Đề tài Sản phẩm dịch vụ và chiến lược thuơng hiệu

Đối với một người thật sựtin tưởng, Krispy Kreme không chỉlà bánh rán. Đó là một trải nghiệm. Một khoảnh khắc diệu kỳ. Với từng chiếc bánh mà công ty bán ra, họ tạo ra một khách hàng hạnh phúc. Và từng khách hàng hạnh phúc ấy nôn nóng muốn kể lại với người khác vềtrải nghiệm của mình. Họnói nếu bạn không ăn thửmột chiếc bánh Krispy Kreme bọc đường nóng hổi dinh dính, thì bạn chưa biết sống là gì. Một nhà phân tích nói “Nếu bạn chưa bao giờnếm thửKrispy Kreme, chúng ta sẽnói một cách đơn giản thếnày. Những chiếc bánh rán ấy, đặc biệt loại bọc đường nóng hổi độc đáo, ngon tuyệt vời. (Chịtôi nói nó cứnhưnhững đám mây mịn màng bọc đường.)” Những khoảnh khắc diệu kỳcủa Krispy Kreme xem ra quyến rũtất cảmọi người. Nhà phân tích nói “Ai cũng thích Krispy Kreme, từtrẻcon 5 tuổi cho đến người già 75 tuổi, từngười da trắng đến người da màu, từdân châu Á đến đến người gốc Tây Ban Nha, từdân New England đến người miền Nam, từngười California đến dân New York.” Krispy Kreme chú trọng vào những khoảnh khắc diệu kỳmà chiếc bánh tạo ra cho đến mức công ty quảthật đã xác định thương hiệu công ty thông qua sựtrải nghiệm cửa hàng. Theo lời của quyển sách Retail Environment mô tả chi tiết thiết kếcửa hàng mới: “Thương hiệu của chúng tôi và sựtrải nghiệm Krispy Kreme của khách hàng là cơsởhỗ trợchúng tôi rất nhiều. Không gì quan trọng hơn việc bảo toàn và phát triển tài sản quý giá này.” Niềm đam mê dành cho mối quan hệthương hiệu – khách hàng này tạo nên nền tảng cho thành công của Krispy Kreme. Sựtrải nghiệm thương hiệu Krispy Kreme mãnh liệt đã tạo thành một đám đông những người nhiệt tình hâm mộsản phẩm mà hầu hết các đối thủcạnh tranh chỉbiết mơ ước. Ceres Wood, Phó giám đốc phát triển cửa hàng Krispy Kreme nói “người ta xếp hàng hàng giờchờmột cửa hàng mới mởcửa và họthật vui vẻ họchuyện trò với nhau, chia xẻnhững câu chuyện vềKrispy Kreme tuyệt vời. Tôi chưa bao giờthấy bất kỳhiện tượng nào thậm chí chỉgần giống với tình cảm đậm đà mà dân chúng dành cho thương hiệu này.”

pdf54 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1772 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sản phẩm dịch vụ và chiến lược thuơng hiệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Niên khoá 2006-2007 Tiếp thị địa phương Bài đọc Nguyên lý marketing Ch 8 Sản phẩm, dịch vụ và chiến lược thương hiệu Kotler & Amstrong 1 Biên dịch: Kim Chi SẢN PHẨM, DỊCH VỤ VÀ CHIẾN LƯỢC THƯƠNG HIỆU Đối với một người thật sự tin tưởng, Krispy Kreme không chỉ là bánh rán. Đó là một trải nghiệm. Một khoảnh khắc diệu kỳ. Với từng chiếc bánh mà công ty bán ra, họ tạo ra một khách hàng hạnh phúc. Và từng khách hàng hạnh phúc ấy nôn nóng muốn kể lại với người khác về trải nghiệm của mình. Họ nói nếu bạn không ăn thử một chiếc bánh Krispy Kreme bọc đường nóng hổi dinh dính, thì bạn chưa biết sống là gì. Một nhà phân tích nói “Nếu bạn chưa bao giờ nếm thử Krispy Kreme, chúng ta sẽ nói một cách đơn giản thế này. Những chiếc bánh rán ấy, đặc biệt loại bọc đường nóng hổi độc đáo, ngon tuyệt vời. (Chị tôi nói nó cứ như những đám mây mịn màng bọc đường.)” Những khoảnh khắc diệu kỳ của Krispy Kreme xem ra quyến rũ tất cả mọi người. Nhà phân tích nói “Ai cũng thích Krispy Kreme, từ trẻ con 5 tuổi cho đến người già 75 tuổi, từ người da trắng đến người da màu, từ dân châu Á đến đến người gốc Tây Ban Nha, từ dân New England đến người miền Nam, từ người California đến dân New York.” Krispy Kreme chú trọng vào những khoảnh khắc diệu kỳ mà chiếc bánh tạo ra cho đến mức công ty quả thật đã xác định thương hiệu công ty thông qua sự trải nghiệm cửa hàng. Theo lời của quyển sách Retail Environment mô tả chi tiết thiết kế cửa hàng mới: “Thương hiệu của chúng tôi và sự trải nghiệm Krispy Kreme của khách hàng là cơ sở hỗ trợ chúng tôi rất nhiều. Không gì quan trọng hơn việc bảo toàn và phát triển tài sản quý giá này.” Niềm đam mê dành cho mối quan hệ thương hiệu – khách hàng này tạo nên nền tảng cho thành công của Krispy Kreme. Sự trải nghiệm thương hiệu Krispy Kreme mãnh liệt đã tạo thành một đám đông những người nhiệt tình hâm mộ sản phẩm mà hầu hết các đối thủ cạnh tranh chỉ biết mơ ước. Ceres Wood, Phó giám đốc phát triển cửa hàng Krispy Kreme nói “người ta xếp hàng hàng giờ chờ một cửa hàng mới mở cửa và họ thật vui vẻ … họ chuyện trò với nhau, chia xẻ những câu chuyện về Krispy Kreme … tuyệt vời. Tôi chưa bao giờ thấy bất kỳ hiện tượng nào thậm chí chỉ gần giống với tình cảm đậm đà mà dân chúng dành cho thương hiệu này.” Đối với nhiều nơi, sự xuất hiện của một cửa hàng Crispy Kreme là một sự kiện để ăn mừng. Người tiêu dùng ở Clackamas, bang Oregon, chào mừng lễ động thổ một cửa hàng Krispy Kreme mới với biểu ngữ và từng đoàn người diễu hành háo hức. Khi một cửa hàng mới mở ngay ngoại ô Seattle, khách hàng nô nức cắm trại qua đêm ngay trên hè phố để được là người đầu tiên bước vào cửa hàng vào 5:30 giờ sáng hôm sau. Khi Krispy Kreme xuất hiện lần đầu ở Denver, giao thông buổi sáng bị ùn tắc hàng giờ. Theo một người tường thuật: Họ bắt đầu xếp hàng trong bóng đêm giá lạnh hàng giờ trước khi cửa hàng mở cửa. Một số người mặc quần áo ngủ, một số người kéo theo giường xếp và ti vi, những người khác mang theo bia. Khi bình minh bắt đầu ló dạng và chiếc băng khánh thành được cắt, đám khách hàng điên cuồng lao qua cửa. Nhiều người ắt hẳn đang trong cơn thèm muốn của ngọt, gào lên khản cả giọng: “Bánh rán Krispy Kreme!” Năm ngoái câu chuyện xảy ra ở Fargo, Philadelphia, Amarillo và hàng Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tiếp thị địa phương Bài đọc Nguyên lý marketing Ch 8 Sản phẩm, dịch vụ và chiến lược thương hiệu Kotler & Amstrong 2 Biên dịch: Kim Chi chục thành phố khác ở Bắc Mỹ. Năm nay nó sẽ xảy ra ở Boston, Sydney và những nơi khác. Tất cả chỉ bởi một chiếc bánh rán. Với những người chưa từng biết đến Krispy Kreme, chỉ tên gọi này thôi cũng đã nhanh chóng giới thiệu chiếc bánh. Nhưng để đảm bảo thông điệp được truyền tải, các cửa hàng nhượng quyền địa phương thường đưa vài chục hộp bánh rán đến một trạm phát thanh địa phương, hay như bạn cũng có thể đoán được, đến các đồn công an và trạm phòng cháy. Khi một cửa hàng mới mở ở Phoenix, cảnh sát trưởng Joe Arpaio “khét tiếng nghiêm khắc nhất nước Mỹ”, người thi hành luật nổi tiếng làm cho tù nhân khiếp sợ - là người đầu tiên nếm thử một chiếc bánh Krispy Kreme mới ra lò. Trước một rừng ống kính truyền hình, ông thốt lên một câu hoàn hảo: “Những chiếc bánh rán này ngon đến thế, hẳn phải là trái luật.” Việc quảng bá miễn phí như thế là chuẩn mực của Krispy Kreme. Chiếc bánh rán ngon lành cũng đóng một vai trò trang sức trong bộ phim Primary Colors và trên các chương trình truyền hình như “NYPD Blue” và “The Tonight Show” với người dẫn chương trình Jay Leno. Như vậy, Krispy Kreme không chỉ đơn thuần bán bánh rán. Công ty cẩn thận xây dựng những khoảnh khắc diệu kỳ cho khách hàng, những khoảnh khắc đang được mong đợi với gần như bất kỳ ai trong “dòng hương thơm” của một cửa hàng Krispy Kreme. Giám đốc tiếp thị Jennifer Gardner nhận xét: “Tôi đã từng thấy một người lao động chân tay, một bà mẹ mang thai, một người đi xe đạp, một thương gia, và một phụ nữ được chở đến trong một chiếc ô tô Rolls Royce sang trọng, tất cả đều xếp hàng bên trong một cửa hàng Krispy Kreme, và họ chuyện trò với nhau cứ như những người bạn lâu ngày mới gặp lại.” Jamie Karn, một người hâm mộ Krispy Kreme, nói: “Bạn phải trải qua một lần. Bạn phải ăn để biết!” Không chỉ là bánh rán, Krispy Kreme thật sự là sự trải nghiệm ngọt ngào của khách hàng. Tạo ra những khoảnh khắc diệu kỳ cho khách hàng cũng là một trải nghiệm ngọt ngào với Krispy Kreme. Doanh số công ty tăng hơn gấp ba trong năm năm qua. Sản phẩm Bất kỳ thứ gì có thể đưa ra thị trường để thu hút sự chú ý, được mua về, sử dụng hay tiêu dùng mà có thể thoả mãn mong muốn hay nhu cầu. Rõ ràng, bánh rán không chỉ là bánh rán khi Krispy Kreme bán ra. Chương này bắt đầu bằng một câu hỏi cứ tưởng là đơn giản: Sản phẩm là gì? Sau khi trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ xem xét những cách thức phân loại sản phẩm trên thị trường người tiêu dùng và kinh doanh. Kế tiếp chúng ta sẽ thảo luận các quyết định quan trọng mà người tiếp thị đưa ra về các sản phẩm riêng lẻ, các tuyến sản phẩm (hay dòng sản phẩm), và tổ hợp sản phẩm. Sau đó chúng ta sẽ tìm hiểu những vấn đề hết sức quan trọng về cách thức xây dựng và quản lý thương hiệu của nhà tiếp thị. Cuối cùng, chúng ta xem xét các đặc điểm và yêu cầu tiếp thị của một dạng sản phẩm đặc biệt: các dịch vụ. Sản phẩm là gì? Một máy nghe nhạc DVD Sony, một chiếc ô tô Ford Taurus, một kỳ nghỉ ở Costa Rica, một tách cà phê Mocha của Starbucks, các dịch vụ đầu tư trực tuyến chính xác, và một lời khuyên của vị bác sĩ gia đình – tất cả đều là sản phẩm. Chúng ta định nghĩa sản phẩm là Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tiếp thị địa phương Bài đọc Nguyên lý marketing Ch 8 Sản phẩm, dịch vụ và chiến lược thương hiệu Kotler & Amstrong 3 Biên dịch: Kim Chi bất kỳ thứ gì có thể đưa ra thị trường để thu hút sự chú ý, được mua về, sử dụng hay tiêu dùng mà có thể thoả mãn mong muốn hay nhu cầu. Sản phẩm không chỉ là những hàng hoá hữu hình. Theo định nghĩa khái quát, sản phẩm bao gồm các đối tượng vật chất, các dịch vụ, các sự kiện, con người, địa phương, tổ chức, ý tưởng, và tổ hợp của các thực thể này. Như vậy, trong toàn bộ quyển sách này, chúng ta sử dụng thuật ngữ sản phẩm một cách khái quát để bao gồm bất kỳ hay toàn bộ những thực thể này. Do tầm quan trọng của dịch vụ trong nền kinh tế thế giới, chúng ta sẽ đặc biệt chú ý đến dạng sản phẩm này. Dịch vụ là một dạng sản phẩm bao gồm các hoạt động, các lợi ích, hay sự thoả mãn được chào bán mà thực chất là vô hình và không dẫn đến sự sở hữu vật gì cả. Các ví dụ bao gồm hoạt động ngân hàng, khách sạn, hàng không, dịch vụ bán lẻ, lập hồ sơ thuế, và dịch vụ sửa nhà. Chúng ta sẽ xem xét các dịch vụ một cách chi tiết hơn trong chương này. Dịch vụ Bất kỳ một hoạt động hay một lợi ích mà một bên có thể mang lại cho bên kia mà về bản chất là vô hình và không dẫn đến sở hữu một vật gì cả. Sản phẩm, dịch vụ, và sự trải nghiệm Sản phẩm là yếu tố then chốt trong hoạt động tiếp thị. Việc lên kế hoạch tiếp thị hỗn hợp (marketing mix) bắt đầu bằng việc định hình những hàng hoá chào bán mang đến giá trị cho các khách hàng mục tiêu. Việc chào bán này trở thành nền tảng để dựa vào đó công ty xây dựng các mối quan hệ với khách hàng mang lại lợi nhuận. Việc tiếp thị chào bán của công ty thường bao gồm cả hàng hoá hữu hình và các dịch vụ. Mỗi cấu phần có thể là một phần nhỏ hay một phần lớn của tổng thể mặt hàng chào bán. Trong một trường hợp cực đoan, mặt hàng chào bán có thể chỉ bao gồm một hàng hoá hữu hình thuần tuý, như xà phòng, kem đánh răng, hay muối – không có dịch vụ nào đi kèm với sản phẩm cả. Một trường hợp cực đoan khác là các dịch vụ thuần tuý, chủ yếu bao gồm một dịch vụ. Ví dụ như việc khám bệnh của bác sĩ, hay các dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, ở giữa hai trường hợp cực đoan này là sự kết hợp khả dĩ của nhiều hàng hoá và dịch vụ. Ngày nay, khi các sản phẩm và dịch vụ ngày càng trở nên chuẩn hoá, nhiều công ty đang tiến tới một trình độ mới trong việc tạo ra giá trị cho khách hàng. Để tạo nên sự khác biệt cho sản phẩm chào bán, ngoài việc chế tạo sản phẩm và cung ứng dịch vụ, các công ty còn tìm kiếm, tiếp thị, và mang lại những trải nghiệm đáng nhớ cho khách hàng. Sự trải nghiệm luôn luôn quan trọng trong ngành công nghiệp giải trí – Disney từ lâu đã tạo ra hồi ức thông qua các bộ phim và công viên vui chơi của họ. Tuy nhiên, ngày nay, tất cả các công ty đang hun đúc lại các hàng hoá và dịch vụ truyền thống của họ để tạo ra sự trải nghiệm. Ví dụ, khách hàng quen thuộc của Starbucks không phải chỉ trả tiền uống cà phê mà thôi. Công ty thết đãi khách hàng bằng nét thi vị trên giấy dán tường, bằng người phục vụ mặc tạp dề đứng sau các cỗ máy cá phê hơi, và bầu không khí bên trong ấm cúng nhưng hiện đại mang lại cho khách hàng cảm giác phong lưu và thoả mãn. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tiếp thị địa phương Bài đọc Nguyên lý marketing Ch 8 Sản phẩm, dịch vụ và chiến lược thương hiệu Kotler & Amstrong 4 Biên dịch: Kim Chi Và bạn không chỉ mua sắm tại cửa hàng Toys “R” Us ở quảng trường Times thành phố New York, mà bạn đang trải nghiệm nó. Bước vào khu vui chơi Toys “R” Us ở quảng trường Times để tận hưởng ba mức độ vui vẻ lạ thường ngay ở Broadway! Ngồi trên vòng đu quay cao 60 foot với các cabin trang trí theo chủ đề về các nhân vật đặc sắc. Có cảm giác như một buổi lễ hội trong toà nhà búp bê Barbie hai tầng tuyệt diệu. Tản bộ qua xứ bánh kẹo với kích thước to như người thật. Nhìn ngắm kỳ quan trong toà nhà Empire State của LEGO. Và để có sự trải nghiệm kỷ nguyên Jurassic cổ xưa, hãy chào hỏi chú khủng long T-Rex cao 20 foot, to hơn người thật với những bước đi thật và tiếng gầm rú hoang dã. Bạn phải thực sự nhìn thấy mới tin được! Hình 8.1 Ba cấp sản phẩm Sản phẩm tăng thêm Giao hàng và tín dụng Sản phẩm thực tế Dịch vụ hậu mãi Thương hiệu Các tính năng Lợi ích cốt lõi Mức chất lượng Thiết kế Bao bì Lắp đặt Bảo hành Những công ty tiếp thị sự trải nghiệm nhận thấy rằng khách hàng thật sự mua nhiều hơn chứ không chỉ là sản phẩm và dịch vụ. Họ đang mua những thứ mà việc chào bán sẽ mang lại cho họ. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tiếp thị địa phương Bài đọc Nguyên lý marketing Ch 8 Sản phẩm, dịch vụ và chiến lược thương hiệu Kotler & Amstrong 5 Biên dịch: Kim Chi Các cấp sản phẩm và dịch vụ Những người lập kế hoạch sản phẩm cần suy nghĩ về sản phẩm và dịch vụ theo ba cấp (xem hình 8.1). Mỗi cấp bổ sung thêm giá trị cho khách hàng. Cấp cơ bản nhất là lợi ích cốt lõi, trả lời cho câu hỏi Khách hàng thực sự đang mua gì? Khi thiết kế sản phẩm, nhà tiếp thị trước tiên phải định nghĩa lợi ích hay dịch vụ cốt lõi giải quyết vấn đề mà khách hàng đang tìm kiếm là gì. Một phụ nữ mua son môi sẽ không chỉ đơn thuần mua màu son. Charles Revson của hãng mỹ phẩm Revlon nhận thấy điều này ngay từ đầu: “Trong nhà máy, chúng tôi sản xuất ra mỹ phẩm; trong cửa hàng, chúng tôi bán niềm hy vọng.” Công ty Charles Schwab không chỉ đơn thuần bán các dịch vụ tài chính, mà còn cam kết thoả mãn “những giấc mơ tài chính” của khách hàng. Ở cấp thứ hai, các nhà lập kế hoạch sản phẩm phải chuyển lợi ích cốt lõi thành một sản phẩm thực tế. Họ cần phát triển các tính năng đặc điểm của sản phẩm và dịch vụ, thiết kế, mức chất lượng, thương hiệu, và bao bì đóng gói. Ví dụ, một máy quay video Sony là một sản phẩm thực tế. Tên sản phẩm, các thành phần, kiểu dáng, các tính năng, đóng gói và các thuộc tính khác, tất cả được kết hợp một cách cẩn thận để mang lại lợi ích cốt lõi - một phương tiện chất lượng cao và thuận tiện để nắm bắt những khoảnh khắc quan trọng. Cuối cùng, các nhà hoạch định sản phẩm phải xây dựng một sản phẩm tăng thêm xung quanh lợi ích cốt lõi và sản phẩm thực tế bằng cách đưa ra những dịch vụ và lợi ích bổ sung cho người tiêu dùng. Sony phải chào mời nhiều hơn chứ không phải chỉ là một chiếc máy quay video. Công ty phải mang lại cho khách hàng một giải pháp hoàn chỉnh cho các vấn đề về ghi hình. Vì thế, khi khách hàng mua một chiếc máy quay video Sony, công ty và các đại lý của công ty cũng có thể trao cho khách hàng phiếu bảo hành về linh kiện và sản phẩm, hướng dẫn sử dụng máy, các dịch vụ sửa chữa nhanh khi cần thiết, và số điện thoại miễn phí để gọi nếu khách hàng gặp trục trặc hay có thắc mắc. Người tiêu dùng xem sản phẩm như một tổ hợp lợi ích phức tạp thỏa mãn nhu cầu của họ. Khi phát triển sản phẩm, trước tiên các nhà tiếp thị phải nhận diện những nhu cầu cốt yếu của khách hàng mà sản phẩm sẽ đáp ứng. Sau đó họ phải thiết kế sản phẩm thực tế và tìm cách tăng thêm sản phẩm đó nhằm tạo ra một tổ hợp lợi ích mang lại cho khách hàng sự trải nghiệm thỏa mãn nhất. Phân loại sản phẩm và dịch vụ Sản phẩm và dịch vụ có thể rơi vào hai loại tổng quát dựa vào loại người tiêu dùng sử dụng chúng – sản phẩm tiêu dùng và sản phẩm công nghiệp. Định nghĩa khái quát, sản phẩm cũng bao gồm các thực thể có thể mua bán khác như kinh nghiệm, tổ chức, con người, địa phương, và ý tưởng. Sản phẩm tiêu dùng Sản phẩm tiêu dùng là những sản phẩm và dịch vụ được mua bởi người tiêu dùng sau cùng với mục đích sử dụng cá nhân. Các nhà tiếp thị thường tiếp tục phân loại các loại Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tiếp thị địa phương Bài đọc Nguyên lý marketing Ch 8 Sản phẩm, dịch vụ và chiến lược thương hiệu Kotler & Amstrong 6 Biên dịch: Kim Chi sản phẩm và dịch vụ này dựa vào cách thức người tiêu dùng đi mua chúng. Sản phẩm tiêu dùng bao gồm sản phẩm thuận tiện, sản phẩm mua sắm, sản phẩm đặc biệt, và sản phẩm không tìm kiếm. Các sản phẩm này khác nhau theo cách thức người tiêu dùng mua chúng và do đó cũng khác nhau theo cách thức tiếp thị của người bán. Sản phẩm tiêu dùng Sản phẩm được mua bởi người tiêu dùng sau cùng với mục đích sử dụng cá nhân. Sản phẩm thuận tiện Sản phẩm tiêu dùng mà người tiêu dùng thường mua một cách thường xuyên, nhanh chóng, bỏ công sức so sánh và mua sắm ít nhất. Sản phẩm mua sắm Hàng hoá tiêu dùng mà trong quá trình chọn lựa và mua sắm, người tiêu dùng thường so sánh đặc trưng dựa trên những cơ sở như sự phù hợp, chất lượng, giá cả và kiểu dáng. Sản phẩm đặc biệt Sản phẩm tiêu dùng với các đặc điểm độc đáo hay hàng hiệu mà một nhóm người mua đông đảo sẵn sàng bỏ công sức đặc biệt để mua sắm. Sản phẩm không tìm kiếm Sản phẩm tiêu dùng mà người tiêu dùng không biết hoặc biết nhưng thông thường không nghĩ đến việc mua sắm. Sản phẩm công nghiệp Sản phẩm được mua bởi các cá nhân và tổ chức để tiếp tục chế biến hay sử dụng trong công việc kinh doanh. Sản phẩm thuận tiện là những sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng mà người tiêu dùng thường mua một cách thường xuyên, nhanh chóng, bỏ công sức so sánh và mua sắm ít nhất; ví dụ như xà phòng, kẹo, báo chí, và thức ăn nhanh. Sản phẩm thuận tiện thường có giá thấp, và các nhà tiếp thị đưa chúng đến nhiều nơi để có sẵn khi người tiêu dùng cần. Sản phẩm mua sắm là những sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng được mua về kém thường xuyên hơn, và người tiêu dùng thường thận trọng so sánh về sự thích hợp, chất lượng, giá cả, và kiểu dáng. Khi mua sản phẩm và dịch vụ mua sắm, người tiêu dùng tốn nhiều thời gian và công sức hơn để thu thập thông tin và thực hiện việc so sánh; ví dụ như đồ gỗ nội thất, quần áo, xe ô tô đã qua sử dụng, đồ dùng chính trong nhà, dịch vụ khách sạn và hàng không. Những người tiếp thị sản phẩm mua sắm thường phân phối sản phẩm thông qua ít điểm bán hàng hơn nhưng hỗ trợ bán hàng nhiều hơn để giúp đỡ người tiêu dùng trong việc so sánh. Sản phẩm đặc biệt là những sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng với các đặc điểm độc đáo hay hàng hiệu mà một nhóm người mua đáng kể sẵn sàng bỏ công sức đặc biệt để mua sắm. Ví dụ như các thương hiệu và các loại xe ô tô cụ thể, thiết bị chụp ảnh giá cao, quần áo hàng hiệu, và các dịch vụ y tế hay chuyên gia pháp lý. Ví dụ như một chiếc ô tô Lamborghini là một sản phẩm đặc biệt vì người mua thường sẵn lòng vượt những chặng Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tiếp thị địa phương Bài đọc Nguyên lý marketing Ch 8 Sản phẩm, dịch vụ và chiến lược thương hiệu Kotler & Amstrong 7 Biên dịch: Kim Chi đường dài để mua về. Người mua thường không so sánh các sản phẩm đặc biệt. Họ chỉ đầu tư thời gian cần thiết để tìm kiếm những nhà buôn cung ứng sản phẩm mong muốn. Sản phẩm không tìm kiếm là những sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng mà người tiêu dùng không biết hoặc biết nhưng không nghĩ đến việc mua sắm. Phần lớn những phát minh mới là những sản phẩm không tìm kiếm mãi cho đến khi người tiêu dùng trở nên nhận thức được chúng thông qua quảng cáo. Ví dụ kinh điển của sản phẩm và dịch vụ có biết nhưng không tìm kiếm là bảo hiểm nhân thọ, dịch vụ mai táng chuẩn bị trước, và hiến máu cho Hội Chữ thập đỏ. Theo đúng bản chất, các sản phẩm không tìm kiếm đòi hỏi nhiều công sức quảng cáo, bán hàng trực tiếp, và các nỗ lực tiếp thị khác Sản phẩm công nghiệp Sản phẩm công nghiệp là những sản phẩm được mua để tiếp tục chế biến hay sử dụng trong công việc kinh doanh. Như vậy, sự phân biệt giữa sản phẩm tiêu dùng và sản phẩm công nghiệp là dựa vào mục đích mua sản phẩm. Nếu một người tiêu dùng mua một chiếc máy cắt cỏ để sử dụng quanh nhà, chiếc máy là sản phẩm tiêu dùng. Nếu chính người tiêu dùng ấy mua cũng chính chiếc máy ấy để sử dụng trong việc kinh doanh phong cảnh, chiếc máy là một sản phẩm công nghiệp. Ba nhóm sản phẩm và dịch vụ công nghiệp bao gồm nguyên liệu và linh kiện, hàng hoá vốn, và vật tư và dịch vụ. Nguyên liệu và linh kiện bao gồm nguyên liệu thô, nguyên liệu đã qua chế biến và linh kiện. Nguyên liệu thô bao gồm hàng nông sản (lúa mì, bông, gia súc, trái cây, rau củ) và các sản phẩm tự nhiên (cá, gỗ, dầu thô, quặng sắt). Nguyên liệu đã qua chế biến và linh kiện bao gồm các thành phần nguyên liệu (sắt, sợi vải, xi măng, dây thép) và thành phần linh kiện (các động cơ nhỏ, lốp xe, vật đúc). Hầu hết các nguyên liệu đã qua chế biến và linh kiện được bán trực tiếp cho người sử dụng công nghiệp. Giá cả và dịch vụ thường là những yếu tố tiếp thị chính; thương hiệu và quảng cáo có xu hướng kém quan trọng hơn. Hàng hoá vốn là những sản phẩm công nghiệp giúp người mua sản xuất và hoạt động, bao gồm thiết bị lắp đặt và các thiết bị phụ tùng. Thiết bị lắp đặt bao gồm những vật mua chính như nhà cửa (nhà xưởng, văn phòng) và thiết bị cố định (máy phát điện, máy khoan, hệ thống máy tính lớn, thang máy). Thiết bị phụ tùng bao gồm các thiết bị sản xuất nhỏ gọn và công cụ (công cụ cầm tay, xe nâng) và thiết bị văn phòng (máy tính, máy fax, bàn làm việc). Chúng có tuổi thọ ngắn hơn thiết bị lắp đặt và chỉ nhằm bổ sung cho quá trình sản xuất. Nhóm sản phẩm kinh doanh cuối
Tài liệu liên quan