, có quan điểm cho rằng tôn giáo hay rộng hơn là đời sống tín ngưỡng, 
tâm linh là một lĩnh vực không liên quan gỡ đến văn hoá. Nhưng giờ đây quan niệm đó 
đó được thay đổi, bởi vỡ văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con 
người sáng tạo nên. Từ những hoạt động sáng tạo của người dân đến sức sống của cả một 
xó hội, những phương thức sản xuất, những hỡnh thức tổ chức lao động, ước mơ và khát 
vọng…luôn cho thấy tôn giáo luôn gắn chặt với văn hoá. Đối với đồng bào DTTS, do 
điều kiện tự nhiên chi phối, tín ngưỡng và tâm linh lại càng gắn bó mật thiết với văn hoá. 
Bởi vậy khi nghiên cứu văn hoá của mỗi dân tộc, nếu thiếu yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo 
thỡ không thể có kết quả khoa học đúng nghĩa. 
 Về tâm lý của các DTTS, thường có sự quyết định của ba yếu tố, là tự nhiờn, xó 
hội và lịch sử. Điều kiện tự nhiên về nhiệt độ ẩm, độ rừng già rậm rạp, thú dữ, thêm vào 
đó nền nông nghiệp lúa rẫy là những yếu tố tác động rất sâu đậm đến đời sống vật chất 
văn hoá tinh thần của đồng bào DTTS. Theo đó, hỡnh thành tính cách, tâm lý của đồng 
bào DTTS. Đó là: Giản dị, chân thành, chất phát trong cuộc sống; hay sợ hói, dễ tin 
tưởng, hay mặc cảm tự ty, khiêm tốn trong ứng xử; nặng nghĩa tỡnh trong quan hệ người 
- người, tính đoàn kết cộng đồng cao; cần cù chịu đựng, chịu khó, cẩn thận và chậm chạp. 
Nhưng đó cũng chưa phải là yếu tố chủ yếu quyết định, yếu tố quyết định hơn cả là yếu 
tố xó hội và lịch sử đó chi phối nhiều nhất đến đặc điểm tâm lý, tính cách, bản sắc dân 
tộc của họ. Cộng đồng DTTS Bỡnh Phước cũng như các cộng đồng tộc người ở nơi khác, 
mỗi cộng đồng có thể hỡnh thành và duy trỡ sự tồn tại của mỡnh trong sự liờn kết các cá 
nhân trong cộng đồng một cách lâu dài trong lịch sử. Như ở cộng đồng của dân tộc 
S'tiêng, tính cộng đồng của họ rất cao, như là một nột tõm lý, tớnh cỏch đặc trưng của 
người DTTS bản địa. Trong quá trỡnh hỡnh thành những đặc điểm tâm lý, cấu tạo nên 
bản lĩnh, bản sắc của cộng đồng DTTS, lưu giữ được bản sắc văn hoá của dân tộc mỡnh 
thỡ vai trũ, vị trớ của cỏc già làng, kể cả trước và sau 1975 cho đến nay là rất to lớn. 
Trong chiến tranh, các già làng đó vận động bà con buôn sóc đứng lên đũi quyền 
dõn sinh, dõn chủ, tự do cơm áo, hoà bỡnh; đó bỏ nhiều công sức, của cải để vận động, 
động viên đồng bào mỡnh vào bộ đội đánh giặc cứu nước, chống bắt phu, bắt lính để bảo 
vệ buôn sóc núi rừng. Các già làng và đồng bào DTTS đó nhiệt tỡnh giỳp đỡ cán bộ, bộ 
đội, kịp thời thông báo tỡnh hỡnh của địch, nuôi dấu cán bộ, ủng hộ heo gà, lúa gạo, làm 
tốt công tác hậu phương, gió gạo nuụi quõn, chung sức vào sự nghiệp cách mạng của 
nước nhà, với tinh thần thà hy sinh tính mạng, của cải chứ nhất định không theo giặc, làm 
cái tay cái chân, con mắt để chúng hại buôn sóc, núi rừng tổ tiên. Các già làng đó thực 
hiện nhất quỏn khẩu hiệu "Một tấc khụng đi, một ly không rời". 
Từ sau ngày giải phóng đến nay, các già làng tiếp tục vận động bà con tích cực lao 
động sản xuất, phát triển kinh tế, định canh định cư, tách hộ lập vườn, xây dựng nhà cửa 
xoá bỏ dần nhà tạm tranh tre, vách nứa, xoá bỏ tập tục lạc hậu như thầy hùm, ma lai, ngải 
độc, để xây dựng nếp sống văn hoá mới. Các già làng ở Bỡnh Phước ngày nay vẫn luôn 
là người có vai trũ quan trọng trong việc giữ gỡn bản sắc văn hoá truyền thống quý báu 
của dân tộc mỡnh, sỏt cỏnh với đồn