Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước ta đã vượt qua một 
giai đoạn thử thách gay g o. Trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó kh ăn, nhân dân 
ta không những đứng vững mà còn vươn lên, đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. 
Để có được những kết quả đó không thể không kể đến vai trò kinh tế hết sức quan trọng 
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định h ướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực 
t ế đã chứng minh điều khẳng định trên là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta đã ra kh ỏi khủng 
hoảng kinh tế xã hội, tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông đư ợc khắc 
phục. Kinh tế tăng trư ởng nhanh và ổn định, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước 
(GDP) bình quân hàng n ăm thời kỳ 1991-1995 đạt 8,2%, lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% 
năm 1986 xu ống còn 67,1% n ăm 1991; 12,7% năm 1995. Lương th ực không những đủ ăn 
mà còn xuất khẩu được mỗi năm kho ảng 2 triệu tấn gạo. Đời sống vật chất và tinh thần 
của đại bộ phận nhân dân đư ợc cải thiện. Lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng 
đư ợc củng cố. Bên cạnh đó, chúng ta cũng còn nhiều vấn đề tồn đọng và yếu kém cần giải 
quyết: nền kinh t ế của đát nư ớc còn nghèo và chậm phát triển, tình hình xã hội còn nhiều 
tiêu c ực, quản lý nhà nước còn nhiều thiếu sót, cồng kềnh. 
Tuy vậy, đến nay, thế và lực của nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Đó 
là do chúng ta đã vận dụng cơ chế thị trường một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp 
với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Từ nền kinh tế kế hoạch 
hoá tập trung mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp, vận hành theo cơ chế chỉ huy 
chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường 
có sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế nước ta phải trải qua thời kỳ quá độ - đó là 
thời kỳ cơ chế cũ chưa hoàn toàn mất đi, cơ chế mới chưa thực sự ra đời. Vì vậy 
chúng ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách. Trong điều kiện đó, vai 
trò kinh tế của nhà nước cực kỳ quan trọng. Lý do để nhà nước can thiệp vào nền 
kinh tế là do có những trục trặc của thị trường. Đôi khi thị trường không phân bố 
các nguồn lực một cách có hiệu quả và sự can thiệp của chính phủ có thể cải thiện 
các hoạt động kinh tế. Chính phủ đặt ra các qui định về luật pháp và trong việc đảm 
bảo tài chính cho mình, thông qua đánh thuế và vay mượn, chính phủ gây một ảnh 
hưởng rất lớn tới giá cả, lãi xuất và sản xuất. Tuy nhiên, chính phủ cũng không thể 
kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo, nhưng chính phủ có thể kiểm soát phần 
lớn tổng chi và lượng tiền trong nền kinh tế do đó chính phủ sẽ có những quyết định 
đúng đắn vào những thời điểm cần thiết. Với nước ta, quản lý nhà nước vừa đảm 
bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh 
tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 40 trang
40 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1989 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Quản lý nhà nước vừa đảm bảo định 
hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ 
cương trong các hoạt động kinh tế 
a-/ Lời nói đầu 
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước ta đã vượt qua một 
giai đoạn thử thách gay go. Trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân 
ta không những đứng vững mà còn vươn lên, đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. 
Để có được những kết quả đó không thể không kể đến vai trò kinh tế hết sức quan trọng 
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực 
tế đã chứng minh điều khẳng định trên là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta đã ra khỏi khủng 
hoảng kinh tế xã hội, tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc 
phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước 
(GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1991-1995 đạt 8,2%, lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% 
năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991; 12,7% năm 1995. Lương thực không những đủ ăn 
mà còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo. Đời sống vật chất và tinh thần 
của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng 
được củng cố. Bên cạnh đó, chúng ta cũng còn nhiều vấn đề tồn đọng và yếu kém cần giải 
quyết: nền kinh tế của đát nước còn nghèo và chậm phát triển, tình hình xã hội còn nhiều 
tiêu cực, quản lý nhà nước còn nhiều thiếu sót, cồng kềnh. 
Tuy vậy, đến nay, thế và lực của nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Đó 
là do chúng ta đã vận dụng cơ chế thị trường một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp 
với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Từ nền kinh tế kế hoạch 
hoá tập trung mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp, vận hành theo cơ chế chỉ huy 
chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường 
có sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế nước ta phải trải qua thời kỳ quá độ - đó là 
thời kỳ cơ chế cũ chưa hoàn toàn mất đi, cơ chế mới chưa thực sự ra đời. Vì vậy 
chúng ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách. Trong điều kiện đó, vai 
trò kinh tế của nhà nước cực kỳ quan trọng. Lý do để nhà nước can thiệp vào nền 
kinh tế là do có những trục trặc của thị trường. Đôi khi thị trường không phân bố 
các nguồn lực một cách có hiệu quả và sự can thiệp của chính phủ có thể cải thiện 
các hoạt động kinh tế. Chính phủ đặt ra các qui định về luật pháp và trong việc đảm 
bảo tài chính cho mình, thông qua đánh thuế và vay mượn, chính phủ gây một ảnh 
hưởng rất lớn tới giá cả, lãi xuất và sản xuất. Tuy nhiên, chính phủ cũng không thể 
kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo, nhưng chính phủ có thể kiểm soát phần 
lớn tổng chi và lượng tiền trong nền kinh tế do đó chính phủ sẽ có những quyết định 
đúng đắn vào những thời điểm cần thiết. Với nước ta, quản lý nhà nước vừa đảm 
bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh 
tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế. 
b-/ giải quyết vấn đề 
chương I 
tính tất yếu khách quan vai trò quản lý kinh tế 
vi mô của Nhà nước trong nền kinh tế 
I-/ Vai trò kinh tế của Nhà nước trong các giai đoạn lịch sử: 
1-/ Nhà nước chủ nô: 
Nhà nước chủ nô có từ rất sớm trong lịch sử xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô 
lệ. Nhà nước chủ nô ra đời và trực tiếp dùng quyền lợi của mình nhằm can thiệp vào 
việc phân phối của cải được sản xuất ra. Tuy rằng thời bấy giờ những người nô lệ 
làm ra sản phẩm nhưng dưới sự chỉ huy của Nhà nước thì khối lượng lớn của cải đó 
không phân phối cho nô lệ mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực lúc này 
Nhà nước có vai trò được làm công cụ cho bọn chủ nô điều khiển, cưỡng bức kinh 
tế. 
2-/ Phong kiến: 
Nhà nước lúc này không chỉ can thiệp vào việc phân phối sản phẩm mà còn 
đứng ra hợp lực xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp lúc này Nhà 
nước đã khuyến khích nhân dân đi tìm các vùng đất mới thích hợp để gieo trồng. ở 
Việt Nam đã có sự can thiệp của Nhà nước từ rất sớm thế kỷ thứ X trước công 
nguyên. Cơ sở kinh tế của Nhà nước phong kiến là sở hữu của địa chủ phong kiến 
đối với ruộng đất cũng như các loại tư liệu sản xuất khác và sở hữu cá thể của nông 
dân trong sự lệ thuộc vào địa chủ. 
Nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp phong kiến là 
phương tiện để giai cấp phong kiến duy trì địa vị kinh tế của mình và thực hiện 
quyền thống trị đối với toàn xã hội. 
3-/ Tư sản: 
Trên thế giới vào thế kỷ XV xuất hiện các nhà tư bản quá trình tích luỹ nguyên 
thuỷ được thực hiện nên kinh tế thị trường dần dần hình thành. Nhằm giúp các nền 
kinh tế của mình phát triển nhanh, tất nhiên giai cấp tư sản phải thực hiện thúc đẩy, 
vai trò quan trọng của Nhà nước tư sản như là một “bà đỡ” bởi vậy ngày càng xác 
định rõ vai trò của giai cấp tư sản và nâng cao dần dần. 
Sự quản lý Nhà nước cũng rất khác tức là hết sức nghiêm ngặt, họ quản lý chặt 
chẽ vốn của mình, họ tìm cách giữ chặt nguồn vốn của mình không để chạy tuột ra 
nước ngoài, Nhà nước của các nước tư bản giai đoạn này đã đề ra luật buộc các 
thương nhân nước ngoài không được mang tiền ra khỏi nước họ, chỉ mang hàng mà 
thôi. Nhà nước còn quy định những nơi được phép buôn bán để dễ dàng cho việc 
kiểm soát của mình. Các chính sách để có số nhân tiền lớn, tạo ra một lượng tiền 
nhỏ chạy ra ngoài lưu thông và quay vòng vốn nhanh, có hiệu quả. Trong chính 
sách ngoại thương họ dùng hàng rào thuế quan bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao và 
thuế nhập khẩu các hàng sản xuất trong nước thấp chỉ xuất thành phẩm chứ không 
xuất nhiên liệu, cũng như các hàng xa xỉ phẩm. Mặt khác Nhà nước còn thực hiện 
việc hỗ trợ cho các thương nhân trong nước các phương tiện vật chất, tài chính khi 
họ tham gia buôn bán quốc tế. Đồng thời với nó Nhà nước quy định chặt chẽ tỷ giá 
hối đoái cấm trả cho người nước ngoài cao hơn mức giá đó. Nhờ vậy mà các nước 
tư bản đã tích luỹ được một lượng của cải, tiền tệ đáng kể. Đầu thế kỷ XVIII giai 
cấp tư sản tập trung phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất nhờ áp dụng công nghệ mới, 
nền sản xuất của các nước tư bản phát triển rất nhanh, các nhà tư bản đua nhau mở 
rộng quy mô sản xuất. Tự do cạnh tranh đã trở thành đòi hỏi cấp thiết trong đời 
sống của nền kinh tế này. 
4-/ Nhà nước Xã hội chủ nghĩa: 
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN) là Nhà nước kiểu mới không dựa trên cơ 
sở tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà có nhiệm vụ bảo vệ sở hữu toàn dân và các 
hình thức sở hữu hợp pháp khác. 
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) ở thời kỳ đầu mới xuất hiện đã tạo 
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Khi CNTB phát triển đến 
giai đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa đế quốc khi mà lực lượng sản xuất đã phát 
triển ở trình độ xã hội hoá tương đối cao thì quan hệ sản xuất TBCN dựa trên chế độ 
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư, đã trở nên mâu thuẫn 
không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển. Mâu thuẫn đó đòi hỏi một 
cuộc cách mạng để thay đổi quan hệ sản xuất (QHSX). Cuộc cách mạng về QHSX ấy 
tất yếu dẫn đến sự thay đổi Nhà nước. 
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và QHSX biểu hiện về mặt xã hội là mâu 
thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nền sản xuất TBCN đã tạo ra những 
tiền đề làm cho giai cấp vô sản phát triển mạnh mẽ về số lượng cũng như về tính tổ 
chức, kỷ luật. Giai cấp vô sản trở thành giai cấp tiên tiến nhất trong xã hội có sứ 
mạng lịch sử là lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động làm cách mạng, xoá bỏ 
Nhà nước tư sản, xây dựng Nhà nước XHCN. 
Bản chất của Nhà nước XHCN do cơ sở kinh tế và đặc điểm về quyền lực 
trong CNXH quyết định. Cơ sở kinh tế của Nhà nước XHCN là tổng thể các QHSX 
được hình thành trên nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát triển theo định 
hướng XHCN trước sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân. Các kiểu Nhà 
nước khác trong lịch sử đều dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân về 
tư liệu sản xuất. 
Nhà nước XHCN là Nhà nước kiểu mới có nhiệm vụ bảo vệ sở hữu toàn dân 
về tư liệu sản xuất, là công cụ bảo vệ và đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân, 
nông dân, trí thức XHCN. 
II-/ Các lý thuyết về vai trò kinh tế của Nhà nước của các nhà kinh tế học cổ 
điển, tân cổ điện, Keynes: 
1-/ Các nhà kinh tế học cổ điển: 
Mầm mống tư tưởng tự do kinh tế được tiếp tục phát triển trong lý thuyết tự 
nhiên của phái trọng nông ở Pháp. Song nổi bật là A. Smith (1723-1790) một nhà 
kinh tế học nổi tiếng người Anh, Ông đã đưa ra lý thuyết “Bàn tay vô hình” và 
nguyên lý “Nhà nước không can thiệp” vào tổ chức nền kinh tế hàng hoá. Theo ông 
phát triển kinh tế cần tuân theo nguyên tắc tự do. Sự hoạt động của toàn bộ nền kinh 
tế là do các quy luật khách quan tự phát chi phối sự hoạt động của thị trường, là do 
quan hệ cung cầu và sự biến đổi tự phát của giá cả hàng hoá trên thị trường quyết 
định quan hệ giữa người với người là quan hệ lợi ích kinh tế. Ông còn cho rằng mỗi 
người hoạt động chỉ nhằm lợi ích của bản thân, song do “Bàn tay vô hình” chi phối 
buộc con người phải phục tùng lợi ích chung của xã hội và điều này nằm ngoài ý 
định của các nhà kinh doanh. Để cho nền kinh tế phát triển lành mạnh Nhà nước 
không nên can thiệp vào kinh tế thị trường, vào hoạt động của các doanh nghiệp. 
Mặc dù coi trọng “Bàn tay vô hình” song A. Smith cũng cho rằng đôi khi Nhà 
nước cũng có những nhiệm vụ kinh tế nhất định, đó là trong các trường hợp các 
nhiệm vụ kinh tế vượt quá khả năng của một doanh nghiệp như làm đường, xây bến 
cảng, đào các con kênh lớn,... 
Thực tế chỉ ra là nền kinh tế muốn phát triển nhanh đòi hỏi đất nước phải có 
một cơ sở hạ tầng (phục vụ sản xuất và đời sống) hiện đại. Điều này đã làm cho các 
nhà kinh tế học thời kỳ này thấy rằng: nền kinh tế phát triển càng cao xã hội hoá 
càng mở rộng, thị trường càng phát triển, càng cần có sự quản lý kinh tế của Nhà 
nước đối với nền kinh tế. Song, họ vẫn coi tự do kinh tế là sức mạnh của nền kinh tế 
thị trường, quy luật kinh tế là vô địch, mặc dù chính sách kinh tế có thể làm kìm 
hãm hay thúc đẩy ở mức độ nhất định sự hoạt động của nó. 
Nhưng vào những năm 30 của thế kỷ XX, những cuộc khủng hoảng kinh tế nổ 
ra thường xuyên đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) cho thấy 
“Bàn tay vô hình” không thể đảm bảo những điều kiện ổn định cho kinh tế thị 
trường phát triển. Thêm vào đó trình độ xã hội hoá phát triển ngày càng cao đã chỉ 
cho các nhà kinh tế thấy rằng: cần phải có một lực lượng nhân danh xã hội can thiệp 
vào quá trình hoạt động của nền kinh tế, điều tiết nền kinh tế. 
2-/ Quan điểm của Keynes: 
Nhà kinh tế học người Anh John Meynard Keynes (1884-1946) đã đưa ra lý 
thuyết nền kinh tế thị trường. Theo J.M Keynes sự tăng lên của sản xuất sẽ dẫn đến 
sự tăng lên của thu nhập, do đó làm tăng tiêu dùng. Song do khuynh hướng “tiêu 
dùng giới hạn” nên tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập. Vì vậy cầu tiêu dùng 
giảm tương đối, sự giảm cầu tiêu dùng sẽ kéo theo sự giảm sút của hàng hoá, từ đó 
làm cho tỷ suất lợi nhuận giảm xuống. Và khi tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn hoặc bằng 
lãi suất thì các chủ doanh nghiệp sẽ không có lợi trong việc vay vốn để đầu tư, họ sẽ 
không đầu tư vào sản xuất kinh doanh nữa. Điều này sẽ dẫn đến nền kinh tế từ chỗ 
trì trệ, khủng hoảng và làm cho nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng. Để khắc phục 
tình trạng đó, Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế và thị trường, phải huy động 
được các nguồn tư bản nhàn rỗi để mở mang các hoạt động sản xuất kinh doanh, 
giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho dân cư, làm cho nhu cầu về cầu 
tăng lên, giá cả hàng hoá tăng, thu nhập tăng, tăng hiệu quả của tư bản đầu tư. Điều 
đó khuyến khích mở rộng đầu tư làm cho sản xuất tăng nhanh nhờ đó mà có điều 
kiện đẩy lùi khủng hoảng và tình trạng thất nghiệp. 
J.M Keynes và trường phái của ông cho rằng Nhà nước can thiệp vào kinh tế 
cả tầm vi mô và vĩ mô. ở tầm vĩ mô, Nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, 
chính sách tín dụng, điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm phát, thuế, bảo hiểm, trợ cấp, 
đầu tư phát triển,... ở tầm vi mô Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản 
xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. 
Trường phái Keynes cho rằng sự can thiệp của Nhà nước là tuyệt đối không 
một cá nhân nào có thể thay thế. 
3-/ Quan điểm hỗn hợp của Paul Samuelson - Sự phối hợp giữa “Bàn tay vô 
hình” và “Bàn tay hữu hình”: 
Paul Samuelson nhà kinh tế học người Mỹ thuộc trường phái hiện đại. Ông có tư 
tưởng kết hợp “Bàn tay vô hình” với chức năng quản lý kinh tế Nhà nước để điều tiết 
nền kinh tế thị trường. Ông cho rằng điều hành một nền kinh tế không có cả Chính phủ 
lẫn thị trường cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay. Cơ chế thị trường xác định giá 
cả trong nhiều lĩnh vực trong khi Nhà nước điều tiết thị trường bằng các chương trình 
thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả thị trường có tầm quan trọng ngang nhau. Sự phối hợp đó 
tạo nên nền kinh tế hỗn hợp. 
4-/ Trường phái “Kinh tế thị trường xã hội”: 
Trường phái này cũng mang tính chất hỗn hợp “Bàn tay vô hình” của thị 
trường và “Bàn tay hữu hình” của Nhà nước. Tuy vậy tư tưởng can thiệp của Nhà 
nước cũng rất đa dạng. Các nhà tư tưởng chủ nghĩa tự do muốn phát triển kinh tế tự 
do, Nhà nước chỉ can thiệp mức độ nhất định. Quan điểm của họ là tự do thị trường 
nhiều hơn, Nhà nước can thiệp ít hơn. Trong khi đó các nhà tư tưởng Bắc Âu lại chủ 
trương tăng cường vai trò Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực xã hội, xây dựng kiểu 
kinh tế thị trường xã hội. 
Tư tưởng vai trò kinh tế Nhà nước được vận dụng vào các nước mang tính chất 
đặc thù. Như ở Mỹ ở đầu thế kỷ XX đã bắt đầu mở rộng sự can thiệp của Nhà nước 
liên bang đối với nền kinh tế. Vai trò của Chính phủ liên bang tạo ra môi trường tự do 
cạnh tranh, xây dựng các đạo luật chống độc quyền, kiểm soát các hoạt động kinh tế 
bằng các công cụ tài chính, tiền tệ, tổ chức ngân hàng thương mại, trong đó ngân hàng 
Trung ương vừa làm chức năng dự trữ, vừa làm chức năng điều tiết, kiểm soát lượng 
tiền tệ được cung ứng thông qua ngân hàng thương mại, xây dựng kết cấu hạ tầng của 
nền kinh tế, giao thông,... 
ở Đức thì nền kinh tế thị trường được hình dung như một sân bóng trong đó 
mỗi doanh nghiệp là một cầu thủ Nhà nước đóng vai trò là trọng tài, là người thiết 
kế “luật chơi” và dùng “luật chơi” để điều khiển nền kinh tế sao cho nền kinh tế 
tránh những tai hoạ khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát. Nhà nước rất tôn trọng 
quyền tự do cạnh tranh trên thị trường của các chủ doanh nghiệp, và chỉ giữ ở mức 
độ tối thiểu Nhà nước coi trọng chỉ tiêu xã hội. 
5-/ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: 
Bất cứ Nhà nước nào cũng có vai trò và chức năng kinh tế. C. Mác coi quyền 
lực của Nhà nước như vai trò “bã đỡ” cho xã hội cũ thai nghén của xã hội mới. F. 
Ăngghen trong tác phẩm “Chống Đuy-ring” cũng nhấn mạnh rằng “Giai cấp vô sản 
chiếm lấy chính quyền Nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu 
Nhà nước” (Tuyển tập, tập V - NXB ST, HN 1983). 
ở các thời kỳ khác nhau, ở các chế độ xã hội khác nhau, do tính chất Nhà nước 
khác nhau nên vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước có biểu hiện khác nhau,... 
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì sự khác nhau thể hiện ở 
những điểm sau đây: 
Một là, các nhà nước trước CNTB, vai trò kinh tế chủ yếu là đặt ra chế độ thuế 
khoá - một chế độ đóng góp có tính cưỡng bước để nuôi sống Bộ máy cai trị thực 
hiện chức năng đối nội, điều hoà giai cấp, điều hoà sự xung đột và “Giữ cho sự 
xung đột đó nằm trong vòng trật tự” nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị. 
Nguồn thu của thuế khoá còn nhằm thực hiện chức năng đối ngoại, bảo vệ lãnh thổ 
theo đó là bảo vệ lợi ích và mở rộng lợi ích của giai cấp thống trị khỏi bị xâm lược 
hoặc bị mất đi ở nước ngoài. 
Hai là, đến Nhà nước tư sản vai trò kinh tế của Nhà nước không dừng lại ở 
thuế khoá, không chỉ đơn thuần là cơ quan cai trị ở bên ngoài. Bên trên quá trình 
sản xuất như F. Ăngghen đã nhận xét: “Nền văn mình mà tiến lên thì bản thân thuế 
má là không đủ nữa, Nhà nước phát hành hối phiếu, vay nợ tức là phát hành công 
trái” (C. Mác - Ăngghen tuyển tập, tập V). 
Và sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã làm cho Nhà nước bắt đầu ở bên trong quá 
trình sản xuất. Nhà nước là: “Nhà tư bản tập thể lý tưởng. Nhà nước ấy càng chuyển 
nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành tư 
bản tập thể thực sự bấy nhiêu và càng bóc lột công nhân bấy nhiêu”. (“Chống Đuy-
ring” - C. Mác - Ăngghen, tập V - NXB Sự thật, 1982). 
chương II 
những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường 
I-/ Ưu, nhược điểm của nền kinh tế thị trường: 
1-/ Ưu điểm: 
Khi chúng ta nói được nhược điểm của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp 
tức là ta đã chứng minh được rằng kinh tế thị trường có tiến bộ hơn, như vậy thì tiến 
bộ hơn ở chỗ nào? phải chăng đơn thuần chỉ là nền kinh tế tập trung được cải thiện 
hoá mà thôi. 
Thứ nhất, kinh tế thị trường là nơi để diễn ra sự cạnh tranh, sự đào thải của cái 
cũ để dẫn đến đưa mọi sự vật phát triển cao hơn. Nói đến kinh tế thị trường là nói 
đến sự cạnh tranh kinh tế giữa các chủ thể tham gia kinh tế thị trường. Cạnh tranh là 
sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế trên thị trường, để giành sản xuất, tiêu dùng 
hàng hoá có lợi cho mình nhằm thu lợi nhuận cao nhất, là cạnh tranh đối với tất cả 
các ngành giữa người bán, người mua,... 
Do vậy nền kinh tế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng 
cao năng suất lao động, để nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất giá thành rẻ, chất 
lượng cao, chỉ còn cách là nâng cao kỹ thuật công nghệ để cạnh tranh với các hãng 
khác nhằm tối đa hoá lợi nhuận. C.Mác cũng đánh giá vai trò lợi nhuận đối với các 
nhà tư bản với tư cách là chủ thể của nền kinh tế thị trường. Theo Mác, những nhà 
kinh doanh ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít 
chẳng khác gì giới tự nhiện ghê sợ chân không. Vậy mà cuộc sống lại đi lên hàng 
ngày vấn đề phải thường xuyên áp dụng kỹ thuật mới, hợp lý hoá sản xuất làm cho 
năng suất lao động cá biệt và năng suất xã hội tăng lên. Nhờ đó mà nền kinh tế thị 
trường tuy mới ra đời mấy năm lại đây nhưng bề thế đã tạo cho mình khá dầy dặn là 
một khối lượng, lực lượng sản xuất xã hội cao chưa từng thấy trong lịch sử xã hội 
loài người. 
Thứ hai, kinh tế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh 
chóng khi sản xuất một mặt hàng nào đó cái cần thiết là phải biết được thị hiếu của 
dân chúng, hãng nào sản xuất các mặt hàng lạ, đẹp mắt và hợp thời trang sẽ đạt 
nhiều lợi nhuận hơn. Muốn vậy có nhiều hình thức như quảng cáo, tiếp thị, thu nhập 
thông tin khi thấy mặt hàng của mình ít ưu chuộng hoặc là ưu chuộng giảm tức là 
cầu đang giảm dần thì người sản xuất phải ngừng ngay sản xuất lại. Chính điều đó 
dẫn tới sự tiết kiệm hao phí lao động xã hội vì vậy trong nền kinh tế thị trường luôn 
luôn diễn ra sự đổi mới. Nhiều sản phẩm trước đây vẫn bán nay mất đi vì không có 
nhu cầu, nhiều sản phẩm mới với chất lượng, quy cách ngày càng được hoàn thiện 
hơn. 
Thứ ba, không kể tới nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế có nhiều hàng 
hoá và dịch vụ. Đó là một nền kinh tế dư thừa chứ không phải thiếu hụt. Do nền 
kinh tế thị trường tạo điều kiện vật chất để thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật 
chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của con người. 
Thứ tư, đó là nơi thúc đẩy xã hội hoá và tập trung dân chủ cao, phân phối thu 
nhập hợp lý. Đúng theo nguyên tắc làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không 
làm không hưởng. 
Nhưng những mặt tốt của nó lại đi kèm những nhược điểm mà nó được gọi là 
những mặt trái của nền kinh tế thị trường. 
2-/ Mặt trái của nền kinh tế thị trường: 
Thứ nhất, nếu nói rằng thị trường là nơi mà các thông tin phải rất nhạy bén và 
chính xác thì chỉ cần một thông tin lệch lạc hay sự “lỡ” sản xuất dẫn đến sản xuất 
mù quáng gây ra các cuộc khủng hoảng thừa và thiếu nghiêm trọng, có