Trong điều kiện hiên nay, do sự phát triển không ngừng của cách mạng khoa học 
kỹ thuật và công nghệ, đòi hỏi phải tăng cường chức năng kinh tế, xã hội của nhà 
nước.Để thực hiện các chức năng đó, Nhà nước cần phải sử dụng các công cụ khác nhau 
để tác động đến nền kinh tế, nhằm thoả mãn các nhu cầu xã hội.
Việc tăng cường vai trò kinh tế, xã hội của nhà Nước dẫn  đến tốc  độ chi tiêu của 
Nhà nước ngày càng tăng lên, điều  đó tất yếu  đòi hỏi Nhà nước phải mở rộng quỹ tài 
chính của mình. Quỹ tài chính của Nhà nước được hình thành nên từ các nguồn thu.Trong 
đó Thuế vừa là nguồn thu chủ yếu của NSNN, vừa là một công cụ  đắc lực  để quản lí nền 
kinh tế. Đặc biệt là thuế GTGT.
Thuế GTGT  được áp dụng ở Việt Nam từ ngày 1/1/1999. Sau hơn hai năm thực 
hiện, ngoài những  ưu điểm giúp cho việc kiểm soát nguồn thu tương đối chặt chẽ và 
thuận lợi như : Đơn giản, dễ hiểu, có tính chất liên hoàn, tăng cường công tác hạch toán, 
kế toán tại doanh nghiệp. . . Luật thuế GTGT và quy trình quản lí thuế GTGT cũng bộc lộ 
những nhược  điểm, ảnh hưởng tới công tác kiểm soát nguồn thu, do vậy ảnh hưởng trực 
tiếp tới kế hoạch thu ngân sách của Nhà nước. Kiểm soát tốt được nguồn thu thuế GTGT 
cũng đồng nghĩa với việc tăng thu cho NSNN. 
Xuất phát từ vai trò quan trọng  đó nên việc “  Tăng cường kiểm soát nguồn thu 
thuế GTGT từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội” là đề tài được chọn trong luận án 
thạc sĩ của tôi.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 90 trang
90 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2000 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Tăng cường kiểm soát nguồn thu 
thuế GTGT từ các Doanh nghiệp 
trên địa bàn Hà nội 
Lời nói đầu 
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu 
 Trong điều kiện hiên nay, do sự phát triển không ngừng của cách mạng khoa học 
kỹ thuật và công nghệ, đòi hỏi phải tăng cường chức năng kinh tế, xã hội của nhà 
nước.Để thực hiện các chức năng đó, Nhà nước cần phải sử dụng các công cụ khác nhau 
để tác động đến nền kinh tế, nhằm thoả mãn các nhu cầu xã hội. 
Việc tăng cường vai trò kinh tế, xã hội của nhà Nước dẫn đến tốc độ chi tiêu của 
Nhà nước ngày càng tăng lên, điều đó tất yếu đòi hỏi Nhà nước phải mở rộng quỹ tài 
chính của mình. Quỹ tài chính của Nhà nước được hình thành nên từ các nguồn thu.Trong 
đó Thuế vừa là nguồn thu chủ yếu của NSNN, vừa là một công cụ đắc lực để quản lí nền 
kinh tế. Đặc biệt là thuế GTGT. 
Thuế GTGT được áp dụng ở Việt Nam từ ngày 1/1/1999. Sau hơn hai năm thực 
hiện, ngoài những ưu điểm giúp cho việc kiểm soát nguồn thu tương đối chặt chẽ và 
thuận lợi như : Đơn giản, dễ hiểu, có tính chất liên hoàn, tăng cường công tác hạch toán, 
kế toán tại doanh nghiệp. . . Luật thuế GTGT và quy trình quản lí thuế GTGT cũng bộc lộ 
những nhược điểm, ảnh hưởng tới công tác kiểm soát nguồn thu, do vậy ảnh hưởng trực 
tiếp tới kế hoạch thu ngân sách của Nhà nước. Kiểm soát tốt được nguồn thu thuế GTGT 
cũng đồng nghĩa với việc tăng thu cho NSNN. 
Xuất phát từ vai trò quan trọng đó nên việc “ Tăng cường kiểm soát nguồn thu 
thuế GTGT từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội” là đề tài được chọn trong luận án 
thạc sĩ của tôi. 
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: 
 Luận án nghiên cứu thực trạng kiểm soát nguồn thu thuế GTGT đối với các Doanh 
nghiệp trên địa bàn thành phố Hà nội. Hệ thống hoá những quan điểm mới về kiểm soát 
phù hợp với vai trò quản lí của Nhà nứớc, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm nâng 
cao hiệu quả của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT- một nguồn thu quan trọng của Nhà 
nước. 
3. Nội dung đề tài 
 Ngoài lời mở đầu và kết luận , luận án gồm 3 chương: 
Chương I: Lí luận chung về kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp 
Chương II: Thực trạng kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp trên 
địa bàn Thành phố Hà nội 
Chương III: Những giải pháp tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các 
Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội 
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài. 
 Luận án nghiên cứu việc tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các 
Doanh nghiệp thực hiện luật thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. 
Phạm vi nghiên cứu: Các doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội. 
5. Phương pháp nghiên cứu 
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - 
Lê nin, kết hợp với các phương pháp tổng hợp, phân tích và phương pháp so sánh. 
6. Những đóng góp của luận án 
 Luận án làm rõ ý nghĩa quan trọng của việc tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế 
GTGT, nêu lên thực trạng của hoạt động kiểm soát nguồn thu thuế GTGT đối với các 
Doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà nội, đồng thời nêu ra những giải pháp và kiến 
nghị có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này 
chương i 
lý luận chung về kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT từ các doanh nghiệp. 
1.1/ kiểm tra, kiểm soát trong hệ thống quản lý nhà nước. 
Kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT là một trong những hoạt động quản lý của Nhà 
nước. Do vậy để hiểu được khái niệm về kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT, chúng ta phải 
xuất phát từ quản lý nói chung và quá trình quản lý của Nhà nước nói riêng. 
1.1.1 - Những vấn đề chung về quản lý. 
Một cách chung nhất, quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các 
mục tiêu đã định trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất. 
Quá trình quản lý bao gồm 4 giai đoạn cơ bản: 
Thứ nhất: trên cơ sở dự báo về các nguồn lực hiện có và các nguồn lực tiềm năng, 
người quản lý xác định các mục tiêu của quản lý. Đây là giai đoạn định hướng. 
Thứ hai: Xây dựng các chương trình, các kế hoạch để đạt được mục tiêu của quản 
lý. ở giai đoạn này, người quản lý phải đưa ra các quyết định cụ thể để tổ chức thực hiện 
với những công cụ, các biện pháp, các chính sách.v...v... 
Thứ ba: Giai đoạn tổ chức thực hiện. Trong giai đoạn này, cần kết hợp các nguồn 
lực theo một phương án tối ưu nhất, sử dụng các quyết định quản lý một cách hiệu quả 
nhất nhằm đạt được kết quả tối ưu như mục tiêu đã đặt ra. 
Thứ tư: là giai đoạn đánh giá kết quả hoạt động. Giai đoạn này rất quan trọng vì 
các thông tin thu được sẽ cho biết các kết quả đạt được có thoả mãn các mục tiêu của 
người quản lý hay không, từ đó người quản lý có thể có những điều chỉnh cần thiết. 
Trong suốt quá trình quản lý, kiểm tra luôn gắn kết với các giai đoạn của quản lý. 
ở giai đoạn định hướng cần có những dự báo về nguồn lực và mục tiêu cần và có thể đạt 
tới, kiểm tra lại các thông tin về nguồn lực và mục tiêu, xây dựng các chương trình, kế 
hoạch...Sau khi các chương trình, kế hoạch đã được kiểm tra có thể đưa ra các quyết định 
cụ thể để tổ chức thực hiện. ở giai đoạn tổ chức thực hiện, cần kết hợp các nguồn lực theo 
phương án tối ưu, đồng thời thường xuyên kiểm tra diễn biến và kết quả của các quá trình 
để đIều hoà các mối quan hệ, điều chỉnh các định mức và mục tiêu trên quan điểm tối ưu 
hoá kết quả hoạt động. 
Như vậy, kiểm tra không phải là một giai đoạn hay một pha của quản lý mà nó 
được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình này. Bởi vậy, kiểm tra là một chức 
năng của quản lý. Tuy nhiên, chức năng này được thể hiện rất khác nhau tuỳ thuộc vào cơ 
chế kinh tế và cấp quản lý, vào loại hình hoạt động cụ thể, vào những điều kiện kinh tế - 
xã hội cụ thể và trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể. 
1.1.2 - Kiểm tra, kiểm soát- một chức năng của quản lý Nhà nước. 
Để hiểu được vai trò của kiểm tra, kiểm soát trong quá trình quản lý, chúng ta cần 
đi từ khái niệm của kiểm tra, kiểm soát. 
Trong quản lý, kiểm tra là công việc nhằm soát xét lại những quyết định và quá 
trình thực thi những quyết định đó, nhưng được giới hạn theo cấp bậc quản lý (ví dụ 
kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới). Kiểm tra thường gắn liền với xử lý, gọi là thanh 
tra. 
Kiểm soát là công việc nhằm soát xét lại những quy định, những quá trình thực thi 
các quyết định quản lý được thể hiện trên các nghiệp vụ (những thao tác cụ thể) nhằm 
nắm bắt và đIều hành được những nghiệp vụ đó. 
Nhằm tham gia vào quá trình quản lý, kiểm tra kiểm soát phải tuân thủ theo 3 bước 
cơ bản: 
Thứ nhất là xây dựng hệ thống tiêu chuẩn dựa trên cơ sở của những mục tiêu quản 
lý. 
Thứ hai là đo lường việc thực hiện theo những tiêu chuẩn đã được xây dựng. ở 
bước này người quản lý sẽ nhận được các thông tin về đối tượng quản lý. 
Thứ ba là dựa trên những thông tin thu thập được ở bước thứ hai, người quản lý 
điều chỉnh các sai lệch trong việc thực hiện. 
Như vậy, kiểm tra kiểm soát gắn liền với hoạt động quản lý. ở đâu có quản lý thì ở 
đó có kiểm tra, kiểm soát. Kiểm tra, kiểm soát không tự nhiên tồn tại mà nảy sinh và phát 
triển từ chính nhu cầu quản lý và phục vụ quản lý. Kiểm tra kiểm soát là cầu nối giữa 
thực tế sinh động và nhận thức chủ quan của con người trong quá trình quản lý. 
Về phân cấp quản lý, có rất nhiều mô hình khác nhau song chung nhất thường là 
phân thành quản lý vĩ mô (của Nhà nước ) và quản lý vi mô (của các đơn vị cơ sở). Ngoài 
ra, trong nhiều trường hợp giữa hai cấp quản lý cơ bản nói trên còn có cấp quản lý trung 
gian vừa chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý của các 
đơn vị cơ sở. 
Đối với quản lý vi mô, để bảo đảm hiệu quả hoạt động, tất yếu mỗi đơn vị cơ sở 
đều tự kiểm tra mọi hoạt động của mình trong tất cả các khâu : rà soát các tiềm lực, xem 
xét lại các dự báo, các mục tiêu và định mức, đối chiếu và truy tìm các thông số về sự kết 
hợp, soát xét lại các thông tin thực hiện để điều chỉnh kịp thời trên quan điểm bảo đảm 
hiệu năng của mọi nguồn lực và hiệu quả kinh tế cuối cùng của các hoạt động. Công việc 
này là kiểm soát nội bộ hay còn gọi là nội kiểm. 
Trong khi đó, với cương vị quản lý vĩ mô, Nhà nước cũng thực hiện chức năng 
kiểm tra của mình. Trong nền kinh tế, Nhà nước có vai trò bảo đảm một môi trường kinh 
doanh ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nâng 
cao khả năng cạnh tranh hơn nữa, Nhà nước còn giữ vai trò định hướng sự phát triển của 
nền kinh tế thông qua việc điều tiết kinh tế vĩ mô. Với những vai trò đó, đối tượng của 
quản lý Nhà nước là rất rộng lớn, từ các doanh nghiệp cho tới những lĩnh vực , những 
ngành nghề khác nhau và trên nguyên tắc, tất cả các hoạt động kinh tế đều thuộc đối 
tượng quản lý của Nhà nước. Với đối tượng quản lý rất rộng, việc quản lý của Nhà nước 
đòi hỏi phải bám sát thực tế kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng đồng thời phải bảo đảm 
đúng định hướng, bảo đảm thực hiện các mục tiêu của Nhà nước. 
Mặt khác, Nhà nước là một tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lợi của giai cấp 
thống trị, thi hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị xã hội. Để duy trì 
sự hoạt động của mình, Nhà nước cần có những nhu cầu chi tiêu chung có tính chất xã 
hội. Do đó, Nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để giành lấy một bộ phận của 
cải xã hội phục vụ cho các chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó là lý do tồn tại của nguồn 
thu NSNN. Về thực chất, nguồn thu NSNN là sự phân phối của cải xã hội nhằm thực hiện 
chức năng của tài chính. Do tính chất quan trọng của nguồn thu NSNN, Nhà nước phải 
thực hiện quản lý và thiết lập việc kiểm soát các nguồn thu này. 
Do vậy, kiểm tra kiểm soát nói chung và kiểm soát nguồn thu NSNN nói riêng là 
rất cần thiết và vô cùng quan trọng trong quản lý Nhà nước. Trong việc kiểm soát của 
Nhà nước, các tiêu chuẩn kiểm soát là hệ thống các Luật và các quy định dưới Luật. 
Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra của mình hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. ở 
cấp độ trực tiếp (thông thường với tư cách chủ sở hữu) Nhà nước kiểm tra các mục tiêu 
các chương trình, kế hoạch hoạt động, kiểm tra các nguồn lực, kiểm tra quá trình và kết 
quả thực hiện các mục tiêu của các doanh nghiệp Nhà nước và bộ máy hành chính, kiểm 
tra tính trung thực của các thông tin cũng như tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp 
vụ. ở cấp độ gián tiếp, Nhà nước có thể sử dụng kết quả kiểm tra của các chuyên gia 
hoặc các tổ chức kiểm tra độc lập để thực hiện điều tiết vĩ mô qua các chính sách của 
mình, hoặc tham gia đầu tư hoặc với tư cách là các khách hàng của các tổ chức kinh tế. 
Việc kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước khác với kiểm tra, kiểm soát của các doanh 
nghiệp do mục đích quản lý, đối tượng quản lý là hoàn toàn khác nhau. Nếu như đối với 
doanh nghiệp, mục tiêu của quản lý là tạo ra lợi nhuận tối đa và một nền tảng bền vững để 
phát triển thì đối với Nhà nước, mục tiêu quản lý lại là ổn định nền kinh tế trên các lĩnh 
vực: sản xuất, thương mại, tài chính - tiền tệ , bảo đảm một môi trường kinh doanh ổn 
định và thực hiện huy động đủ nguồn thu NSNN. Đối tượng quản lý của quản lý Nhà 
nước là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, các yếu tố của môi trường kinh doanh, các giá trị văn 
hoá, môi trường xã hội. Còn đối tượng quản lý của doanh nghiệp lại là những vấn đề chi 
phí, thu nhập, cơ cấu các nguồn vốn sử dụng, quy trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ..v.v... Do 
vậy, quá trình kiểm tra kiểm soát đối với doanh nghiệp thì ngoài việc kiểm tra trong nội 
bộ doanh nghiệp còn phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát này nhằm bảo đảm các quyết định 
quản lý kinh tế của Nhà nước, trong đó có chính sách huy động nguồn thu NSNN được 
thực hiện một cách có hiệu quả. 
Trên giác độ tài chính, cả kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp và kiểm soát của Nhà 
nước đều hướng tới một đối tượng chung là hoạt động tài chính của doanh nghiệp. 
1.1.3 - Kiểm tra, kiểm soát hoạt động tài chính của doanh nghiệp. 
Phạm vi quản lý bao gồm tất cả các lĩnh vực chức năng khác nhau. Tùy theo tính 
chất nghiệp vụ, sự chuyên môn hoá và sự phân quyền mà các bộ phận chức năng có thể 
được thiết lập. Quá trình quản lý trong mỗi lĩnh vực đều phải tuân thủ theo các bước như 
đã nêu ở trên nhưng phải tập trung vào việc thực hiện chức năng đã định một cách hiệu 
quả nhất. Để thực hiện mục tiêu này, cần phải thiết lập hệ thống kiểm soát trên hai khu 
vực, đó là kiểm soát quản lý và kiểm soát kế toán. 
Theo các chuẩn mực đã hệ thống hoá của Hội đồng kế toán viên công chứng Mỹ 
(AICPA), phần thực hành kiểm toán (32009) thì : 
Kiểm soát quản lý (trong doanh nghiệp được cụ thể hoá là kiểm soát quản trị - 
Administrative) bao gồm (nhưng không hạn chế) kế hoạch tổ chức và các trình tự, hồ sơ 
cần cho quá trình ra quyết định để cho phép tiến hành các nghiệp vụ. Kiểm soát quản lý 
gắn liền với trách nhiệm thực hiện các mục tiêu của tổ chức và là điểm xuất phát để thiết 
lập kiểm soát kế toán. 
Kiểm soát kế toán (Accounting Control) bao gồm kế hoạch tổ chức và các trình tự, 
hồ sơ cần thiết cho việc bảo vệ tài sản và độ tin cậy của sổ sách tài chính và do đó phải 
bảo đảm hợp lý rằng : 
- Các nghiệp vụ được tiến hành theo sự chỉ đạo chung hoặc cụ thể của quản lý. 
- Các nghiệp vụ được ghi sổ là cần thiết để : (1) Giúp chuẩn bị các báo cáo tài 
chính đúng với nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận hoặc các tiêu chuẩn có thể áp 
dụng cho các báo cáo này; (2) Duy trì khả năng hạch toán của tài sản. 
- Chỉ khi được phép của nhà quản lý mới động đến tài sản. 
- Tài sản đã ghi sổ phải được đối chiếu với tài sản thực có tại thời điểm thích hợp 
và phải có sự điều chỉnh phù hợp khi có những chênh lệch. 
Như vậy, kiểm soát kế toán chỉ quan tâm đến hoạt động tài chính của doanh 
nghiệp được phản ánh trên các tài liệu kế toán. Trong khi đó, kiểm soát quản lý yêu cầu 
một phạm vi rộng hơn của các đối tượng kiểm soát theo mục tiêu quản lý của toàn bộ tổ 
chức. Tuy nhiên, kiểm soát kế toán lại có vai trò là cơ sở cho kiểm soát quản lý. Các 
chứng từ kế toán không chỉ là sự thông tin mà còn là minh chứng pháp lý cho sự hình 
thành các nghiệp vụ kinh tế. Từ đó, kiểm soát kế toán có thể hình thành phương pháp tự 
kiểm soát : đối ứng tài khoản không chỉ là phương pháp phân loại, phản ánh sự vận động 
của tài sản mà còn là phương pháp kiểm tra những quan hệ cân đối cụ thể, tổng hợp - cân 
đối kế toán không chỉ cung cấp những thông tin tổng hợp mà còn là phương pháp kiểm 
tra kết quả cân đối tổng quát trong thông tin kế toán. . . 
Tuy vậy, thực trạng hoạt động tài chính và sự phản ánh nó trong kế toán vẫn có 
những sự cách biệt do giới hạn của trình độ, phương tiện thu thập thông tin và những giới 
hạn cho phép về nghề nghiệp trong chính sách kế toán với sự đa dạng, thường xuyên của 
lượng thông tin phát ra từ hoạt động tài chính. Do vậy, cần phải có kiểm tra ngoài kế toán 
mới có thể xác minh một cách chính xác thực trạng tài chính của doanh nghiệp. 
Từ những lý luận trên, có thể cụ thể hoá đối tượng của kiểm soát kế toán trong 
hoạt động tài chính doanh nghiệp trên những vấn đề sau : 
+ Thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp. 
Đối với mỗi doanh nghiệp, thực trạng hoạt động tài chính bao gồm 2 phần rõ rệt: 
một phần được phản ánh trong các tài liệu kế toán và phần còn lại chưa được phản ánh 
trong tài liệu kế toán. Đối với phần thực trạng được phản ánh trong các tài liệu kế toán, 
việc kiểm soát đã có đầy đủ bằng chứng, đó là các chứng từ kế toán do doanh nghiệp lập 
ra trên cơ sở các nghiệp vụ phát sinh và các quy định của hệ thống Luật pháp về kế toán. 
Tuy vậy, đây chỉ là phần nổi của các hoạt động tài chính. Hoạt động kiểm soát còn quan 
tâm đến phần thực trạng hoạt động tài chính chưa được phản ánh trong tài liệu kế toán. 
Đó là khi các chứng từ kế toán không đủ độ tin cậy mà trên thực tế không phát sinh các 
nghiệp vụ kinh tế, hoặc các nghiệp vụ kinh tế chưa được phản ánh đầy đủ trên các chứng 
từ. 
 +Kiểm soát về tài liệu kế toán. 
Thực trạng hoạt động tài chính là đối tượng chung của kiểm soát. Trong nền kinh 
tế thị trường hiện đại, khi các nghiệp vụ kế toán và tài chính phát triển đến trình độ cao và 
hệ thống Luật pháp ngày càng trở nên chặt chẽ thì yêu cầu chung đối với quản lý là tất cả 
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh phải được phản ánh đầy đủ trên các tài liệu kế toán. Một 
mặt đây là sự lượng hoá các nghiệp vụ kinh tế, mặt khác tài liệu kế toán còn thể hiện tính 
pháp lý của hoạt động kinh tế. 
Đối với các tài liệu kế toán, việc kiểm soát phải thực hiện theo các nội dung sau: 
- Kiểm tra tính hiện thực của các thông tin kế toán. Tính hiện thực của thông tin 
trên các tài liệu kế toán thể hiện sự phản ánh một cách trung thực, đầy đủ các nghiệp vụ 
kinh tế phát sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 
- Kiểm tra tính hợp pháp của các biểu mẫu, của trình tự lập và luân chuyển các tài 
liệu kế toán. 
- Kiểm tra tính hợp lý của các đói tượng kế toán phù hợp với nội dung của các 
nghiệp vụ kinh tế phát sinh. 
- Và cuối cùng, kiểm tra tính pháp lý trong việc thực hiện các quy định, chuẩn 
mực và chế độ tài chính của doanh nghiệp. 
Để tiến hành kiểm soát cần phải có những phương pháp cụ thể , đó là phương pháp 
kiểm soát trên chứng từ và phương pháp kiểm soát ngoài chứng từ. 
Các phương pháp kiểm soát trên chứng từ. 
Các phương pháp kiểm soát trên chứng từ dựa trên cơ sở các nguồn tài liệu kế toán 
sẵn có của doanh nghiệp. Các phương pháp này gồm có: 
- Phương pháp kiểm soát cân đối kế toán: là phương pháp dựa trên các cân đối kế 
toán và các cân đối khác để kiểm soát các quan hệ nội tại của các yếu tố cấu thành nên 
quan hệ cân đối đó. Đó là cân đối giữa nguồn lực và kết quả cân đối giữa số phát sinh nợ 
và số phát sinh của các tài khoản v.v... 
- Phương pháp đối chiếu trực tiếp: Là phương pháp so sánh (về mặt lượng) trị số 
của cùng một chỉ tiêu trên các chứng từ kế toán. Phương pháp đối chiếu trực tiếp thường 
sử dụng trong các trường hợp sau: 
+ Đối chiếu giữa số cuối kỳ và số đầu năm hoặc giữa các kỳ về chỉ tiêu doanh thu, 
chi phí, thu nhập để phát hiện sự biến động bất thường trong các chỉ tiêu đó. 
+ Đối chiếu trị số của các chỉ tiêu với trị số của các yếu tố cấu thành chỉ tiêu đó. 
Chẳng hạn đối chiếu số lượng, đơn giá với số tiền trong các chứng từ gốc, đối chiếu thu 
nhập, chi phí với kết quả kinh doanh. 
Tuy vậy, phương pháp này chỉ được sử dụng trong trường hợp các chỉ tiêu được 
hạch toán theo cùng một nội dung, cùng phương pháp, cùng đơn vị , trong cùng một 
khoảng thời gian điều kiện tương tự nhau. 
- Phương pháp đối chiếu logic: Là phương pháp xem xét mức biến động tương 
ứng về trị số của các chỉ tiêu có quan hệ kinh tế trực tiếp song nó có thể có mức biến 
động khác nhau theo những chiều hướng khác nhau (ví dụ giữa hàng tồn kho với tiền 
mặt, tiền gửi và các khoản phải thu). 
Các phương pháp kiểm soát ngoài chứng từ 
- Phương pháp kiểm kê: Là phương pháp kiểm tra tại chỗ các loại tài sản. Phương 
pháp này giúp việc kiểm soát phát hiện sự sai lệch giữa thực trạng tài sản và việc phản 
ánh trên các chứng từ kế toán. 
- Phương pháp thực nghiệm: Là phương pháp diễn lại hoặc nghiên cứu, phân tích 
từng yếu tố cấu thành của một tài sản, một quá trình đã có, đã diễn ra và cần xác minh lại. 
- Phương pháp điều tra: Đây là phương pháp xác định lại một tài liệu, hoặc một 
thực trạng để đi đến những quyết định hay kết luận trong quá trình kiểm soát. 
Tóm lại, kiểm tra, kiểm soát đối với doanh nghiệp chính là thực hiện việc kiểm tra 
kế toán trong hoạt động tài chính. Nó có vai trò rất quan trọng trong hệ thống quản lý của 
doanh nghiệp và của Nhà nước. Do có đối tượng, có phương pháp cụ thể, kiểm tra kế toán 
trong hoạt động tài chính đã đáp ứng được các nhu cầu của quản lý và là một chức năng 
quan trọng của quản lý. Trong phạm vi của đề tài, tác giả sẽ đi sâu vào một hoạt động 
kiểm tra kế toán trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp, đó là kiểm soát nguồn thu 
thuế GTGT. 
1.2/ Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp. 
1.2.1 - Những vấn đề cơ bản về thuế GTGT. 
Thuế G