Đề tài Tại sao Hồ Chí Minh lại chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Sau hơn 20 năm đổi mới,chúng ta đó thu được những kết quả hết sức đáng khích lệ: Thu nhập quốc dân năm sau cao hơn năm trước, tăng trưởn kinh tế ổn định. Việt Nam ta dần thoát ra khỏi những nước kém phát triển, và tiến lên cùng với sự phát triển của thế giới. Sở dĩ có được những thành quả như vậy là nhờ sự đột phá trong tu tưởng, sự đổi mới tại đại hội Đảng khóa VI (1986). Khi mà chúng ta đó quyết định xóa bỏ nền sản xuất quan liêu bao cấp và chuyển sang nền sản xuất kinh tế thị trường hàng hóa nhiều thành phần. Đây được coi là một bước ngoặt có tính chất lớn lao quyết định tới vận mệnh của đất nước. Nhưng không phải mói đến đại hội VI (1986) của Đảng mới suất hiên tư tưởng này mà cách đó hơn 40 năm, vào năm 1925 Hồ Chí Minh đó chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỡ quỏ độ lờn chủ nghĩa xó hội. Vào thời điểm đó thỡ đây được coi là một quan điểm rất mới và không được mọi người chấp nhận. Nhưng sau hơn 40 năm tư tưởng của người đó trở thành hiện thực và cho đến ngày nay tư tưởng đó vẫn cũn nguyờn giỏ trị và nú được coi là kim chỉ nam cho định hướng phát triển của Đảng và nhà nước ta. Nhưng để hiểu được tại sao Bác lại chủ chương làm như vậy trong thời kỡ đó lại không phải là điều đơn giản. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay hiểu và làm theo tấm gương của chủ tịch Hồ Chí Minh là điều vô cùng quan trọng. Chính vỡ vậy em đó chọn đề tài “Tại sao Hồ Chí Minh lại chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỡ quỏ độ lên Chủ Nghĩa Xó Hội ở Việt Nam.”làm đ ề tài nghiên cứu.

pdf15 trang | Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2234 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tại sao Hồ Chí Minh lại chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
z LUẬN VĂN: Tại sao Hồ Chí Minh lại chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỡ quỏ độ lên Chủ Nghĩa Xó Hội ở Việt Nam A: Lời nói đầu. Sau hơn 20 năm đổi mới,chúng ta đó thu được những kết quả hết sức đáng khích lệ: Thu nhập quốc dân năm sau cao hơn năm trước, tăng trưởn kinh tế ổn định. Việt Nam ta dần thoát ra khỏi những nước kém phát triển, và tiến lên cùng với sự phát triển của thế giới. Sở dĩ có được những thành quả như vậy là nhờ sự đột phá trong tu tưởng, sự đổi mới tại đại hội Đảng khóa VI (1986). Khi mà chúng ta đó quyết định xóa bỏ nền sản xuất quan liêu bao cấp và chuyển sang nền sản xuất kinh tế thị trường hàng hóa nhiều thành phần. Đây được coi là một bước ngoặt có tính chất lớn lao quyết định tới vận mệnh của đất nước. Nhưng không phải mói đến đại hội VI (1986) của Đảng mới suất hiên tư tưởng này mà cách đó hơn 40 năm, vào năm 1925 Hồ Chí Minh đó chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỡ quỏ độ lờn chủ nghĩa xó hội. Vào thời điểm đó thỡ đây được coi là một quan điểm rất mới và không được mọi người chấp nhận. Nhưng sau hơn 40 năm tư tưởng của người đó trở thành hiện thực và cho đến ngày nay tư tưởng đó vẫn cũn nguyờn giỏ trị và nú được coi là kim chỉ nam cho định hướng phát triển của Đảng và nhà nước ta. Nhưng để hiểu được tại sao Bác lại chủ chương làm như vậy trong thời kỡ đó lại không phải là điều đơn giản. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay hiểu và làm theo tấm gương của chủ tịch Hồ Chí Minh là điều vô cùng quan trọng. Chính vỡ vậy em đó chọn đề tài “Tại sao Hồ Chí Minh lại chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỡ quỏ độ lên Chủ Nghĩa Xó Hội ở Việt Nam.”làm đề tài nghiên cứu. B: Nội dung. 1: Cơ sở hỡnh thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. 1.1: Theo lý luận của chủ nghĩ Mac- lenin. Hồ Chính Minh luôn coi chủ nghĩa Mỏc-Lờnin là “cẩm nang thần kỳ”, vỡ vậy học thuyết kinh tế mỏc xớt, đặc biệt là chính sách kinh tế mới của Lênin luôn được Người quan tâm, tiếp thu và vận dụng vào chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam. Mụ hỡnh chớnh sỏch kinh kế mới của Lênin là sự đổi mới của Lênin cả về phương diện lý luận và chỉ đạo thực tiễn. Điều đó có thể hiện ở nội dung, trong đó có nội dung quan trọng về sở hữu và các thành phần kinh tế. Theo V.I.Lênin, đối với các nước kinh tế kém phát triển đi lên chủ nghĩa xó hội mặc dù có nhứng đặc điểm khác nhau thỡ khụng thể xoỏ bỏ ngay cỏc hỡnh thức sở hữu và cỏc thành phần kinh tế, phải sử dụng ngay cả sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xó hội. Trong chớnh sỏch kinh tế mới của Lờnin chủ trương không nôn núng xoỏ bỏ cỏc thành phần kinh tế, khụng trực tiếp chuyển sang nền kinh tế xó hội chủ nghĩa ngay được mà phải có một thời kỳ quá độ tương ứng với nó là sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Như vậy sự tồn tại của các thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan tạo nên một cơ cấu kinh tế thống nhất trong thời kỳ quá độ. Với quan điểm đúng đắn đó đó soi sỏng cho Hồ Chớ Min cú được nhận thức về tính tất yếu sự tồn tại các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá đội đi lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam. Năm 1925 trong soạn thảo nghị quyết cho Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên ở Quảng Châu, Hồ Chí Minh đó nờu lờn đường lối kinh tế của Việt Nam độc lập trong tương lai là “tân kinh tế chính sách” tức là theo chính sách kinh tế mới của Lênin. 1.2: Cơ sở thực tiễn. Dựa trên những tư tưởng của C.Mác và Ăng ghen về chủ nghĩa xó hội, sau cỏch mạng thỏng 10/1917, V.I.Lờ nin đó vận dụng vào xõy dựng chủ nghĩa xó hội ở Nga thụng qua 2 mụ hỡnh: mụ hỡnh chớnh sỏch cộng sản thời chiến và mụ hỡnh chớnh sỏch kinh tế mới. Mụ hỡnh chính sách cộng sản thời chiến, đây là mô hỡnh xõy dựng chủ nghĩa xó hội trong điều kiện có chiến tranh chống bọn bạch vệ và sự can thiệp của 14 nước đế quốc, do vậy chính sách cộng sản thời chiến được tiến hành. Đó là giải pháp nhằm giải quyết mục tiêu trước mắt của chính quyền Xô Viết. Sau hơn ba năm thực hiện chính sách cộng sản thời chiến, V.I.Lênin và Đảng cộng sản Nga đó chiến thắng được thù trong giặc ngoài, giữ vững được chính quyền Xô Viết. Nhưng khi chấm dứt chiến tranh, chính sách cộng sản thời chiến khụng cũn phự hợp nữa, nú bộc lộ nhiều tiờu cực, kỡm hóm sản xuất, triệt tiờu động lực kinh tế, dẫn tới nền kinh tế khủng khoẳng, đời sống nhân dân khó khăn. Trong bối cảnh đó buộc Lênin phải thay đổi mô hỡnh chớnh sỏch cộng sản thời chiến bằng mụ hỡnh chính sách kinh tế mới. Mụ hỡnh chớnh sỏch kinh kế mới của Lờnin là sự đổi mới của Lênin cả về phương diện lý luận và chỉ đạo thực tiễn. Điều đó có thể hiện ở nội dung, trong đó có nội dung quan trọng về sở hữu và các thành phần kinh tế. Theo V.I.Lênin, đối với các nước kinh tế kém phát triển đi lên chủ nghĩa xó hội mặc dự cú nhứng đặc điểm khác nhau thỡ khụng thể xoỏ bỏ ngay cỏc hỡnh thức sở hữu và cỏc thành phần kinh tế, phải sử dụng ngay cả sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xó hội. Trong chính sách kinh tế mới của Lênin chủ trương không nôn nóng xoá bỏ các thành phần kinh tế, không trực tiếp chuyển sang nền kinh tế xó hội chủ nghĩa ngay được mà phải có một thời kỳ quá độ tương ứng với nó là sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế. 2: Quan điểm về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của Hồ Chí Minh. 2.1: Tính tất yếu xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần. Xuất phát từ đặc thù dân tộc đi lên xây dựng chủ nghĩa xó hội từ trỡnh độ lực lượng sản xuất thấp, nền kinh tế đan xen nhiều loại hỡnh, hỡnh thức sở hữu khỏc nhau. Mặc dự, sở hữu tập thể là hỡnh thức sở hữu cơ bản của nền kinh tế xó hội chủ nghĩa. Hồ Chớ Minh khẳng định: Đường lối cải tạo xó hội chủ nghió của Đảng đối với nông nghiệp là đưa nông dân làm ăn riêng lẻ đi dần từ tổ đổi công (có mầm mống xó hội chủ nghĩa) tiến lờn hợp tỏc xó cấp thấp (nửa xó hội chủ nghĩa) rồi tiến lờn hợp tỏc xó bậc cao (xó hội chủ nghĩa). Tuy nhiờn, Hồ Chớ Minh cũn thừa nhận sự tồn tại khỏch quan, tất yếu của cỏc hỡnh thức sở hữu khụng xó hội chủ nghĩa Người nhận định. Trong nước ta hiện nay có những hỡnh thức sở hữu chớnh về tư liệu sản xuất như: 1. Sở hữu nhà nước tức là sở hữu toàn dân 2. Sở hữu của hợp tỏc xó tức là sở hữu tập thể của nhõn dõ lao động 3. Sở hữu của người lao động riêng lẻ 4. Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản Từ việc tồn tại nhiều hỡnh thức sở hữu, Hồ Chớ Minh cho rằng việc tồn tại nhiều thành phần kinh tế là yếu tố khỏch quan của nền kinh tế Việt Nam: Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xó sản xuất theo nguyờn tắc tự nguyện. Cũn “đối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xoá bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo xó hội chủ nghĩa bằng hỡnh thức cụng tư hợp doanh và nhưng hỡnh thức cải tạo khác”. Sự tác động giữa các thành phần kinh tế trong một cơ cấu kinh tế quá độ thống nhất chi phối xu hướng vận động của kinh tế cá thể và kinh tế tư bản chủ nghĩa. Con đường tất yếu của kinh tế cá thể, tiểu thương, tiểu thủ là hỡnh thức cỏc hợp tỏc xó sản xuất để hoà nhập vào hỡnh thức sở hữu xó hội chủ nghĩa, cũn đối với các nhà tư bản, thông qua các hỡnh thức chủ nghĩa tư bản nhà nước, dần dần cải tạo theo hướng xó hội chủ nghĩa – xu hướng tiến bộ, bảo đảm tốt nhất cho lợi ích của họ. Trên thực tế, ngay sau khi miền Bắc dành được độc lập, Hồ Chí Minh đó chủ trương thực hiện nhất quán một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và ít nhiều thu được thành tựu khi đó tập chung tối đa các nguồn lực đất nước thực hiện thành công mọi mục tiêu cách mạng. 2.2: Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần Nhận thức sõu sắc chủ nghĩa Mỏc - Lờnin về những nguyờn lý kinh tế, Hồ Chớ Minh đó vận dụng sỏng tạo vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam để xác định chiến lược xây dựng phát triển kinh tế của đát nước. Năm 1953 mặc dù cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ đang ở giai đoạn quyết liệt, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam là chiến thắng đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ giải phóng đất nước. Song, Hồ Chí Minh vẫn giành thời gian để viết tác phẩm “Thường thức chính trị”, trong đó trỡnh bày những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó , có cả những quan điểm về các thành phần kinh tế. Trước hết Hồ Chí Minh nêu rừ “Hiện nay kinh tế nước ta (vùng tự do) có những thành phần kinh tế sau: 1. Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. 2. Kinh tế quốc doanh cú tớnh chất chủ nghĩa xó hội. Vỡ tài sản cỏc xớ nghiệp ấy là của chung của nhõn dõn, của Nhà nước, chứ không phải của riêng. Trong các xí nghiệp quốc doanh thỡ xưởng trưởng, công trỡnh sư và công nhân đều có quyền tham gia quản lý, đều là chủ nhõn. Việc sản xuất thỡ do sự lónh đạo thống nhất của Chính phủ nhân dân. 3. Cỏc hợp tỏc xó tiờu thụ và hợp tỏc xó cung cấp, cú tớnh chất nửa chủ nghĩa xó hội. Nhõn dõn gúp nhau để mua những thứ mỡnh cần dùng, hoặc để bán những thứ mỡnh sản xuất khụng phải kinh qua cỏc người con buôn, không bị họ bóc lột. Các công hội đổi công ở nông thôn, cũng là một loại hợp tác xó. 4. Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghiệ, họ thường tự túc ít có gỡ bỏn và cũng ớt khi mua gỡ. Đó là một thứ kinh tế lạc hậu. 5. Kinh tế tư nhân tư bản. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh tế. 6. Kinh tế tư bản quốc gia là Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do Nhà nước lónh đạo. Trong loại này, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản. Tư bản của Nhà nước là chủ nghĩa xó hội.’’(Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà XBCTQG, 2000, T.7, Tr.221). Với sáu thành phần kinh tế tồn tại trong vùng tự do của nước ta lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đó phõn tớch rất rừ vai trũ của từng thành phần kinh tế này tồn tại trong vùng tự do (khi đất nước chưa được giải phóng), khi chúng ta chuyển sang thời kỳ xây dựng đất nước theo hướng xây dựng nền dân chủ mới thỡ thành phần kinh tề này khụng tồn tại nữa, nú chỉ cũn là tàn dư. Tuy vậy, để thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh không chủ trương xoá bỏ thành phần kinh tế này một cách đơn giản mà vận động họ tự nguyện từ bỏ địa vị kinh tế cũ, tích cực tham gia đóng góp cho kháng chiến. Rất tiếc, trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc năm 1955-1956 những tư tưởng này không được chuyển hoá thành những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, do đó dẫn đến sai lầm và hậu quả nghiêm trọng. Thành phần kinh tế quốc doanh theo Hồ Chớ Minh thỡ đây là thành phần kinh tế cơ bản, quan trọng nhất vỡ nú “cú tớnh chất chủ nghĩa xó hội, vỡ tài sản của cỏc xớ nghiệp ấy là của chung của nhõn dõn, của Nhà nước chứ không phải của riêng. Trong xí nghiệp quốc doanh thỡ xưởng trưởng, công trỡnh sư và công nhân đều có quyến tham gia quản lý, đều là chủ nhõn, việc sản xuất thỡ do sự lónh đạo thống nhất của chính phủ nhân dân” (T.7, Tr221). Hồ Chí Minh cũn chỉ ra vị trớ quan trọng của kinh tế quốc doanh “…cụng tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là công, nó là nền tảng và sức lónh đạo của kinh tế dân chủ mới, cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lận thuế thỡ phải trừng trị” (T.7, Tr 221). Đối với hợp tác xó đây là vấn đề được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và đề cập từ rất sớm. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người cho rằng “hợp tác xó là “gúp gạo thổi cơm chung” cho khỏi hao của tốn công, lại có nhiều phần vui vẻ” (T2, Tr.313). Trong “Thưởng thức chính trị” Hồ Chí Minh đó coi “hợp tỏc xó tiờu thụ và hợp tỏc xó cung cấp cú tớnh chất nửa chủ nghĩa xó hội, nhõn dõn gúp nhau để mua những thứ mỡnh cần dựng hoặc bỏn những thứ mỡnh sàn xuất khụng phải kinh qua cỏc người con buôn, không bị bóc lột. Các hộ đổi công ở nông thôn cũng là một loại hợp tỏc xó” (T.7, Tr.221). Để thành lập các hợp tác xó phải trờn nguyờn tắc tổ chức và nhận thức rừ: tổ đổi công, hợp tác xó là phải tự nguyện nghĩa là tuyờn truyền giải thớch ai muốn vào thỡ vào khụng phải nắm cổ kộo người ta vào. Tuy nhiên, những quan niệm ban đầu của Hồ Chí Minh về hợp tác xó vẫn cũn đơn giản, phiến diện. Nhưng dù sao trong bối cảnh xây dựng chủ nghĩa xó hội chưa phải là nhiệm vụ trực tiếp thỡ những quan niệm của Hồ Chớ Minh về hợp tỏc xó vẫn mang tớnh độc lập và sáng tạo cao. Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ, Người đó phõn tớch thành phần kinh tế này “Họ thường tự túc, ít có gỡ bỏn và cũng ớt khi mua gỡ. Đó là một kinh tế lạc hậu”. Song thành phần kinh tế này “đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà” (T.7, Tr.222) mặc dù thành phần kinh tế này bé nhỏ, lạc hậu và năng suất thấp. Về kinh tế tư bản tư nhân, Hồ Chí Minh chỉ rừ “Họ búc lột cụng nhõn nhưng đồng thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh tế. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho xây dựng nước nhà. Vỡ vậy chớnh phủ phải bảo vệ quyền lợi của cụng nhõn. Đồng thời vỡ vậy lợi ớch lõu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, khụng yờu cầu quỏ mức” (T.2, Tr.222). “Kinh tế tư bản quốc gia là nhà nước là nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do nhà nước lónh đạo. Trong loại này, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản, tư bản của nhà nước là chủ nghĩa xó hội”. Đến năm 1959, trong báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I, Hồ Chí Minh viết “Đối với những nhà tư bản công thương, nhà nước không xoá bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế nhà nước. Đồng thời, nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xó hội bằng hỡnh thức cụng tư hợp doanh và những hỡnh thức cải tạo khỏc” (T.9, Tr.589). Trên cơ sở phân tích các thành phần kinh tế ở vùng tự do như trên, Hồ Chí Minh cho rằng: Để đẩy mạnh sản xuất, tạo ra nhiều của cải cho xó hội, cần phải có chính sách phù hợp đối với các thành phần kinh tế. Các chính sách của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đó có thể khái quát, xác định trên 4 mặt chính: 1. Công tư đều có lợi, kinh tế quốc doanh là công. Phải ra sức ủng hộ nó phát triển, trừng trị kẻ phá hoại, trộm cắp, trốn thuế… Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ, cần phải phục tùng sự lónh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân. 2. Chủ thợ đều lợi. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên. 3. Công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ cần dùng khác, để cung cấp cho nông dân. Nông dân thỡ ra sức tăng gia sản xuất, để cung cấp lương thực và các thứ nguyên liệu cho công nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên minh giữa công nông. 4. Lưu thông trong ngoài. Ta ra sức khai lâm thổ sản để bán cho các nước bạn và để mua những thứ ta cần dùng. Các nước bạn mua những thứ ta đưa ra và bán cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn nhau rất có lợi cho kinh tế ta. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa, bỡnh đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trũ chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trũ quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. 3 : Thực tiễn việc xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tại Việt Nam. 3.1 : Quỏ trỡnh nhận thức xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ra khỏi chiến hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, cả dân tộc Việt Nam bừng bừng khí thế bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng, tái thiết đất nước. Cũng giống như nhiều quốc gia khác, ngoài việc phải nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, Việt Nam cũng đứng trước nhiều cơ hội để xây dựng một nền kinh tế vững mạnh. Tuy nhiên, việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế lúc đó lại không đạt kết quả như mong muốn. Nền kinh tế không những không có dấu hiệu tăng trưởng, thậm chí đó bộc lộ một số nhược điểm quan trọng. Nhiều chỉ tiêu kinh tế đưa ra không đạt, sản xuất trong nước không phát triển, lương thực, thực phẩm trở nên khan hiếm, không có lưu thông, lạm phát tăng cao…bắt đầu những dấu hiệu của sự khủng hoảng. Sau một thời gian dài nghiờn cứu lý luận và khảo nghiệm thực tiễn, cũng như đánh giá xu thế phát triển chung của nền kinh tế. Đảng Cộng sản Việt Nam đó từng bước trưởng thành về mặt tư duy, có những nhận thức mới về lý luận kinh tế. Đặc biệt là việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế. Bắt đầu bằng Đại hội VI (12/1986), Đảng xác định : thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hoạch toán kinh doanh xó hội chủ nghĩa đúng nguyên tắc tập chung dân chủ. Đến Đại hội VII (6/1991) việc xác nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được khẳng định rừ nột: Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp. Các hỡnh thức có thể hỗn hợp đan kết với nhau hỡnh thành cỏc tổ chức kinh doanh đa dạng. Các doanh nghiệp không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bỡnh đẳng trước pháp luật. Đại hội VIII (6/1996) cho rằng: Phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xó hội chủ nghĩa. Đại hội đồng thời xác nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác mà nũng cốt là cỏc hợp tỏc xó; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân. Đến Đại hội IX (4/2001) Đảng chủ trương: thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xó hội chủ nghĩa. Đó là mô hỡnh kinh tế tổng quỏt của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội. Đảng cũng đồng thời xác định các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ bao gồm: Kinh tế Nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản Nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đây được coi là một sự nhất quán trong việc quay trở lại vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. 3.2: Các biện pháp giúp phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. Với vai trũ chủ đạo của nền kinh tế và khẳng định tính ưu việt của kinh tế xó hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm gây dựng. Hiện nay, Đảng chủ trương phát triển doanh nghiệp nhà nước theo hướng hỡnh thành loại hỡnh cụng ty nhà nước đa sở hữu (công ty cổ phần, có nhiều chủ sở hữu những sở hữu nhà nước giữ vai trũ chi phối), hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực..để nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của thành phần kinh tế nhà nước. Đẩy mạnh, mở rộng việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, tạo cơ chế quản lý năng động, hiệu quả, thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài và thực hiện cổ phần hoá theo nguyên tắc thị trường. Nhà nước giữ cổ phần chi phối, đảm bảo những cân đối lớn của nề kinh tế. Chuyển các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang hỡnh thức cụng ty cổ phần, cụng ty trỏch nhiệm hữu hạn một hoặc nhiều thành viờn mà chủ sở
Tài liệu liên quan