Từ khi xã hội loài người được hình thành cho tới nay đã trải qua rất
nhiều hình thái kinh tế- xã hội như: Công xã nguyên thuỷ, Chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Tu y nhiên chưa một
hình thái kinh tế nào có cơ chế quản lý, điều hành kinh tế toàn diện.
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội
còn thấp lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội là
mục tiêu lý tưởng lớn của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là
khát vọng ngàn đời thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên CNXH
bằng cách nào là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng.
Sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn. Đại hội Đảng
IX(4-2001) chính thức đưa ra khái niệm " kinh tế thị trường định hướng
XHCN".
Kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước, Nhà nước
XHCN quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, chính sách
pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước,
đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng những hình thiức kinh tế và
phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải
phóng sức sản xuất,phát huy tích cực hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của
cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích cảu nhân dân lao động của toàn thể nhân
dân.
29 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 3457 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI :
“TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA
THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ
NHIỀU THÀNH PHẦN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY”
1
A-LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi xã hội loài người được hình thành cho tới nay đã trải qua rất
nhiều hình thái kinh tế- xã hội như: Công xã nguyên thuỷ, Chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên chưa một
hình thái kinh tế nào có cơ chế quản lý, điều hành kinh tế toàn diện.
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội
còn thấp lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội là
mục tiêu lý tưởng lớn của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là
khát vọng ngàn đời thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên CNXH
bằng cách nào là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng.
Sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn. Đại hội Đảng
IX(4-2001) chính thức đưa ra khái niệm " kinh tế thị trường định hướng
XHCN".
Kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước, Nhà nước
XHCN quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, chính sách
pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước,
đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng những hình thiức kinh tế và
phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải
phóng sức sản xuất,phát huy tích cực hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của
cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích cảu nhân dân lao động của toàn thể nhân
dân.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Trong quá trình chuyển
đổi từ nền kinh tế chủ yếu tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường với
nhiều thành phần kinh tế, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng XHCN luôn đặt ra những vấn đề nghiên cứu lý
luận thực tiễn và cần thiết. Lựa chọn cơ chế tổ chức quản lý để phát triển
kinh tế cho phù hợp. Sau một thời gian học tập, tìm hiểu môn Kinh tế chính
2
trị em đã thu được những kiến thức nhất định, em xin được nghiên cứu đề tài
“Tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong
nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay ”với những nội dung
chủ yếu sau:
- Tính tất yếu của nền kinh tế thị trường
-Thực trạng vai trò quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta.Với những hiểu biết và kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế nên
trong khi thực hiện bài tiểu luận em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em
rất mong được sự góp ý phê bình của thầy giáo hướng dẫn và các bạn.
3
B. NỘI DUNG CHÍNH
I- TÍNH TẤT YẾU VAI TRÒ QUẢN LÍ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG
NỀN KINH TÉ THỊ TRƯỜNG
1-Cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước
Quá trình phát triển sản xuất của xã hội loài người từ trước tới nay
đã trải qua những thời lỳ sau:
- Nền kinh tế tự cung tự cấp
- Nền kinh tế hàng hoá
- Nền kinh tế thị trường
Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và lưu
thông hàng hóa." Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình tái sản xuất
hàng hóa. Những vấn đề cơ bản của nền sản xuất xã hội là sản xuất mặt hàng
gì, số lượng bao nhiêu và bằng phương pháp nào đều phải thông qua thị
trường. Vì vậy thị trường đóng vai trò hoạt động và phương án sản xuất,
kinh doanh có hiệu quả".
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá dưới
sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có. Cơ chế thị trường
chính là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó những người tiêu dùng và
các nhà kinh doanh tác động qua thị trường để giải quyết những vấn đề
trung tâm của sản xuất xã hội.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận động theo các quy luật của thị
trưòng, trong đó quy luật giá trị đóng vai trò chi phối và được biểu hiện bằng
quan hệ cung cầu trên thị trường. Nền kinh tế thị trường là giai đoạn phát
triển cao của nền kinh tế hàng hoá, nó nằm trong tiến trình phát triển lịch sử
4
khách quan về kinh tế của xã hội loài người . Do vậy, nền kinh tế thị trường
cũng có những ưu thế và hạn chế của nó.
*- Những ưu thế của nền kinh tế thị trường
- Thúc đẩy sản xuất và gắn sản xuất với tiêu thụ- thực hiện mục tiêu
của sản xuất. Do đó, người ta tìm mọi cách rút ngắn chu kỳ sản xuất, thực
hiện tái sản xuất mở rộng, áp dụng nhanh chóng sản xuất-khoa học- công
nghệ và quay nhanh tiền vốn, đạt tới lợi nhuận tối đa.
- Thúc đẩy và đòi hỏi các nhà sản xuất năng động thích nghi với các
điều kiện biến động của thị trường. Thay đổi mẫu mã sản xuất, tìm mặt hàng
mới và thị trường tiêu thụ, mở rộng quan hệ trong kinh doanh, phá thế độc
quyền và khép kín trong một đơn vị kinh doanh, tìm cách đạt tới lợi nhuận
tối đa.
- Thúc đẩy sự tiến bộ khoa học- công nghệ nhanh chóng ứng dụng vào
sản xuất , tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hóa sản xuất và
nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng yêu cầu
nhiều mặt của khách hàng và thị trường.
- Thúc đẩy quá trình tăng trưởng dồi dào của sản phẩm hàng hóa, dịch
vụ, thúc đẩy và kích thích sản xuất hàng hoá phát triển, đề cao trách nhiệm
của nhà kinh doanh với khách hàng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã
hội.
- Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. Tích tụ và tập trung
sản xuất là hai con đường để mở rộng quy mô sản xuất. Một mặt, các đơn vị
chủ thể sản xuất kinh doanh làm ăn giỏi, có hiệu quả cao cho phép tích tụ,
mở rộng sản xuất. Mặt khác, do quá trình cạnh tranh làm cho sản xuất được
5
tập trung vào các đơn vị kinh tế thực sự đứng được trên thị trường, làm ăn có
hiệu quả cao, đồng thời loại bỏ những đơn vị làm ăn kém hiệu quả. Chính
quá trinh cạnh tranh kinh tế là động lực thúc đẩy tích tụ và tập trung sản
xuất.
*- Những hạn chế của nền kinh tế thị trường thể hiện :
- Nền kinh tế thị trường mang tính tự phát , tìm kiếm lợi nhuận bằng
bất kỳ giá nào, không đi đúng hướng kế hoạch Nhà nước, mục tiêu và phát
triển kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Tính tự phát của thị trường còn dẫn đến
tập trung hóa cao độ, sinh ra độc quyền, thủ tiêu cạnh tranh, làm giảm hiệu
quả chung và tính tự điều chỉnh của nền kinh tế .
-Xã hội phát sinh tiêu cực, tệ nạn gắn liền với hiện trạng kinh tế sa sút,
gây rối loạn xã hội. Nhà kinh doanh thường tìm mọi thủ đoạn, mánh khoé
làm hàng giả, buôn lậu, trốn tuế, lừa đảo... không từ một thủ đoạn nào, dù là
dơ bẩn nhất để thu lợi nhuận tối đa.
- Vì lợi ích và lợi nhuận riêng biệt, dẫn đến sự sử dụng bừa bãi, tàn phá
tài nguyên và huỷ hoại môi trường sinh thái.
2-Vai trò kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường:
Sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu vì:
- Đây là một đặc điểm bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa được chi phối bởi bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Không có Đảng cộng sản lãnh đạo và nhà nước xã hội chủ nghĩa quản
lý thì không thể có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà đó sẽ
chỉ là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
- Kinh tế thị trường vốn có xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Chỉ có
Đảng lãnh đạo bằng đường lối chủ trương đúng đắn và sự quản lý của nhà
6
nước bằng chính sách pháp luật bằng các công cụ quản lý vĩ mô mới hạn chế
tinh tự phát chủ nghĩa.
- Kinh tế thị trưòng vốn có hai mặt: mặt thuận lợi như thúc đẩy kinh tế
tăng trưởng nhanh, chú trọng lợi ích và hiệu quả kinh tế... và mặt nghịch
như thúc đẩy phân hóa giàu- nghèo, khuyến khích lối sống thực dụng vị kỷ,
chạy theo đồng tiền, hạ thấp giá trị đạo đức...mặt nghịch của kinh tế thị
trường mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy sự quản lý của
nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy được mặt tích cực hạn chế mặt tiêu
cực của kinh tế thị trường.
a- nhà nước đóng vai trò định hướng cho sự phát triển kinh tế
Trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay, các doanh nghiệp được quyền
lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, nhà nước không can thiệp vào
quyết định của họ về việc sản xuất cái gì? Bằng cách nào? Tiêu thụ ở đâu?
Trong khi lựa chon các phương án sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp lấy lợi
nhuận của mình làm thước đo hiệu quả, đồng thời làm mục tiêu định hướng
cho hành vi của họ. Hiện nay rất nhiều các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau hoạt động cạnh tranh với nhau. Sự hoạt động của
quy luật cạnh tranh vừa thúc đẩy sản xuất phát triển, vừa có thể dẫn đến sự
khai thác bừa bãi các nguồn lực, huỷ hoại môi trường.
Khác với các doanh nghiệp, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước là ở
chỗ nhà nước không theo đuổi mục đích lợi nhuận như một doanh nghiệp cá
biệt mà đuổi theo mục tiêu chung của cả dân tộc là làm cho dân giàu, nước
mạnh, nền kinh tế tăng trưởng ổn định, vững chắc trong điều kiện công bằng
xã hội và hiệu quả kinh tế quốc dân.
Thực chất của việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế là thống
nhất các lợi ích khác nhau,quy tụ các lợi ích khác nhau về cùng một lợi ích
để sao cho trong khi mỗi người theo đuổi lợi ích cá nhân của mình cũng
đồng thời góp phần vào theo đuổi lợi ích dân tộc. Chính vì vậy để có thể
7
hoàn thành chức năng định hướng nền kinh tế Chính phủ phải tạo ra được
công cụ định hướng để quy tụ hành động của các doanh nghiệp và người tiêu
dùng theo chiều hướng vận động của nền kinh tế và nhà nước ta đã có hai
định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế, đó là:
+ Chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn.
+ Kế hoạch hóa định hướng.
b- Tạo môi trường thuận lợi cho nền sản xuất hàng hoá nhiều thành
phần phát triển
Mỗi cơ chế kinh tế có thể hoạt động khi có môi trường với những điều
kiện kinh tế xã hội cần và đủ. Thực tiễn lịch sử cho thấy rằng: con đường
lịch sử tự nhiên của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển rất lâu dài.
Kể từ khi nền kinh tế thị trường truyền thống bộc lộ các khuyết tật của nó
đến khi chính phủ các nước này tự nhận thức được vai trò điều khiển quản lý
kinh tế của mình phải mất hàng trăm năm. Ngày nay khi kinh nghiệm lịch sử
của các nước này đã trở thành lý luận, các nước đi sau có thể rút ngắn chặng
đường phát triển của mình bằng cách: chủ động sử dụng kiến trúc thượng
tầng và quyền lực nhà nước để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho
các doanh nghiệp yên tâm đầu tư mở rộng phát triển sản xuất. Để hoàn thành
vai trò đó nhà nước ta phải thực hiện những công việc sau:
-Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả, thương
mại hóa nền kinh tế.
- Bảo đảm các quyền của nguời chủ sở hữu về tư liệu sản xuất
- Đa dạng hoá chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất .
- Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế.
- Ổn định về chính trị.
8
c- Phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng hiệu quả tạo ra
động lực sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trương, thị trường mở rộng sự hoạt động của quy
luật giá trị càng dẫn đến việc phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư,
chia rẽ dân cư thành các tầng lớp khác nhau trong quan hệ của họ đối với
quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị tình trạng bất bình đẳng khi vượt
quá khuôn khổ cho phép sẽ dẫn đến sự phản ứng của dân cư trong lĩnh vực
chính tri, xã hội, mâu thuẫn gay gắt về lợi ích của các giai cấp có thể dẫn đến
sự đe doạ ổn định xã hội. Chính vì vậy để ổn định về mặt chính trị tạo ra môi
trưòng lành mạnh cho các doanh nghiệp làm ăn, nhà nước phải hoàn thành
các phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư sao cho thoả mãn nhu cầu
công bằng, hiệu quả .
d- Can thiệp vào quá trình kinh tế mỗi khi có chấn động.
Định hướng và tạo môi trường phân phối thu nhập là những công việc
cần thiết thể hiện vai trò của nhà nước trong chiến lược dài hạn. Trong quá
trình thực hiện các chiến lước đó, dưới ảnh hưỏng của cơ chế cung cầu giá
cả trong thị trường nội địa, đồng thời dưới ảnh hưởng của quan hệ kinh tế
quốc tế, việc thực hiện mục tiêu định hướng của nhứng chương trình dài hạn
bị nhứng " cú sốc " làm chệch hướng là điều không tránh khỏi. Trong trường
hợp đó nhà nước cần phải sử dụng những công cụ như lãi xuất, thuế, quỹ dự
trữ quốc gia và chi tiêu ngân sách để làm giảm những chấn động, đưa nền
kinh tế đi theo định hướng.
e- Quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý.
Trong nền kinh tế thị truờng ở nước ta Nhà nước cùng một lúc phải
hoàn thành hai nhiệm vụ lớn trong nền kinh tế:
Thứ nhất, Nhà nước phải điểu khiển sự vận động của nền kinh tế bằng
cách hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn và ngắn hạn,
9
quyết định các phương án phân phối và phân phối lại thu nhập quốc sao cho
bình đẳng, công bằng, hiệu quả, tạo môi trường thuận lợi, hướng dẫn các
doanh nghiệp làm ăn, can thiệp nền kinh tế mỗi khi có " cú sốc" để làm giảm
các chấn động trên con đường đi dến mục tiêu.
Thứ hai, cùng với chức năng điều khiển nền kinh tế, Nhà nước còn
phải đóng vai trò người quản lý tài sản quốc gia. Về mặt đối ngoại, Nhà
nước còn có trách nhiệm bảo vệ các nguồn lực, ngăn chặn mọi âm mưu từ
bên ngoài đến các vùng đặc quyền đặc lợi trong lòng đất, vùng trời và vùng
biển. Về mặt đối nội, Nhà nước là người chủ sở hữu các nguồn lực này và
phân bố sử dụng sao cho hợp lý. Mặt khác, Nhà nước còn là chủ sở hữu của
khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Với tư cách là chủ sở hữu của doanh
nghiệp nhà nước, Nhà nước quản lý trực tiếp và đóng vai trò độc quyền ở thị
trường quan trọng, quyết định sự tồn tại của đế chế. Với tư cách là người chủ
quản lý đất nước, Nhà nước là người trọng tài, là chủ thể của quá trình phân
công lại vai trò giữa các thành phần kinh tế sao cho lợi ích riêng của các
thành phần kinh tế không làm triệt tiêu lợi ích chung của toàn xã hội.
f- Nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế chính trị của mình để tiếp tục quá
trình tự do giá cả , thương mại hóa nền kinh tế:
Xóa bỏ tình trạng độc quyền, xây dựng các đạo luật chống độc quyền
bằng cách tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiẹp, tạo ra
các điều kiện, các tiền đề kinh tế , pháp lý cho sự hoạt động của các thi
trường cần thiết như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường lao
động..
g- Nhà nước đảm nhận vai trò thiết lập, duy trì quyền sở hữu các quyền
lực kinh tế theo hướng xác định số chủ sở hữu đích thực của công nhân, của
các doanh nghiệp tập thể, tư nhân và Nhà nước, cụ thể là :
Giao quyền sử dụng ruông đất lâu dài cho cho nông dân với các
quyền cụ thể như thừa kế, thế chấp, cho thuê...
10
Cho thuê hoặc đấu thầu tài sản sản xuất
Cho nước ngoài thuê đất và các tài sản phục vụ sản xuất kinh doanh
3- Chức năng công cụ quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị
trường
Trong nền kinh tế thị trường nhà nước đựơc quan niện vơi tư cách là
cơ quan quyền lực chính trị bảo vệ lợi ích của toàn thể nhân dân và là chủ
sở hữu đại diện cho toàn dân với số tài sản quốc gia. Do đó, Nhà nước cần
thực hiện đúng chức năng chủ yếu trong lĩnh vực quản lý về kinh tế.
a- Định ra khuôn khổ pháp luật cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nhà nước đặt ra các khung pháp luật, đề ra hệ thống pháp lý, trên cơ
sở đó đặt ra các điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt động của
thi trưòng, quy định hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp và nguời tiêu
dùng trong mọi thành phần kinh tế phải tuân theo. Các khung pháp luật đó
phải đảm bảo được tính dân chủ sự bình dẳng các cơ may để mọi công dân
có thể tham gia các hoạt động thị trường mà không bị ai ngăn cản. Ngoài ra,
chính phủ cũng như chính quyền các cấp còn lập nên hệ thống các quy định
chi tiết nhằm tạo nên môi trường thuận lợi, lành mạnh và tạo nên hành lang
an toàn cho sự phát triển có hiệu quả các hoạt động kinh tế xã hôị. Đối với
Việt Nam, do hệ thống hoạt động kinh tế còn đơn sơ, chưa tạo được môi
trường kinh doanh lành mạnh nên chức năng này chưa được thực hiện đầy
đủ. Do đó, chúng ta cần đổi mới việc xây dựng, ban hành và thực thi pháp
luật đảm bảo tính hệ thống của luật và các văn bản dưới luật, chú ý đến
pháp luật và các thông lệ quốc tế, khẩn trương xây dựng và ban hành hệ
thống luật kinh tế, luật bảo vệ môi trường... và phổ cập cho toàn dân .
b- ổn định và cải thiện các hoạt động kinh tế
Bàn tay vô hình của kinh tế có quyền thể tạo ra nhiều yếu tố cho nền
kinh tế nhưng nó cũng không tránh khỏi chu kỳ kinh doanh dẫn tới làm phát,
11
thất nghiệp. Nếu Nhà nước buông lỏng cho thị trường vận động thì biến
động đó rất rõ, chẳng hạn thời kỳ siêu lạm phát ở Đức năm 20 hay thời kỳ
suy thoái của Mỹ những năm 30. Những kinh nghiệm đó đã giúp chúng ta
nhận ra một điều bổ ích rằng Nhà nước XHCN cần phải tìm mọi cách để
kiểm soát và ngăn chặn những thăng trầm của chu kỳ kinh doanh thông qua
các chính sách kinh tế như tài chính và chính sách tiền tệ để làm giảm biên
độ dao động của chu kỳ kinh doanh, hạn chế thất nghiệp làm phát. ở nước ta
chính phủ cần hoàn thiện các chinh sách để tạo điều kiện cần thiết cho cơ
chế thị trường hoạt động có hiệu quả, sử dụng các chính sách tài chính tiền
tệ có lợi đến sản lượng, việc làm, thu nhập và giá cả, tạo nên sự phát triển
nhịp nhàng, năng động của nền kinh tế.
c- Chức năng hiệu quả kinh tế
Cơ chế thị trưòng có thể dẫn tới một số thất bại, làm giảm hiệu quả
của xuất và tiêu dùng. Do đó Nhà nước cần phải phân bổ tài nguyên và
nguồn lực sao cho đảm bảo hiệu quả kinh tế, ngăn chặn những hành động
bất chấp luật lệ, những tư tưởng cạnh tranh không lành mạnh , đồng thời có
chính sách và kế hoạch dẫn dắt nền kinh tế để giúp nhà doanh nghiệp lựa
chọn sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và phân phối cho ai để sản xuất có
hiệu quả cao nhất .
d- Chức năng công bằng xã hội.
Phân phối là một khâu không thể thiếu được của quá trình tái sản
xuất . Nó nối liền sản xuất với tiêu dùng, phục vụ và thúc đẩy sản xuất, nó
phản ánh quan hệ lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội. Cơ
chế thị trường có thể giúp chúng ta sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, vật tư,
sức lao động giúp các doanh nghiệp sản xuất những hàng hoá phù hợp với
yêu cầu của thị trường. Nhưng ngay cả trong những trường hợp hoàn hảo
như người ta mô tả thì nó còn có những hạn bởi hàng hóa được sản xuất và
tiêu thụ theo tiếng gọi của lợi nhuận chứ không phải theo ước nguyện của
12
mọi tầng lớp. Do đó trong xã hội sẽ nảy sinh rất nhiều những sự bất bình
đẳng lớn trong nền kinh tế về thu nhập, cơ may... nhiều nghịch cảnh còn tồn
tại. Trong những trưòng hợp này, thị trường vẫn làm đúng chức năng của nó
là đặt hàng vào tay người có thể trả tiền nhiều nhất. Vì vậy Nhà nước cần có
những biện pháp điều tiết để đạt được công bằng xã hội thông qua những
chính sách công cụ pháp luật .
II. THỰC TRẠNG VAI TRÒ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA
Khác với một số nước trên thế giới, chúng ta tiến lên CNXH từ một
nước nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu mà bỏ qua giai đoạn phát triển lên
chủ nghĩa tư bản. Bởi vậy chúng ta gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây
dựng và phát triển nền kinh tế đó là do chúng ta chưa chuẩn bị được cơ sở
vật chất kỹ thuật để tiến lên CNXH. Mặt khác nền kinh tế của nước ta trước
đây dập khuôn theo mô hình kinh tế của Liên xô với chế độ xã hội công hữu
về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể
trong đó sở hữu toàn dân đóng vai trò chủ đạo. Xuất phát từ quan niệm nền
kinh tế XHCN là nền kinh tế phát triển có kế hoạch, quy luật phát triển có kế
hoạch là quy luật điều tiết mọi hoạt động của nền kinh tế nên Nhà nước ta
lấy kế hoạch hoá làm công cụ chủ yếu để quản lý kinh tế. Việc lãnh đạo phát
triển kinh tế quốc dân có kế hoạch là một vấn đề cơ bản nhất trong nhiệm vụ
quản lý kinh tế của Nhà nước XHCN.
Công cụ đổi mới nền kinh tế của nước ta bắt đầu từ Đại hội VI của
Đảng. Đó là điểm mốc cho sự phát triển nền kinh tế của đất nước. Từ đại XI
Nhà nước ta mới thấy rõ lợi ích c