ĐINH VĂN TUYỀN – Sinh truỏng của bê lai ... 
 5
SINH TRƯỞNG CỦA BÊ LAI ½ RED ANGUS VÀ BÊ LAI SIND NUÔI TẬP TRUNG 
BÁN CHĂN THẢ TẠI ĐĂK LĂK 
Đinh Văn Tuyền*, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Tấn Vui và Hoàng Công Nhiên 
Bộ môn Dinh dưỡng - Thức ăn và Đồng cỏ 
*Tác giả liên hệ: Đinh văn Tuyền- Bộ môn Dinh dưỡng - Thức ăn và Đồng cỏ 
Viện Chăn nuôi - Thụy phương - Từ Liêm - Hà Nội 
Tel: (04) 38.571.692/ 0982.932.269; Fax: (04) 38.389.775; Email: 
[email protected] 
ABSTRACT 
Growth performance of Red Angus x Lai sind crossbred and Laisind cattle in a semigrazing system 
 in Dak lak 
Growth curves of Lai Sind and Red Angus x Lai Sind crossbred cattle were depicted using data collected from 6 
female and 4 male calves of Red Angus x Lai Sind crossbred and 4 male and 4 female calves of the Lai Sind 
breed over a period from birth to 21 months old. The calves were weaned at 6 months old and put into a semi-
grazing program at a farm in Eakar district of Daklak province under which the calves were mustered to the 
pasture for grazing from 7h-10h30 in the morning and 14h-17h in the afternoon and confined in the roofed shed 
and offered concentrate supplement (approx. 1% BW) and freshly cut grass (approx. 1% BW) during the rest of 
time. Weight and conformational measurements were recorded every 3 months before weaning and monthly 
afterwards. Results showed that at 6 months old F1 crossbred Red Angus calves could weigh 116 kg; that of lai 
Sind calves 93,6 kg. When reached 12 months old F1 Red Angus bulls and heifers weghed 174-186 kg and lai 
Sind cattle 138-139 kg. Averaged liveweight of young F1 Red Angus bulls and heifers weighed 361 kg and 309 
kg at 21 months old, respectively whereas that of lai Sind bulls and heifers of the same age were only 262 and 
252 kg, respectively. Calculation of ADG showed that Red Angus x Lai Sind crossbred calves had an ADG of 
0,459 kg and that of lai Sind 0,336 kg for the period from 0-21 months of age, indicating that the growth rate of 
the Red Angus x Lai Sind crosbred calves was 36,6% higher than that of lai Sind calves. Measurments of the 
heart girth, withers height, and body length indicated that Red Angus x Lai Sind calves had a more solid 
conformation than lai Sind calves. 
Key words: calves, growth, liveweight, ADG, conformation 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển nền kinh tế trong nước, thu nhập của người 
dân cũng đã được nâng lên. Vì vậy nhu cầu về thịt trên thị trường cũng tăng lên đáng kể, đặc 
biệt là các loại thịt có hàm lượng dinh dưỡng cao như thịt bò. Trong 5 năm qua giá thịt bò loại 
1 tăng từ 45.000 đ/kg năm 2003 lên 120.000 đ/kg hiện nay. Tổng sản lượng thịt bò mới chỉ 
đáp ứng được trên 5% tổng lượng thịt tiêu thụ (Cục chăn nuôi 2006) nên tiềm năng phát triển 
chăn nuôi bò thịt là rất lớn. Đàn bò thịt sẽ tăng với tốc độ 4,8%/năm và đạt số lượng 12,5 triệu 
con vào năm 2020. Chất lượng đàn bò thịt cũng được nâng lên với tỷ lệ bò lai tăng từ 30% 
năm 2008 lên trên 50% năm 2020 (Bộ Nông nghiệp&PTNT, 2008). 
Các nghiên cứu về lai tạo và đánh giá khả năng sinh trưởng phát triển của các cặp lai giữa bò 
cái lai Sind với tinh bò đực các giống chuyên thịt ôn đới và nhiệt đới đã được triển khai từ lâu. 
Nguyễn Văn Thưởng và cs (1995) cho biết trong thời gian từ năm 1975 đến 1979 Viện Chăn 
nuôi đã tiến hành lai tạo và so sánh khả năng sinh trưởng phát triển của các con lai giữa bò 
chuyên dụng thịt Charolais, Santa Gertrudis và Limousine với bò lai Sind. Kết quả cho thấy 
cặp lai ½ Charolais có khả năng phát triển cho thịt cao hơn các cặp lai khác nuôi trong cùng 
một điều kiện. Kết quả triển khai Dự án phát triển bò thịt VIE 86/008 do UNDP tài trợ trong 
giai đoạn 1989 đến 1992: sử dụng tinh đông lạnh của các giống bò chuyên dụng thịt 
Charolais, Limousin, Simental, Hereford, Brahman lai kinh tế bò thịt với bò nền lai Sind cho 
kết luận bò lai ½ Charolais và ½ Simental cho kết quả tốt nhất, bò lai ½ Charolais có thể đạt 
VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 22-Tháng 2 - 2010 
 6 
khối lượng 375 kg lúc 24 tháng tuổi, ½ Simental đạt khối lượng 365 kg lúc 24 tháng tuổi tại 
Bảo Lộc (Nguyễn Thiện và cộng sự, 1992). Gầy đây nhất, Vũ Chí Cương (2007) đã tiến hành 
lai tạo và so sánh khả năng sinh trưởng phát triển của bê lai giữa tinh bò đực Brahman và 
Charolais với bò cái lai Sind trên địa bàn Đăk Lăk. Kết quả cho thấy bê con lai ½ Charolais 
có tốc độ sinh trưởng cao hơn đáng kể so với con lai ½ Brahman và lai Sind. Tại thời điểm 12 
tháng tuổi bê lai ½ Charolais nặng 173-193 kg trong khi bê lai ½ Brahman là 146-172 kg còn 
bê lai Sind có khối lượng 138-150 kg, chỉ tương đương 80% khối lượng bê ½ Charolais. Cho 
đến nay chưa có nghiên cứu nào nhằm đánh giá khả năng sinh trưởng của bê lai ½ Red Angus 
nuôi trong điều kiện Việt nam. Chính vì vậy, ’’Nghiên cứu nhân thuần và lai tạo giống bò 
hướng thịt chất lượng cao ở Việt Nam” chúng tôi tiến hành đề tài nhánh “Theo dõi khả năng 
sinh trưởng bê lai ½ Red Angus x Lai Sind và bê lai Sind nuôi tập trung, bán chăn thả tại Đăk 
Lăk” nhằm đánh giá, so sánh khả năng sinh trưởng của hai giống lai này khi được nuôi trong 
cùng điều kiện. 
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu gồm 10 bê lai ½ Red Angus. Trong đó, có 4 đực và 6 cái và 8 bê lai 
Sind (4 đực và 4 cái). Bê ½ Red Angus được lai tạo bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo, cho 
bò cái Lai Sind khối lượng 220 kg trở lên nuôi tại các hộ nông dân tại huyện Eakar tỉnh Đăk 
Lăk lai với tinh bò Red Angus ngoại nhập. Bê lai Sind được sinh ra bằng thụ tinh nhân tạo 
nhưng với nguồn tinh sản xuất trong nước. Tất cả bê thí nghiệm đều sinh ra trong khoảng từ 
tháng 9 đến 11/2007. Chúng được nuôi theo mẹ đến 6 tháng tuổi, trước khi chuyển về trại 
nuôi tập trung theo hình thức chăn thả (6 giờ/ngày) kết hợp bổ sung thức ăn tại chuồng. 
Thức ăn bổ sung bao gồm bột sắn, hạt bông, urea và cỏ tươi Ghi nê hoặc rơm khô. Bột sắn 
được trộn với hạt bông và urea theo tỷ lệ 50:48,5:1,5 dạng sử dụng và bổ sung cho bê ở mức 
khoảng 1% khối lượng cơ thể. Cỏ tươi cũng bổ sung hàng ngày ở mức 0,8-1% khối lượng cơ 
thể tính theo vật chất khô. Trong những ngày thiếu cỏ tươi thì rơm khô được bổ sung cùng với 
cỏ tươi để cho mức ăn vào của bê đạt xấp xỉ 1% khối lượng (theo VC khô). 
Địa điểm và thời gian nghiên cứu 
Nghiên cứu tiến hành tại trại chăn nuôi của bà Hoàng Thị Sinh tại xã Eađar huyện Eakar, tỉnh 
Đăk Lăk trong thời gian từ tháng 9/2007 đến 7/2009. 
Nội dung nghiên cứu 
Đánh giá khả năng sinh trưởng của đàn bê lai ½ Red Angus và bê lai Sind sinh ra tại Đăk Lăk 
và nuôi bán chăn thả trong điều kiện trang trại tập trung. 
Phương pháp nghiên cứu và chỉ tiêu theo dõi 
Khả năng sinh trưởng (thay đổi khối lượng sống) của bê trong thời gian trước cai sữa (nuôi tại 
các hộ gia đình) xác định thông qua cân khối lượng bằng cân đồng hồ tại thời điểm sơ sinh và 
cân điện tử đại gia súc (Rud Weigh 2000) tại thời điểm bê khoảng 3 và 6 tháng tuổi. Sau khi 
cai sữa bê được chuyển về nuôi tập trung tại trại. Khả năng sinh trưởng của bê được xác định 
bằng cách cân định kỳ 1lần/tháng bằng cân điện tử đại gia súc. Ngoài ra tại mỗi thời điểm cân 
bê cũng đồng thời tiến hành đo khối lượng bằng thước đo của Viện Khoa học Nông nghiệp 
Miền Nam nhằm xây dựng công thức hiệu chỉnh nhằm áp dụng cho việc xác định khối lượng 
bằng thước đo trên các nhóm bê lai này. 
ĐINH VĂN TUYỀN – Sinh truỏng của bê lai ... 
 7
Chỉ tiêu theo dõi sinh trưởng tương đối trình bày trong báo cáo là khối lượng cơ thể xác định 
tại các thời điểm 0, 3, 6, 9, 12, 15, 18 và 21 tháng tuổi. Còn các chỉ tiêu xác định tăng khối 
lượng tuyệt đối (g/con/ngày) được xác định cho các giai đoạn 0-6 tháng, 6-12 tháng, 12-21 
tháng và 0-21 tháng tuổi theo công thức A = 
12
12
tt
VV
 . 
Trong đó: A là tăng khối lượng trung bình ngày (g/ngày); V2 là khối lượng cơ thể cuối kỳ (kg); 
 V1 là khối lượng đầu kỳ (kg); t2 là thời gian cuối kỳ (ngày); t1 là thời gian đầu kỳ (ngày). 
Sự thay đổi kích thước một số chiều đo được xác định bằng thước dây và thước gậy chuyên 
dụng. Các chỉ tiêu này bao gồm kích thước vòng ngực, cao vây và dài thân chéo xác định tại 
các thời điểm 0, 3, 6, 9, 12, 15, 18 và 21 tháng tuổi. Chỉ tiêu vòng ngực xác định bằng thước 
dây vải sử dụng đơn vị cm, các chỉ tiêu cao vây và dài thân chéo xác định bằng thước gậy. 
Xử lý số liệu 
Phần mềm Minitab phiên bản 14.0 được sử dụng để xử lí số liệu thống kê. Các giá trị trung 
bình, giá trị cực đại cực tiểu và hệ số biến động (Cv) được xác định bằng phân tích các tham 
số thống kê (Descriptive). Sự sai khác giữa các giống hoặc giới tính trong cùng giống về một 
số chỉ tiêu được phân tích phương sai ANOVA. Thuật toán hồi qui đơn biến được sử dụng để 
xây dựng phương trình mô tả mối quan hệ giữa tuổi và khối lượng của bê lai ½ Red Angus và 
bê Laisind. 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Khả năng sinh trưởng của đàn bê lai ½ Red Angus và bê lai Sind nuôi tập trung 
Kết quả đánh giá khả năng sinh trưởng của đàn bê lai ½ Red Angus và lai Sind được trình bày 
tại Bảng 1, 2, 3 và Đồ thị 1 
Bảng 1. Khối lượng bê đực và bê cái lai qua các tháng tuổi (Mean±SD; kg) 
Lai Sind Lai ½ Red Angus 
Đực Cái Đực Cái 
n. 4 4 4 6 
Sơ sinh 22,4a±0,85 21,4a±1,80 24,2b±1,25 24,0b±1,18 
3 tháng 65,6a±6,02 58,9a±8,60 81,4b±13,45 73,1b±16,59 
6 tháng 93,6a±9,08 93,2a±11,14 115,8b±14,07 116,0b±15,64 
9 tháng 115,8a±13,85 109,5a±6,65 140,9b±5,35 132,9b15,64 
12 tháng 138,8a±16,56 138,3a±20,80 185,7b±22,90 173,8b±17,14 
15 tháng 177,2a±27,70 171,1a±24,90 229,9b±32,80 213,4b24,09 
18 tháng 217,6a±38,90 204,6a34,90 299,7b35,90 260,7c±28,90 
21 tháng 262,1a±37,60 252,4a±33,10 360,9b±49,70 309,3c±38,90 
Các giá trị trung bình trong cùng 1 hàng có chỉ số trên bằng chữ khác nhau thì khác nhau (P<0,05) 
Bảng 1cho thấy, khối lượng trung bình lúc sơ sinh của bê lai Sind và lai ½ Red Angus nuôi tại 
Earka lần lượt là 22,4 và 24,2 kg ở con đực và 21,4 và 24,0 kg ở con cái. Nhìn chung khối 
lượng sơ sinh của bê Laisind và lai ½ Red Angus tại vùng nghiên cứu cao hơn so với kết quả 
trước đây trên bê Laisind và lai ½ Charolais của Vũ Chí Cương (2007) tại Đăk Lăk, bê lai 
Sind có khối lượng sơ sinh 18,9 kg ở con đực và 16,8 kg ở con cái, còn bê lai ½ Charolais đạt 
23,9 kg ở con đực và 21,6 kg ở con cái. Khối lượng bê lai ½ Red Angus lúc 6 tháng tuổi đạt 
115,8kg ở con đực và 116,0kg ở con cái trong khi khối lượng cùng tuổi của bê Laisind là 93,2 
kg ở con đực và 93,6 kg ở con cái. 
VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 22-Tháng 2 - 2010 
 8 
Kết quả còn cho thấy, bê đực lai ½ Red Angus có khối lượng thấp hơn nhưng bê cái cao hơn 
so với khối lượng bê đực và bê cái lai ½ Charolais xác định được của Vũ Chí Cương năm 
2007 (127,5kg/đực và 103,7kg/cái) cũng như của Phạm Văn Quyến (2002) tại Bình Dương 
trên bê lai ½ Charolais. Bê lai Sind của chúng tôi cũng có khối lượng lúc 6 tháng tuổi cao hơn 
bê lai Sind của Vũ Chí Cương năm 2007 (87,3 kg/đực và 72,5kg/cái). 
Khối lượng lúc 12 tháng tuổi các nhóm bê lai Sind và lai ½ Red Angus nuôi tập trung tại Eaka 
lần lượt là 138,3, 185,7 kg ở con đực và 138,8, 173,8 kg ở con cái trong khi khối lượng lúc 18 
tháng tuổi là 217,6, 299,7 kg ở con đực và 204,6, 260,7 kg ở con cái. Như vậy so với kết quả 
của Vũ Chí Cương (2007), khối lượng bê lai Sind ở cả con đực và con cái lúc 12 tháng tuổi 
trong nghiên cứu của chúng tôi đều thấp hơn. Con lai ½ Red Angus chỉ khối lượng của bê đực 
là thấp hơn còn bê cái tương đương bê lai ½ Charolais (khối lượng con đực là 193,2 và con 
cái 173,1 kg). Tuy nhiên, khối lượng bê lai Sind và ½ Red Angus lúc 18 tháng tuổi lớn hơn 
đáng kể so với khối lượng của bê tương ứng của Vũ Chí Cương (2007), (Bê lai Sind chỉ đạt 
189 kg ở con đực và 172,9 kg ở con cái còn bê lai ½ Charolais cũng có khối lượng 242,5 kg ở 
con đực và 201,9 kg ở con cái). 
Tại thời điểm 21 tháng tuổi, khối lượng của bê lai Sind đạt 262,1 kg ở con đực và 252,4 kg ở 
con cái còn bê lai ½ Red Angus đạt 360,9 kg ở con đực và 309,6 kg ở con cái. Theo báo cáo 
của Nguyễn Thiện và cs (1992) thì bò lai ½ Charolais có thể đạt khối lượng 375 kg và bò lai 
½ Simental đạt khối lượng 365 kg lúc 24 tháng tuổi khi nuôi ở vùng có khí hậu ôn đới tại Bảo 
Lộc Lâm Đồng. Theo Vũ Văn Nội và cs (1995) nếu được nuôi dưỡng chăm sóc tốt và bổ sung 
thức ăn xanh, cỏ cắt, ngọn mía và các thức ăn khác (rỉ mật, sắn lát) bê lai ½ Charolais lúc 24 
tháng tuổi tại Hà Tam-Gia Lai, Bình Định-Phú Yên đạt 249-284 kg trong khi nuôi tại Lâm 
Đồng lúc 18 tháng tuổi đạt 274,5kg. Như vậy, kết quả cho thấy bê lai ½ Red Angus nuôi tại 
ĐăkLăk có thể đạt khối lượng tương đương hoặc lớn hơn bê lai ½ Charolais và ½ Simental 
ngay cả khi các con lai này được nuôi trong điều kiện khí hậu thuận lợi hơn. 
Bảng 1 cũng cho thấy, đối với bê lai Sind khối lượng của bê đực và bê cái ở tất cả các lứa tuổi 
đều không có sự sai khác đáng kể về mặt thống kê. Bê lai ½ Red Angus, giới tính chỉ ảnh 
hưởng đáng kể khi bê đạt 18 tháng tuổi trở lên. Kết quả này khác với kết quả của một số 
nghiên cứu trước đây khi bê đực luôn có khối lượng lớn hơn bê cái cùng tuổi (Đinh Văn 
Tuyền và cộng sự, 2008). Điều này có thể giải thích là do số bê được theo dõi trong nghiên 
cứu này khá ít và có khối lượng biến động lớn, thể hiện ở giá trị hệ số biến động (SD) cao ở 
mỗi mức tuổi trình bày trong Bảng 1. 
Bảng 2. Khối lượng trung bình bê lai tại các tháng tuổi 
Tháng tuổi Tham số Lai Sind 1/2 Red Angus Chênh lệch (%) 
 n 8 10 
Sơ sinh Mean±SD 21,9a±1,41 24,1b±1,14 10,0 
3 tháng Mean±SD 62,2 a±7,99 76,4 b±15,14 24,4 
6 tháng Mean±SD 93,4 a±9,41 115,9 b±16,93 24,1 
9 tháng Mean±SD 112,6 a±10,62 136,1 b±12,76 21,6 
12 tháng Mean±SD 138,6 a±17,43 178,6 b±19,40 29,7 
15 tháng Mean±SD 174,2 a±24,62 220,0 b±27,45 27,3 
18 tháng Mean±SD 211,2a±34,90 276,3 b±36,00 32,7 
21 tháng Mean±SD 257,2a±33,20 329,9 b±48,70 30,3 
Các giá trị trung bình trong cùng 1 hàng có chỉ số trên bằng chữ khác nhau thì khác nhau (P<0,05) 
ĐINH VĂN TUYỀN – Sinh truỏng của bê lai ... 
 9
Giá trị độ lệch chuẩn dao động trong khoảng 2,61- 4,12% tại thời điểm sơ sinh; 9,7-17,18% 
lúc 6 tháng tuổi; 9,86- 15,06 % lúc 12 tháng tuổi và 12,58-14,35% lúc 21 tháng tuổi. Độ lệch 
chuẩn lớn nhất lúc bê 6 tháng tuổi phản ánh sự khác nhau trong chế độ nuôi dưỡng của các hộ 
chăn nuôi khác nhau và/hoặc chất lượng bò cái nền đã có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh 
trưởng của bê lai ở cả giai đoạn sau khi cai sữa. 
Bảng 2 và Đồ thị 1 cho thấy bê lai ½ Red Angus luôn có khối lượng trung bình (tính chung cả 
đực và cái) cao hơn đáng kể bê lai Sind ở tất cả thời điểm theo dõi (P<0,05). Tại thời điểm sơ 
sinh, khối lượng bê lai ½ Red Angus cao hơn bê lai Sind 10%; khối lượng lúc 6 tháng tuổi cao 
hơn 24,1%; lúc 12 tháng tuổi là 29,7% và 21 tháng tuổi là 30,3%. Như vậy, con lai sinh ra 
giữa bò cái Lai Sind với tinh bò đực Red Angus ngoại nhập có khối lượng và tốc độ sinh 
trưởng cao hơn đáng kể so với bê lai Sind. Trong đó, mức chênh lệch khối lượng cao nhất đạt 
được lúc 18 tháng tuổi khi bê lai ½ Red Angus có khối lượng cao hơn bê lai Sind 32,7%. 
Đồ thị 1: Mối qua hệ giữa tuổi và khối lượng bê lai thí nghiệm trong giai đoạn 0-630 ngày tuổi 
Phương trình hồi qui trình bày trên Đồ thị 1 có hệ số xác định rất cao (R2 = 0,9911 đối với 
phương trình áp dụng cho bê lai ½ Red Angus và 0,9908 với phương trình cho bê lai Sind) và 
đáng tin cậy (P<0,05) cho thấy khối lượng bê có tương quan rất chặt chẽ với tuổi (tính theo 
ngày) của chúng. Do đó, có thể sử dụng các phương trình này để ước tính khối lượng bê lai 
Sind và lai ½ Red Angus nuôi trong các điều kiện chăn nuôi tương tự như trong nghiên cứu 
này tại Đăk Lăk. 
Đồ thị 2. Mối quan hệ giữa khối lượng cân và khối 
lượng đo của bê lai Sind 
Đồ thị 3. Mối quan hệ giữa khối lượng cân và khối 
lượng đo của bê lai 1/2 Red Angus 
So sánh khối lượng thực cân được và khối lượng xác định bằng thước đo của Viện khoa học 
Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam cho thấy giá trị trung bình khối lượng cân thấp hơn đáng kể 
so với xác định khối lượng đo bằng thước đo (P<0,001). Do đó, chúng tôi đã tiến hành xây 
VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 22-Tháng 2 - 2010 
 10 
dựng phương trình hồi qui giữa các giá trị cân và giá trị đo cho từng nhóm bê lai để có thể 
hiệu chỉnh khối lượng bê được xác định bằng thước đo khối lượng. Các phương trình hồi qui 
(Đồ thị 2 và 3) đều có giá trị P<0,05 và hệ số xác định R2 cao (0,941-0,952) nên có thể áp 
dụng để xác định chính xác hơn khối lượng cơ thể bê lai Sind và lai ½Red Angus sau khi đã 
đo khối lượng bằng loại thước đo này 
Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của bê lai Sind và ½ Red Angus nuôi tại Đăk Lăk 
Tính trạng sinh trưởng tuyệt đối liên quan tới chất lượng con giống và liên quan tới chế độ 
chăm sóc nuôi dưỡng. Thông qua các chỉ tiêu khối lượng tuyệt đối hàng ngày có thể đánh giá 
khả năng sinh trưởng, hiệu quả của phương thức nuôi dưỡng cũng như tiềm năng nuôi thịt của 
phẩm giống. 
Bảng 3. Tăng khối lượng tuyệt đối (g/con/ngày) của bò lai trong các giai đoạn tuổi khác nhau 
Lai Sind ½ Red Angus Trung bình Tháng tuổi 
Đực Cái Đực Cái ½ RedAngus Lai Sind 
0 – 6 tháng 387a±60,4 394a±56,3 501 b±82 503 b±112,4 502a±96,3 391b±54,2 
6 -12 tháng 315 a±33,5 238b±25,3 327 a±65,7 325 a±38,5 326a±47,6 276a±49,4 
12 -21 tháng 248 a±55,1 247 a±101,8 382b±191,8 316c±154,6 343a±163,5 247b±75,8 
0-21 tháng 335a±79,9 337a±100,5 486b±158,9 440b±67,6 459a±107,3 336b±84 
Các giá trị trung bình trong cùng 1 hàng có chỉ số trên bằng chữ khác nhau thì khác nhau (P<0,05) 
Bảng 3 cho thấy, trong điều kiện chăn nuôi tại trang trại tập trung tăng khối lượng của bê lai 
Sind trong giai đoạn từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi là 387 g/ngày ở con đực và 394g/ngày ở con 
cái. Trong giai đoạn 6 đến 12 tháng tuổi tăng khối lượng trung bình đạt 315 g và 238g/ngày 
đối với bê đực và bê cái tương ứng. Mức tăng khối lượng trong giai đoạn từ 12 đến 21 tháng 
tuổi giảm thấp hơn còn 248g/ngày đối với bê đực và 247g/ngày đối với bê cái. Tính chung 
cho cả giai đoạn từ sơ sinh đến 21 tháng tuổi bê lai Sind tăng khối lượng trung bình 335-
337g/ngày và không có sự sai khác giữa bê đực và bê cái. 
Tăng khối lượng tuyệt đối của bê lai ½ Red Angus đạt mức trung bình 501-503 g/ngày trong 
giai đoạn từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi. Tốc độ tăng khối lượng giảm đi ở giai đoạn tiếp theo đạt 
từ 325 g/ngày (con đực) đến 327 g/ngày (con cái). Trong giai đoạn từ 12 đến 21 tháng tuổi bê 
đạt tăng khối lượng trung bình 382 g/ngày ở con đực và 316 g/ngày ở con cái. Trung bình 
tăng khối lượng cho cả giai đoạn từ sơ sinh đến 21 tháng tuổi của bê lai ½ Red Angus đạt mức 
486 g/ngày đối với bê đực và 440 g/ngày đối với bê cái. So sánh tăng khối lượng tuyệt đối 
giữa bê lai Sind và lai ½ Red Angus cho thấy bê lai ½ Red Angus có tốc độ tăng khối lượng 
cao hơn đáng kể (P<0,05) so với bê lai Sind ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng (Bảng 3). 
Mức tăng khối lượng tuyệt đối của đàn bê theo dõi trong nghiên cứu này đều tương đương (bê 
lai Sind) hoặc cao hơn (bê lai ½ Red Angus) so với của Vũ Chí Cương (2007) trên đàn bê lai 
Sind và lai ½ Charolais nuôi trong nông hộ tại cùng địa phương. Kết quả của các tác giả này 
cho thấy bê lai Sind đạt tăng khối lượng trung bình 289-317 g/ngày và bê lai ½ Charolais 332-
405 g/ngày trong giai đoạn từ sơ sinh đến 18 tháng tuổi. Ngoài ra giá trị độ lệch chuẩn của chỉ 
tiêu tăng khối lượng tuyệt đối cao ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng cho thấy tốc độ tăng khối 
lượng biến động rất lớn giữa các cá thể trong cùng nhóm giống. 
Thay đổi kích thước của bê lai Sind và ½ Red Angus nuôi tại Đăk Lăk 
Kết quả xác định kích thước các chiều đo của bê thí nghiệm trình bày ở Bảng 4 cho thấy nhìn 
chung bê lai Sind có kích thước vòng ngực và dài thân chéo nhỏ hơn bê lai ½ Red Angus ở tất 
ĐINH VĂN TUYỀN – Sinh truỏng của bê lai .