Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) là một xu thế chung
của nền kinh tế thế giới và là nhu cầu phát triển kinh tế của các quốc gia, nhất là trong
thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay. Đảng và Nhà nước CHDCND Lào đã coi thành phần kinh
tế có vốn ĐTNN ở Lào là bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Kể từ khi có Quyết định của Uỷ ban quản lý đầu tư hợp tác với nước ngoài về Quy chế
xin cấp phép cho dự án đầu tư nước ngoài tại Lào (27-02-2002) và Luật khuyến khích
đầu tư nước ngoài lần đầu tiên (22/10/2004), hoạt động ĐTNN ở Lào nói chung và ở
tỉnh ắt-ta-pư nói riêng đã thu được những kết quả quan trọng, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Cũng kể từ khi đó, công tác
quản lý nhà nước (QLNN) về ĐTNN đã có những chuyển biến tích cực và có nhiều tiến
bộ và ngày càng được xem như một trong những điều kiện cần thiết và là yếu tố quan
trọng để phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Những năm vừa qua, nhiều chương trình, dự án đầu tư nước ngoài tại Lào đã góp
phần vào quá trình tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, nâng
cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, củng cố sức mạnh an ninh quốc phòng, tạo việc làm, tăng thu
nhập và cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân v.v. Song so với yêu
cầu thì hoạt động trong hoạt động ĐTNN chưa đồng đều, chưa thật sự khai thác hết tiềm
năng và chưa đảm bảo đúng theo quy hoạch của Nhà nước Lào. Mặt khác, tác động của
ĐTNN chưa phải đã tạo ra sự tăng trưởng ổn định và vững chắc cho nền kinh tế. Vì vậy,
trước những chuyển biến mau lẹ của kinh tế thế giới và khu vực, trước thực tế những hạn
chế, bất cập của QLNN về ĐTNN đang đặt ra yêu cầu mới đòi hỏi cần phải có sự luận
giải phương hướng và những biện pháp hữu hiệu của QLNN trong ĐTNN. Những biện
pháp này phải đảm bảo khai thác sự giúp đỡ từ bên ngoài nhiều hơn và có hiệu quả hơn
góp phần nhanh chóng đưa Lào thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng thành
công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
107 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2060 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh ắt-Ta-pư, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
trên địa bàn tỉnh ắt-ta-pư, nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) là một xu thế chung
của nền kinh tế thế giới và là nhu cầu phát triển kinh tế của các quốc gia, nhất là trong
thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay. Đảng và Nhà nước CHDCND Lào đã coi thành phần kinh
tế có vốn ĐTNN ở Lào là bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Kể từ khi có Quyết định của Uỷ ban quản lý đầu tư hợp tác với nước ngoài về Quy chế
xin cấp phép cho dự án đầu tư nước ngoài tại Lào (27-02-2002) và Luật khuyến khích
đầu tư nước ngoài lần đầu tiên (22/10/2004), hoạt động ĐTNN ở Lào nói chung và ở
tỉnh ắt-ta-pư nói riêng đã thu được những kết quả quan trọng, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Cũng kể từ khi đó, công tác
quản lý nhà nước (QLNN) về ĐTNN đã có những chuyển biến tích cực và có nhiều tiến
bộ và ngày càng được xem như một trong những điều kiện cần thiết và là yếu tố quan
trọng để phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Những năm vừa qua, nhiều chương trình, dự án đầu tư nước ngoài tại Lào đã góp
phần vào quá trình tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, nâng
cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, củng cố sức mạnh an ninh quốc phòng, tạo việc làm, tăng thu
nhập và cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân v.v. Song so với yêu
cầu thì hoạt động trong hoạt động ĐTNN chưa đồng đều, chưa thật sự khai thác hết tiềm
năng và chưa đảm bảo đúng theo quy hoạch của Nhà nước Lào. Mặt khác, tác động của
ĐTNN chưa phải đã tạo ra sự tăng trưởng ổn định và vững chắc cho nền kinh tế. Vì vậy,
trước những chuyển biến mau lẹ của kinh tế thế giới và khu vực, trước thực tế những hạn
chế, bất cập của QLNN về ĐTNN đang đặt ra yêu cầu mới đòi hỏi cần phải có sự luận
giải phương hướng và những biện pháp hữu hiệu của QLNN trong ĐTNN. Những biện
pháp này phải đảm bảo khai thác sự giúp đỡ từ bên ngoài nhiều hơn và có hiệu quả hơn
góp phần nhanh chóng đưa Lào thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng thành
công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thu hút và quản lý sử dụng tốt các nguồn đầu tư tự nó chưa phải là giải pháp duy
nhất quyết định sự phát triển nền kinh tế, nó cần phải được đặt trong tổng thể các mối
quan hệ giữa bên trong với bên ngoài, giữa việc phát triển các nguồn lực trong nước, với
chính sách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đúng đắn. Lào có nguồn tài nguyên đa
dạng và tương đối phong phú, đội ngũ lao động dồi dào... Song tất cả đang còn ở dạng
tiềm năng và chưa được khai thác có hiệu quả. Trong điều kiện thiếu gay gắt về vốn,
công nghệ - kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, kinh nghiệm QLNN trong hoạt
động thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư nói chung, ĐTNN nói riêng có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Chính vì vậy, vấn đề " Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
trên địa bàn tỉnh Ắt-ta-pư,nước CHDCND Lào hiện nay " được chọn làm đề tài cho
luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Về từng vấn đề cụ thể như: " Thực trạng ĐTNN tại Lào và những vấn đề đang đặt ra";
"Tình hình ĐTNN tại Lào và các giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Lào ; v. v. đã được khá nhiều tác giả nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu này đã tập
trung đề cập về việc di chuyển vốn và chuyển giao công nghệ, về các chính sách và biện pháp
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), về vai trò của chính phủ và các thành phần kinh tế,
đồng thời phân tích khá tập trung về thực trạng hoạt động ĐTNN. Một số công trình đã đi sâu
vào nghiên cứu và đề xuất các giải pháp ở tầm vĩ mô nhằm tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi
hơn cho các nhà ĐTNN như bài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh tế
CHDCND Lào” (Bua-khăm Thíp-pha-vông, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội, 2001). Ngoài ra,
còn một số công trình khoa học khác nghiên cứu về những mảng khác nhau xung quanh hoạt
động ĐTNN. Cũng có một vài công trình nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề này nhưng chỉ
trong phạm vi ở một địa phương của Lào hoặc với đối tượng là các doanh nghiệp có vốn FDI.
Tuy nhiên, tất cả các công trình nghiên cứu trên chưa đề cập một cách chuyên sâu về QLNN
đối với các hoạt động ĐTNN vào phát triển nền kinh tế nói chung và vào một địa phương cụ
thể như tỉnh ắt-ta-pư ở Lào.
Với việc kế thừa có chọn lọc những thành tựu đã đạt được trong các công trình nói
trên, luận văn này đi sâu khảo sát, phân tích tương đối toàn diện hơn, cố gắng nêu một
cách tập trung về việc tăng cường QLNN về ĐTNN ở riêng một địa phương là tỉnh ắt-ta-
pư (CHDCND Lào) hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở hệ thống hóa và có đóng góp bổ sung nhằm làm sáng tỏ cơ
sở lý luận, kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam và một số địa phương khác của Lào về
QLNN về ĐTNN nói chung, phân tích làm rõ thực trạng ở địa bàn của một tỉnh của Lào
với những đánh giá kết quả, hạn chế và rút ra các nguyên nhân, từ đó đề ra các giải pháp
có tính khả thi về QLNN đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh ắt-ta-pư.
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Góp phần làm rõ quan điểm, chủ trương của Đảng NDCM Lào trong việc hoạch
định chính sách và những định hướng quản lý chủ yếu của Nhà nước Lào về ĐTNN
nhằm phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu mà Đảng NDCM Lào đã đặt ra.
- Phân tích thực trạng QLNN về hoạt động QLĐT ở tỉnh ắt-ta-pư kể từ khi có Luật
khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Lào đến nay.
- Đề xuất những giải pháp để hoàn thiện QLNN về ĐTNN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Về lĩnh vực ĐTNN có rất nhiều khía cạnh và nội dung khác nhau, song luận văn
chỉ tập trung nghiên cứu QLNN về ĐTNN ở địa bàn một tỉnh bao gồm một số nội dung
cơ bản như: cơ sở pháp lý, quy hoạch, chiến lược, chính sách, cơ chế phối hợp, phân cấp
trong bộ máy quản lý, cải cách và hoàn thiện các thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả
của công tác kiểm tra giám sát và quản lý hoạt động ĐTNN cả ở tầm vĩ mô và tầm vi mô
v.v.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Lĩnh vực ĐTNN là đối tượng quản lý của QLNN nhưng có nhiều hình thức ĐTNN
khác nhau, luận văn chỉ tập trung khảo cứu và lấy số liệu dẫn chứng chủ yếu về hoạt động
FDI là hình thức có vai trò lớn hơn cả đối với nền kinh tế của Lào và có tỷ trọng chiếm ưu
thế trong lĩnh vực ĐTNN nói chung.
Thời gian được phân tích chủ yếu là từ sau khi có Luật khuyến khích đầu tư nước
ngoài tại Lào (tháng 10-2004) đến nay và xét nó trong mối quan hệ với định hướng chiến
lược của Đảng NDCM Lào trong các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII và các
phương hướng, biện pháp sẽ tập trung vào những vấn đề cơ bản có tính khả thi trong điều
kiện đặc thù của Lào.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin, các quan điểm về đổi mới nền kinh tế Lào được thể hiện trong các văn kiện Đại
hội của Đảng NDCM Lào.
- Cùng với những phương pháp nghiên cứu nói chung, luận văn coi trọng sử dụng
phương pháp khảo sát, phân tích và tổng hợp - khái quát hoạt động thực tiễn thông qua
các số liệu chính thức được Nhà nước Lào công bố. Mặt khác, luận văn sẽ tham khảo
kinh nghiệm của Việt Nam và một số tỉnh khác của Lào về ĐTNN.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Với những kết quả mà luận văn đạt được, tác giả hy vọng qua công trình này góp
phần vào việc nhận thức về ĐTNN nói chung và của FDI nói riêng, ý nghĩa và vai trò của
QLNN về ĐTNN. Đồng thời, đề tài nghiên cứu đã góp phần đề xuất các hướng triển khai
và những nhóm giải pháp chủ yếu để hoàn thiện QLNN nhằm thu hút và sử dụng một
cách có hiệu quả nguồn vốn ĐTNN ở Lào hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 3 chương, 8 tiết, các phụ lục và danh
mục các tài liệu tham khảo.
Chương 1
cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
1.1. lý luận cơ bản về đầu tư nước ngoài
1.1.1. Khái niệm và bản chất của đầu tư nước ngoài
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) hay còn gọi là đầu tư quốc tế là hoạt động di chuyển
vốn từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kiếm lời.
Theo cuốn "Đại từ điển Tiếng Việt" thì "Đầu tư nước ngoài là việc xuất khẩu tư bản
của nước mình đem đầu tư ở nước ngoài để thu lợi bằng cách xây dựng xí nghiệp mới,
mở rộng xí nghiệp cũ ở nước ngoài hay mua chứng khoán của các công ty ở nước ngoài"
[47, tr. 610].
Các nhà kinh tế Trung Quốc định nghĩa rằng:
ĐTNN là người sở hữu tư bản nước này đầu tư vào nước khác. Có hai loại
ĐTNN là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Sự khác nhau cơ bản giữa hai loại
này là ở chỗ người đầu tư có quyền kiểm soát thực tế đối với xí nghiệp mà họ đầu
tư ở nước ngoài hay không [6, tr. 9].
Như vậy, ĐTNN là một tất yếu khách quan đối với cả phía đầu tư lẫn phía tiếp
nhận đầu tư. Phía đầu tư chủ yếu là các công ty đa quốc gia thuộc các nước phát triển
hoặc các nền kinh tế mới nổi. Do yêu cầu mở rộng kinh doanh và nâng cao khả năng
cạnh tranh, do sự chi phối của quy luật lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận giảm dần, nhằm
tận dụng những lợi thế vốn có của mình, các công ty đa quốc gia phải vươn tầm hoạt
động ra khắp thế giới. Họ trở thành nguồn cung cấp vốn chính cho nền kinh tế thế
giới. Về phía các nước đang phát triển, do thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng cũng
như tích luỹ còn ở mức thấp, phần lớn thu nhập được dùng để đảm bảo tiêu dùng ở
mức tối thiểu cần thiết, do đó phần dành cho tiết kiệm rất nhỏ. Nói cách khác là tỷ lệ
tiết kiệm trên GDP khá thấp, trong khi đó lại cần một khoản đầu tư tương đối lớn để
phát triển nền kinh tế. Mặt khác, ở các nước này, do công nghiệp chưa phát triển nên
hàng hoá xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô, nguyên liệu sơ chế hoặc những mặt
hàng có giá trị gia tăng thấp, trong khi đó hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị
có giá trị gia tăng cao. Vì vậy, cán cân thương mại có tình trạng nhập siêu lớn đồng
thời ngoại tệ cũng thiếu hụt nghiêm trọng.
Chính bởi những lý do trên nên việc du nhập tư bản (vốn) từ nước ngoài là điều cần
thiết. Vốn ĐTNN có thể dưới dạng tiền tệ, vật thể hữu hình, các hàng hoá vô hình hoặc
các phương tiện đầu tư đặc biệt khác như cổ phiếu, trái phiếu, các chứng khoán cổ phần
khác. Người bỏ vốn đầu tư được gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư. Theo Luật ĐTNN tại
Việt Nam:
Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất cứ tài sản nào được Chính phủ Việt
Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí
nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của Luật
này [40].
Trên cơ sở các khái niệm được nêu ở trên, có thể hiểu một cách khái quát về ĐTNN
như sau: Đầu tư nước ngoài là việc các nhà đầu tư ở nước ngoài sử dụng vốn, tài sản của
mình để tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở nước sở tại nhằm mục
đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Về bản chất, đây là
hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức phát triển cao hơn của xuất khẩu hàng hóa.
1.1.1.2. Bản chất của đầu tư nước ngoài
Theo quan niệm của V.I. Lênin, hoạt động ĐTNN là sự xuất khẩu "tư bản thừa", là
hoạt động kinh tế chịu tác động và chi phối của các quy luật kinh tế [27]. Người coi vấn
đề xuất khẩu tư bản như một đặc điểm kinh tế cơ bản của giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền và cho rằng xuất khẩu tư bản trở thành cần thiết đối với chủ nghĩa tư bản vì quá
trình tích tụ và tập trung tư bản là điều kiện quan trọng cho sự lớn lên của tư bản. "Tư
bản thừa" ở đây có tính chất tương đối, tức là thừa so với lợi nhuận thấp nếu phải đầu tư
trong nước, còn nếu đầu tư ra nước ngoài thì tỷ suất lợi nhuận sẽ cao hơn. Người nói:
"Nếu chủ nghĩa tư bản chú ý đến phát triển nông nghiệp, đến việc nâng cao mức sống của
nhân dân... thì không thể có hiện tượng "tư bản thừa".
Chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn còn là chủ nghĩa tư bản, thì số tư bản
thừa vẫn còn chuyên dùng không phải để nâng cao mức sống của quần chúng
trong một nước nhất định, vì như thế sẽ đi đến kết quả làm giảm bớt lợi nhuận
của bọn tư bản, mà là để tăng thêm lợi nhuận đó bằng cách xuất khẩu tư bản ra
nước ngoài, vào những nước lạc hậu [27, tr.356].
V.I.Lênin cũng đã phân tích hai hình thức xuất khẩu tư bản là: xuất khẩu tư bản cho
vay (là hình thức cho chính phủ hay tư nhân vay nhằm thu lợi tức) và xuất khẩu tư bản
hoạt động (là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới, hoặc mua lại
những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư để tiến hành sản xuất ra hàng hóa
nhằm mục đích thu lợi nhuận cao). Từ đó, Người cho rằng: xuất khẩu tư bản có tác dụng
tích cực và tiêu cực đối với cả nước xuất khẩu và nhập khẩu tư bản. Trong thời đại tư bản
tài chính thống trị, xuất khẩu tư bản trở thành công cụ bành trướng và thực hiện sự phân
chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền [28, tr. 231].
Cần lưu ý rằng, trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai, ĐTNN chủ yếu từ các nước
TBPT sang các nước kinh tế lạc hậu và thuộc địa, nhưng sau Chiến tranh thế giới thứ hai,
nhất là vào những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, khi mà cách mạng khoa
học và công nghệ phát triển như vũ bão, xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa nền kinh
tế... đang diễn ra mạnh mẽ thì luồng vận động của FDI đã có sự thay đổi. Sự đầu tư lẫn
nhau giữa các nước TBPT đã xuất hiện và ở cả những nước vừa là nơi cung cấp nguồn
vốn đầu tư ra nước ngoài, vừa là nơi tiếp nhận ĐTNN. FDI góp phần thúc đẩy nhanh quá
trình phân công lao động và quốc tế hóa đời sống kinh tế của nhiều nước; là một trong
những nhân tố quan trọng tác động từ bên ngoài vào làm cho quá trình CNH, HĐH ở các
nước nhận đầu tư phát triển nhanh chóng. Song cũng phải nhận thấy rằng FDI vẫn để lại
cho các quốc gia nhập khẩu tư bản, nhất là các nước đang phát triển, những hậu quả nặng
nề. Điều này tùy thuộc một phần rất lớn vào vai trò quản lý của nhà nước ở nước nhận
đầu tư.
FDI là hoạt động thị trường, đặc biệt là hoạt động thị trường quốc tế, mang đầy đủ tính
chất và quy luật thị trường. Do điều kiện cạnh tranh quốc tế, các nhà ĐTNN phải tính toán
kỹ khả năng, điều kiện thị trường để thu được lợi nhuận. Họ sẽ không đầu tư vào những dự
án mà hiệu quả kinh tế không rõ ràng.
Mặt khác, FDI là hoạt động của khu vực tư nhân, hơn nữa là hoạt động của tư nhân
nước ngoài có quyền sở hữu và quyền quản lý. Động cơ của nhà đầu tư tư nhân khác với
mục tiêu của nước tiếp nhận đầu tư. Xu hướng tự nhiên của các nhà đầu tư bao giờ cũng
coi lợi nhuận là mục tiêu duy nhất hàng đầu, trong khi đó, nước chủ nhà lại quan tâm
nhiều đến hiệu quả kinh tế xã hội, đến sự phát triển tổng thể nền kinh tế thị trường. FDI
phần lớn do các công ty xuyên quốc gia tiến hành. Các công ty này có lợi thế về uy tín,
nhãn hiệu, thị trường, công nghệ, khả năng tài chính... để đầu tư vào quốc gia khác.
Tóm lại, có thể khái quát bản chất của FDI là sự gặp gỡ nhau về nhu cầu và lợi ích
của một bên là nhà đầu tư và một bên là nước nhận đầu tư, là xuất khẩu tư bản từ nước
này sang nước khác mà nhà tư bản mong thu được nhiều lợi nhuận. Xuất khẩu tư bản
thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Nguyên tắc chủ đạo là nước có vốn xuất khẩu
sang nước thiếu vốn. ĐTNN là tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế thế giới.
1.1.2. Đặc điểm, vai trò và nguy cơ của đầu tư nước ngoài
1.1.2.1. Đặc điểm của đầu tư nước ngoài
ĐTNN có đặc điểm nổi bật thể hiện ở chỗ là vốn có nguồn gốc của nước ngoài (có
thể là của chính phủ các nước, của các tổ chức tài chính quốc tế, của các nhà đầu tư tư
nhân, ...) đưa vào một quốc gia nào đó nhằm mục đích sử dụng để đầu tư phát triển ở
quốc gia đó. ĐTNN là khoản vốn được sử dụng để đầu tư nhằm tăng tiềm lực cơ sở vật
chất kỹ thuật cho nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư (như tăng cơ sở hạ tầng, tăng
năng lực sản xuất kinh doanh, tăng năng lực trí tuệ cho nguồn nhân lực...) và là một bộ
phận quan trọng trong cơ cấu nguồn vốn để đầu tư phát triển. Chúng có khả năng to lớn
gắn với tăng cường công nghệ tiên tiến cho nước tiếp nhận đầu tư.
Sử dụng vốn đầu tư trong nước kết hợp với vốn nước ngoài là vấn đề chiến lược
trong phát triển kinh tế của các quốc gia trong thời đại ngày nay. Quy mô và cơ cấu
ĐTNN vào quốc gia tiếp nhận đầu tư phụ thuộc rất lớn vào đường lối phát triển, thể chế,
cơ chế, chính sách và các điều kiện khác về nền hành chính, về nguồn nhân lực, về điều
kiện kết cấu hạ tầng,... của quốc gia đó. Nói cách khác, nó phụ thuộc rất nhiều vào môi
trường đầu tư của quốc gia tiếp nhận đầu tư. Dó đó, ĐTNN là yếu tố rất nhạy cảm, mang
tính chính trị, tính kinh tế rất rõ.
1.1.2.2. Vai trò và nguy cơ của đầu tư nước ngoài
* Vai trò của đầu tư nước ngoài
Hoạt động ĐTNN nói chung chỉ có thể thành công khi có sự gặp gỡ về lợi ích của
cả hai bên, do đó, hoạt động ĐTNN có tác động to lớn đến sự phát triển kinh tế của cả
nước đi đầu tư lẫn nước chủ nhà tiếp nhận đầu tư. Đặc biệt hoạt động FDI có những ưu
việt hơn hẳn các hình thức kinh tế đối ngoại khác vì thường đem lại hiệu quả cao hơn so
với các nguồn vốn ĐTNN khác và trở thành động cơ cả cho cả hai bên, được thể hiện qua
một số điểm dưới đây:
- FDI cho phép khai thác tất cả các lợi thế của một đất nước trong hội nhập kinh tế
quốc tế và đưa chúng vào chu trình kinh tế thế giới thông qua việc mở rộng sản xuất quốc
tế.
- FDI là yếu tố quan trọng nhất để tạo ra sự bùng nổ xuất khẩu (cả về mặt lượng lẫn
mặt cơ cấu, đặc biệt chuyển biến cơ cấu xuất khẩu theo hướng CNH), FDI đóng vai trò quyết
định trong xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao.
- Thông qua hiệu ứng lan toả, FDI tạo ra sự liên kết bên trong và bên ngoài. FDI
còn là chất xúc tác để thu hút các nguồn vốn nước ngoài khác, đồng thời FDI đã bổ sung
nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn lực trong nước, tạo thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế.
Ngoài những vai trò nêu trên, đối với từng đối tượng, FDI lại có những vai trò riêng
như:
* Đối với nước đi đầu tư (nhà ĐTNN)
- Cho phép nhà ĐTNN tham gia điều hành quá trình sản xuất kinh doanh ở đơn vị
mà họ bỏ vốn đầu tư. Nhờ vậy, họ có thể đưa ra những quyết định kịp thời, nâng cao hiệu
quả sử dụng đồng vốn mà họ bỏ ra. ở những nơi có môi trường kinh doanh thuận lợi thì
các nhà đầu tư thường muốn bỏ vốn đầu tư dưới hình thức 100% vốn nước ngoài để được
toàn quyền quyết định trong quản lý, điều hành doanh nghiệp.
- Giúp cho các nhà ĐTNN dễ chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng như khai
thác nguyên liệu chủ yếu từ nước mà mình đầu tư vốn vào. Đây là cơ hội để các nhà đầu
tư mở rộng thị trường, tăng cường bành trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng
trên thế giới, thiết lập mạng lưới toàn cầu, nhất là các công ty đa quốc gia. Gắn liền với
điều đó là sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tế.
- Tận dụng khai thác được những lợi thế của nước tiếp nhận đầu tư để tối đa hoá lợi
nhuận trong sản xuất, kinh doanh, tối thiểu hoá chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian thu
hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cao nhờ các ưu đãi đối với FDI hoặc thông qua việc tận
dụng ưu thế đầu vào như nguồn tài nguyên, nhân công với giá rẻ, nguồn nguyên, nhiên
liệu ổn định,... nhất là ở các nước chậm phát triển và đang phát triển.
- Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ở các nước muốn sử dụng chính sách này để
bảo hộ sản xuất trong nước, vì thông qua đầu tư trực tiếp họ đã tạo được các doanh nghiệp
nằm trong lòng các nước đang thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch, rồi