Đề tài Thị trường độc quyền hoàn toàn - tập đoàn điện lực Việt Nam

ập đoàn Điện lực Việt Nam (tên giao dịch quốc tế là Vietnam Electricity, viết tắt là EVN) là một doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam kinh doanh đa ngành. Trước tháng 9 năm 2006, tập đoàn này chính là Tổng công ty Điện lực Việt Nam, một tổng công ty nhà nước do trung ương quản lý. Trụ sở chính của tập đoàn nằm tại số 18 phố Trần Nguyên Hãn, phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội. Tổng Công ty Điện lực Việt Nam được chuyển đổi thành Tập đoàn Điện lực Việt Nam – EVN từ năm 2006 theo Quyết định số 48/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. EVN kinh doanh đa ngành. Trong đó, sản xuất, kinh doanh điện năng, viễn thông công cộng và cơ khí điện lực là ngành nghề kinh doanh chính; gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất, kinh doanh với khoa học, công nghệ, nghiên cứu triển khai, đào tạo. 1.Lĩnh vực hoạt động Lĩnh vực kinh doanh chính là sản xuất, truyền tải và xuất nhập khẩu điện năng. Tập đoàn xây dựng nhà máy phát điện, hệ thống điện lưới phân phối đến các hộ dân, điều hòa điện lưới quốc gia, xuất và nhập khẩu điện năng với các nước láng giềng như Trung Quốc và Lào, đảm bảo thực hiện kế hoạch cung cấp điện theo yêu cầu của chính phủ Việt Nam. Các lĩnh vực khác Ngoài các lĩnh vực chính kể trên, cũng không ngừng phát huy thế mạnh của mình trên các lĩnh vực như: Tư vấn; nghiên cứu – đào tạo, tài chính – ngân hàng… Đây sẽ là những thế mạnh khác giúp EVN phát triển vững mạnh và toàn diện hơn.Có 5 đơn vị thực hiện chức năng tư vấn: Viện Năng lượng, Công ty Tư vấn điện 1, 2, 3, 4. Các dịch vụ tư vấn bao gồm: Tổng sơ đồ phát triển ngành điện, qui hoạch phát triển lưới điện khu vực và tư vấn cho khách hàng như khảo sát, thiết kế, giám sát thi công các công trình nguồn điện (thuỷ điện, nhiệt điện, tuabin khí, diesel.), các công trình lưới điện (cấp điện áp tới 500 KV) •Giáo dục: trường Đại học Điện lực là một thành viên của tập đoàn; •Viễn thông: Công ty Viễn thông Điện lực hoạt động trong lĩnh vực phát triển mạng lưới dịch vụ điện thoại cố định nội tỉnh và đường dài trong nước, cùng mạng điện thoại di động, dịch vụ Internet. •Tài chính-ngân hàng: tập đoàn là cổ đông thể chế của ngân hàng thương mại cổ phần An Bình. •Viện Năng lượng Việt Nam là một cơ quan nghiên cứu trong lĩnh vực điện năng trực thuộc tập đoàn.

doc27 trang | Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 7348 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường độc quyền hoàn toàn - tập đoàn điện lực Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Một số vấn đề cơ bản về thị trường. Khái niệm, đặc điểm, phân loại thị trường. Khái niệm: Thị trường là một tập hợp các dàn xếp mà thông qua đó người bán và người mua tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Là khuôn khổ vô hình, trong đó người này tiếp xúc với người kia để trao đổi một thứ gì đó khan hiếm và trong đó họ cùng xác định giá và số lượng trao đổi. Sự tác động giữa người mua và người bán xác định giá, số lượng, chất lượng, chủng loại sản phẩm của từng loại hàng hóa và dịch vụ cụ thể. Phân loại: Phân loại theo đặc điểm của sản phẩm được bán: Thị trường chứng khoán. Thị trường tiền tệ. Thị trường ngoại hối. Phân loại theo không gian và địa lý thị trường: Thị trường địa lý. Thị trường khu vực. Thị trường quốc gia. Thị trương thế giới. Phân loại theo đối tượng mua và bán: Thị trường hàng tiêu dung. Thị trường tư liệu sản xuất. Phân loại theo khả năng hoạt động tiêu thụ: Thị trường tiềm năng. Thị trường hiện tại. Thị trường tương lai. Đối với môn kinh tế học chủ yếu phân loại theo góc độ cạnh tranh hay độc quyền, ta có bốn loại: Thị trường cạnh tranh hoàn toàn Thị trường quyền hoàn toàn Thị trường cạnh tranh độc quyền độc Thị trường độc quyền nhóm. Cách thức phân loại dựa vào các tiêu thức: Số lượng người bán – người mua. Chủng loại sản phẩm. Sức mạnh chi phối giá của người bán – người mua. Các trở ngại gia nhập thị trường. Hình thức cạnh tranh phi giá cả. Đặc điểm các loại thị trường .(phân loại theo kinh tế học vi mô) Thị trường cạnh tranh hoàn toàn. Khái niệm: Thị trường cạnh tranh hoàn toàn là thị trường mà trong đó không có một người mua hoặc không có một người bán nào đủ sức quyết định giá cả và số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ đó trên thị trường Đặc điểm: Số lượng người cung ứng tương đối lớn và không ảnh hưởng tới giá cả thị trường. Doanh nghiệp có thể gia nhập hoặc rút lui khỏi ngành tương đố dễ dàng. Sản phẩm của doanh nghiệp phải đông nhất với nhau. Người mua và người bán dễ dàng nắm thông tin về giá cả trên thị trường. Thị trường độc quyền hoàn toàn. Khái niệm: Thị trường độc quyền hoàn toàn là thị trường mà trong đó chỉ có một người bán duy nhất nhưng có rất nhiều người mua. Đặc điểm: Trong ngành chỉ có một người bán duy nhất và rất nhiều người mua. Vắng mặt người thay thế sản xuất hàng hóa cùng loại. Doanh nghiệp có quyền định giá. Doanh nghiệp rất khó khăn khi muốn gia nhập hay rút lui khỏi ngành. Thị trường cạnh tranh độc quyền. Khái niệm: Thị trường cạnh tranh độc quyền là thị trường mà ở đó có nhiều người cung cấp và cung cấp những sản phẩm dễ thay thế cho nhau Đặc điểm: Số lượng doanh nghiệp trong ngành là khá nhiều nên quy mô của mỗi doanh nghiệp là khá nhỏ so với quy mô của thị trường Không có mối quan hệ phụ thuộc giữa các doanh nghiệp trong ngành. Rào cản yếu nên doanh nghiệp mới có thể gia nhập vào ngành khá dễ. Lợi nhuận kinh tế dài hạn của các doanh nghiệp sẽ tiến tới 0 Thị trường độc quyền nhóm. Khái niệm: Thị trường độc quyễn nhóm là thị trường mà ở đó một số doanh nghiệp sản xuất toàn bộ hay hầu hết sản lượng thị trường Đặc điểm: Số lượng doanh nghiệp trong ngành là tương đối ít nên quy mô của mỗi doanh nghiệp là khá lớn so với quy mô của thị trường. Các doanh nghiệp trong ngành có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Rào cản chắc chắn hơn nên doanh nghiệp mới khó gia nhập vào ngành. Các doanh nghiệp có thể duy trì lơi nhuân kinh tế trong dài hạn. TỔNG CÔNG TY ĐIỆN LỰC VIỆT NAM-EVN. Khái quát chung về tổng công ty điện lực Việt Nam-EVN. Sự thành lập. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (tên giao dịch quốc tế là Vietnam Electricity, viết tắt là EVN) là một doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam kinh doanh đa ngành. Trước tháng 9 năm 2006, tập đoàn này chính là Tổng công ty Điện lực Việt Nam, một tổng công ty nhà nước do trung ương quản lý. Trụ sở chính của tập đoàn nằm tại số 18 phố Trần Nguyên Hãn, phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội. Tổng Công ty Điện lực Việt Nam được chuyển đổi thành Tập đoàn Điện lực Việt Nam – EVN từ năm 2006 theo Quyết định số 48/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. EVN kinh doanh đa ngành. Trong đó, sản xuất, kinh doanh điện năng, viễn thông công cộng và cơ khí điện lực là ngành nghề kinh doanh chính; gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất, kinh doanh với khoa học, công nghệ, nghiên cứu triển khai, đào tạo. Lĩnh vực hoạt động Lĩnh vực kinh doanh chính là sản xuất, truyền tải và xuất nhập khẩu điện năng. Tập đoàn xây dựng nhà máy phát điện, hệ thống điện lưới phân phối đến các hộ dân, điều hòa điện lưới quốc gia, xuất và nhập khẩu điện năng với các nước láng giềng như Trung Quốc và Lào, đảm bảo thực hiện kế hoạch cung cấp điện theo yêu cầu của chính phủ Việt Nam. Các lĩnh vực khác Ngoài các lĩnh vực chính kể trên, cũng không ngừng phát huy thế mạnh của mình trên các lĩnh vực như: Tư vấn; nghiên cứu – đào tạo, tài chính – ngân hàng… Đây sẽ là những thế mạnh khác giúp EVN phát triển vững mạnh và toàn diện hơn.Có 5 đơn vị thực hiện chức năng tư vấn: Viện Năng lượng, Công ty Tư vấn điện 1, 2, 3, 4. Các dịch vụ tư vấn bao gồm: Tổng sơ đồ phát triển ngành điện, qui hoạch phát triển lưới điện khu vực và tư vấn cho khách hàng như khảo sát, thiết kế, giám sát thi công các công trình nguồn điện (thuỷ điện, nhiệt điện, tuabin khí, diesel...), các công trình lưới điện (cấp điện áp tới 500 KV) Giáo dục: trường Đại học Điện lực là một thành viên của tập đoàn; Viễn thông: Công ty Viễn thông Điện lực hoạt động trong lĩnh vực phát triển mạng lưới dịch vụ điện thoại cố định nội tỉnh và đường dài trong nước, cùng mạng điện thoại di động, dịch vụ Internet. Tài chính-ngân hàng: tập đoàn là cổ đông thể chế của ngân hàng thương mại cổ phần An Bình. Viện Năng lượng Việt Nam là một cơ quan nghiên cứu trong lĩnh vực điện năng trực thuộc tập đoàn. Cơ cấu tổ chức. Hội đồng quản lý:là cơ quan được Nhà nước ủy quyền thực hiện một số chức năng của đại diện chủ sở hữu Nhà nước với công ty. Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng quản lý:do Thủ tướng chính phủ bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Năng lượng sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng,Trưởng ban Ban tổ chức-Cán bộ Chính phủ. Tổng giám đốc:do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Năng lượng trên cơ sở đề xuất của Hội đồng quản lý và thống nhất ý kiến với Bộ trưởng ,Trưởng ban Ban tổ chức-Cán bộ Chính phủ,điều hành hoạt động cùa Tống công ty theo chế độ Thủ trưởng,là đại diện pháp nhân của Tổng công ty trong quan hệ kinh doanh và chịu trách nhiệm trước pháp luật,trước Hội đồng quản lý về hoạt động của Tổng công ty. Các Phó Tổng giám đốc do Bộ trưởng Bộ Năng lượng bổ nhiệm theo đề nghị của Tổng giám đốc sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng,Trưởng ban Ban tổ chức-Cán bộ Chính phủ. Các phòng ban chuyên môn giúp việc Tổng giám đốc Các đơn vị thành viên Tổng công ty. Thành viên. Một số công ty thành viên lớn của EVN * Công ty Điện lực Hà Nội * Công ty Điện lực 1 * Công ty Điện lực 2 * Công ty Điện lực 3 * Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh * NPT (Tổng Công ty Truyền tải điện Quốc gia) * Nhà máy Thủy điện Hòa bình * Công ty Viễn thông Điện lực (EVN Telecom) * Trường Đại học điện lực Hiện nay, EVN có 11 công ty điện lực kinh doanh điện năng đến khách hàng, trong đó, có 3 công ty điện lực vùng và 8 công ty điện lực tỉnh, thành phố. Lĩnh vực truyền tải cũng đang có những bước phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của Tổng Công ty Truyền tải Việt Nam trên cơ sở tổ chức lại 4 công ty Truyền tải (Công ty Truyền tải 1, 2, 3, 4) và 3 Ban Quản lý dự án (Ban Quản lý dự án miền Bắc, Trung, Nam). Bên cạnh đó, lĩnh vực cơ khí điện lực và viễn thông công cộng ngày càng chiếm vị trí quan trọng trên thị trường. Những cái tên như: Công ty CP Cơ khí Điện lực, Công ty CP Chế tạo Thiết bị Điện Đông Anh… hay EVNTelecom đã trở nên quen thuộc, đáp ứng một phần nhu cầu của khách hàng về các sản phẩm cơ khí và dịch vụ viễn thông công cộng. Mục tiêu hoạt động của ngành: Mục tiêu hoạt động của EVN thể hiện rõ qua 3 tiêu chí: Kinh doanh có lãi, bảo toàn và phát triển vốn chủ sở hữu nhà nước đầu tư tại EVN và vốn của EVN đầu tư vào các doanh nghiệp khác; Giữ vai trò trung tâm để phát triển một Tập đoàn Điện lực Quốc gia Việt Nam đa sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước là chi phối; Tối đa hóa hiệu quả hoạt động của Tập đoàn Điện lực Quốc gia Việt Nam. Tình hình ngành điện. Đặc điểm: Số lượng cung ứng. Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN), là doanh nghiệp Nhà nước duy nhất được giao quản lý toàn bộ hệ thống truyền tải và phân phối điện quốc gia. Hiện nay Việt Nam có tỉ lệ điện dùng cho ánh sáng sinh hoạt chiếm tỉ lệ 41,7%. Trong khi đó tỉ lệ này ở các nước chiếm 15-23%. Vân Nam - Trung Quốc: 12-13%, Hàn Quốc: 14,4%, Đài Loan: 21,7%, Thái Lan: 22%, Ba Lan: 22,5%. Tỷ lệ điện dùng cho ánh sáng sinh hoạt cao là một yếu tố chính gây mất cân đối của hệ thống điện trong giờ cao điểm tối, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả đầu tư hệ thống điện. Điện sử dụng cho chiếu sáng chiếm một tỷ trọng lớn và ngày càng gia tăng là do khả năng tiếp cận với nguồn điện quốc gia ngày càng mở rộng trong cả nước, do đời sống dân cư ngày càng được nâng cao và quá trình đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ. Đến cuối năm 2002, Điện lực Việt nam đã có nhiều nhà máy điện mới vào vận hành, ngoài 14 nhà máy điện có công suất vừa và lớn , hàng chục trạm diesel và thuỷ điện nhỏ trong năm 2001, bổ sung thêm 633MW công suất cho hệ thống, nâng tổng công suất lắp đặt của hệ thống điện Việt Nam lên tới 8.860 MW. Sản lượng điện năm 2002 đạt 35.801 triệu kWh, thủy điện chiếm 50.80%, nhiệt điện than chiếm 13.60%, nhiệt điện dầu khí chiếm 29.40% và nguồn Diezel và IPP chiếm 6,2%. Thị phần. EVN chiếm 80% thị phần.con lại là của tư nhân.cán cân này sẽ nhanh chóng thay đổi theo hướng các thành phần ngoài quốc doanh ngày một chiếm thị phần cao hơn do dự án cải tổ sẽ cho phép nhiều thành phần kinh tế khác cùng tham gia kinh doanh điện Giá cả. Giá bán lẻ điện bình quân hiện nay là 782 đồng/kWh. Theo lộ trình điều chỉnh giá bán điện đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội và Bộ Chính trị thông qua thì đợt này sẽ điều chỉnh lên 882 đồng. Tổng công ty điện lực VN (EVN) xây dựng giá bán lẻ trên cơ sở giá bán buôn điện bình quân từ hệ thống điện quốc gia cộng phí và lợi nhuận khâu phân phối là 898 đồng. TT - Ngày 26-2, Bộ Công thương ban hành thông tư quy định giá bán điện năm 2009 và hướng dẫn theo phương án tăng giá điện 8,92% đã được Thủ tướng phê duyệt. Theo đó, giá điện sinh hoạt sẽ có mức giá từ 600-1.790đ/kWh tùy bậc thang.  Đối thủ cạnh tranh. Hiện nay đã có tới 32 nhà máy bán điện cho EVN với công suất chiếm khoảng 10% tổng công suất điện cả nước, trong khi EVN có 14 nhà máy. Tuy nhiên các nhà máy ngoài EVN không muốn bán trực tiếp vì giá bán điện mà Nhà nước quy định cho vùng nông thôn chỉ 2,5-3 cent (xu Mỹ)/kWh, rất thấp so với giá họ chào (4-5 cent/kWh). Lưới điện của họ chưa có, nhưng EVN đã cho họ mượn lưới điện EVN 1-2 năm, sau đó họ có thể đầu tư lưới điện riêng để bán. Sự gia nhập hoặc rút lui khỏi ngành. Khó khăn vì gặp phải một số rào cản sau: Nguồn tài nguyên thiên nhiên: than đá, nước…nguồn cung ứng của các tài nguyên này luôn bị giới hạn do đó rất khó để gia nhập ngành điện nếu tài nguyên nằm trong tay các này độc quyền Nguồn vốn. Tổng cộng nguồn vốn của Tổng Công ty ước lượng vào năm 2004 là gần 100 nghìn tỷ đồng (tương đương gần 7 tỷ đô la Mỹ tại cùng thời điểm). Hiện hàng loạt dự án đầu tư xây dựng các nhà máy điện độc lập (IPP) dưới hình thức BO (xây dựng, chuyển giao) đang vấp phải một trở ngại rất dễ dẫn đến chỗ bế tắc trong quá trình triển khai thực hiện. Đó là bởi Tổng công ty Điện lực Việt Nam ép giá, ép thị trường. Dựa vào Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và trên cơ sở dự báo nhu cầu cấp thiết về điện năng của đất nước, một số doanh nghiệp Nhà nước, địa phương đã mạnh dạn xúc tiến xây dựng các dự án phát triển nguồn điện cỡ vừa và nhỏ (từ 5.000 đến 10.000 kW) theo các hình thức BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) và BO (xây dựng - vận hành). Tuy nhiên, điều kiện mua bán hiện nay rất bất lợi cho người bán. Sản phẩm của các dự án trên là điện năng, tất yếu phải bán và người mua duy nhất hiện nay là Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN), là doanh nghiệp Nhà nước được giao quản lý toàn bộ hệ thống truyền tải và phân phối điện quốc gia. Vì lẽ đó, để triển khai dự án, đặc biệt trước khi xây dựng luận chứng kinh tế - kỹ thuật, các chủ đầu tư phải thương thảo về giá cũng như phương thức mua bán điện với EVN. Chuyện thống nhất giá bán điện hiện là điều cực kỳ khó khăn. Phó tổng giám đốc EVN Đinh Quang Trị ký công văn gửi cho các nhà đầu tư: “EVN chỉ chấp nhận mua điện với các điều kiện sau: nhà máy vận hành theo điều độ của EVN; chủ đầu tư chịu trách nhiệm xây dựng lưới điện đấu nối vào hệ thống điện quốc gia, giá mua điện, chưa bao gồm thuế GTGT, mùa mưa (từ 1/7 đến 30/9) tương đương 2,0 đến 2,5 cent/kWh và mùa khô (các tháng còn lại) từ 3,5 đến 4,0 cent/kWh; dự án phải nằm trong quy hoạch bậc thang thuỷ điện được cấp có thẩm quyền phê duyệt”. Cuối cùng, EVN còn yêu cầu chủ đầu tư phải thống nhất với EVN về thời điểm đưa nhà máy vào vận hành, phù hợp với quy hoạch phát triển chung của toàn quốc và khu vực. Những đòi hỏi quá chặt chẽ nêu trên theo kiểu độc quyền “đồng ý thì mua, không đồng ý thì thôi” của EVN đã khiến một chuyên gia lâu năm trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về điện phải thốt lên rằng: “Cách khống chế của EVN thực chất là một rào cản đối với nhà đầu tư”. Còn đại diện của một chủ đầu tư là Tổng công ty Xây dựng Sông Đà khẳng định: “Với giá mua bình quân trong năm của EVN, tính ra chỉ 3-3,5 cent/kWh thì hầu hết dự án của chúng tôi đều mất tính khả thi”. EVN vừa đá bóng, vừa thổi còi Trong khi ép các nhà đầu tư phải bán với giá thấp thì EVN lại mua điện từ các dự án do họ đầu tư với giá 4,1-4,5 cent/kWh). Hơn thế, các dự án của EVN (thực chất là do Nhà nước giao làm chủ đầu tư) đều ở quy mô lớn (công suất từ 200.000 đến 300.000 kW trở lên), nguồn vốn vay từ ngân sách với lãi suất thấp, điều kiện tự nhiên thuận lợi. Vì vậy, đầu tư cho 1 kW điện của các dự án EVN thấp hơn suất đầu tư của dự án vừa và nhỏ mà chủ đầu tư phải tự huy động vốn với lãi suất cao hơn. Một đại diện của chủ đầu tư tỏ thái độ rất bất bình trước sự phân biệt đối xử này và cho rằng đã đến lúc Nhà nước cần sớm tách quyền quản lý các nguồn điện ra khỏi EVN nhằm xoá bỏ tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” của họ, tạo ra một sân chơi bình đẳng trong lĩnh vực phát triển điện năng. Lúc đầu, rất nhiều chủ đầu tư rất muốn xây dựng các nhà máy điện độc lập (IPP) theo hình thức BO, có lợi cho họ hơn hình thức BOT. Song với hình thức BOT, trong quá trình thoả thuận giá mua - bán điện với EVN còn có sự can thiệp của các cơ quan chức năng Nhà nước, nên EVN buộc phải chấp nhận mua điện với giá cao hơn (4-4,5 cent/kWh). Vì vậy, để giảm thiệt thòi, các nhà đầu tư đã phải chuyển sang hình thức BOT. Tuy nhiên, không phải nhà thầu nào cũng có đủ vốn tự có để thực hiện dự án theo hình thức BOT, vì theo quy định hiện hành, họ phải có vốn đối ứng ít nhất là 30% trong số tổng vốn đầu tư của dự án, còn lại 70% được huy động bằng cách vay thương mại hoặc phát hành trái phiếu công trình (nếu được Nhà nước cho phép). Trong khi đầu tư theo hình thức BO, chỉ phải có tối thiểu 15% vốn đối ứng khi đi vay. Ngay Tổng công ty Xây dựng Sông Đà, một trong những tập đoàn lớn nhất nước ta, dù đã phải huy động đến cả vốn của hơn 16.000 cán bộ, công nhân viên cũng chỉ có thể thực hiện được duy nhất một dự án BOT là Nhà máy Thuỷ điện Cần Đơn, còn các dự án khác đều phải chuyển qua hình thức BO để rồi phải chịu bị EVN ép giá, ép thị trường. Đại diện của Tổng công ty Xây dựng Sông Đà nói: “Với cơ chế hiện hành, dù là BO hay BOT, nhà đầu tư trong nước đều thiệt, vậy thì làm sao phát huy được nội lực, khuyến khích huy động mọi nguồn vốn đầu tư xây dựng phát triển nguồn điện. Riêng với chúng tôi, việc triển khai xây dựng các dự án đầu tư xây dựng các nhà máy thuỷ điện vừa và nhỏ còn nhằm đảm bảo công ăn việc làm ổn định cho hơn 16.000 lao động, cũng như để duy trì và phát triển nguồn lực cán bộ, công nhân kỹ thuật xây dựng thuỷ điện lành nghề cho các công trình lớn như Sơn La, Đại Thị…”. Hiện hơn 7.000 lao động của Tổng công ty Xây dựng Sông Đà không có việc làm gối đầu sau khi hoàn thành công trình thuỷ điện Yaly. Kỹ thuật chuyên dụng : ngành điện đòi hỏi phải sử dụng kĩ thuật chuyên dụng đặc trưng cho ngành. Tiện ích công cộng: Ngành điện nước ta thuộc sỡ hữu của nhà nước nhằm duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ Kết luận: từ những đặc điểm trên cho thấy tập đoàn điện lực Việt Nam là một loại hình độc quyền hoàn toàn Cung, cầu ngành điện Cung: tập đoàn điện lực Việt Nam không có đường cung vì nó là một dạng độc quyền hoàn toàn nên công ty thiết lập giá và lương cung phụ thuộc vào đường chi phí biên và đường cầu để tối đa hóa lợi nhuận Cầu:  Đường cầu của tập đoàn điện lực –EVN có dạng dốc xuống. theo đường cầu này ta thấy tập đoàn điện lực Việt Nam không thể chọn lựa cả giá bán lẫn sản lượng sản xuất để bán ra mà chỉ có thể chọn một trong hai mà thôi, nếu tập đoàn điện lực Việt Nam quyết định chọn giá bán cao thì số lượng người mua sẽ ít và ngược lại nếu tập đoàn điện lực muốn có số lượng lớn người mua thì phải giảm giá xuống mức thấp hơn. Kết luận: vì tập đoàn điện lực Việt Nam là đơn vị duy nhất cung cấp điện cho thị trường nên đường cầu của doanh nghiệp cũng chính là đường cầu của thị trường có dạng dốc thẳng xuống. Chiến lược phân biệt giá trong ngành điện. Hang độc quyền hoàn toàn có thể áp dụng chính sách phân biệt giá bằng cách bán sản phẩm với nhiều giá khác nhau.Chính sách này nhằm làm tăng lợi nhuận cho hãng. Ngành điện phân biệt giá theo các loại: Phân biệt giá cấp 2: Định nghĩa : phân biệt giá cấp hai là các mức giá khác nhau mà doanh nghiệp đặt cho khách hàng khi họ mua với số lượng khác nhau Bảng tính giá điện theo bậc thang. Lượng sử dụng  Đơn giá điện theo bậc thang   50kWh đầu tiên   600d/kWh   50kWh tiếp theo   865d/kWh   50kWh tiếp theo   1135d/kWh   50kWh tiếp theo   1495d/kWh   100kWh tiếp theo   1620d/kWh   100kWh tiếp theo   1740d/kWh   Mỗi 45kWh tiếp theo   1790d/kWh   Giá điện bán lẻ cho sinh hoạt 50kWh đầu tiên được ấn định là 600đ/kWh. Từ kWh 51-100 giá 865đ/kWh, từ kWh 101-150 là 1.135đ/kWh, từ kWh 151-200 là 1.495đ/kWh, từ kWh 201-300 là 1.620đ/kWh, từ kWh 301-400 là 1.740đ/kWh, và từ kWh 401 trở lên sẽ chịu mức giá cao nhất 1.790đ/kWh (chưa gồm thuế giá trị gia tăng - VAT). Như vậy, một gia đình đang dùng hết 40kWh/tháng, theo biểu giá điện chi tiết của Bộ Công thương, sẽ được hưởng mức trợ giá cho người nghèo dưới giá thành 35-40% theo quy định của Thủ tướng. Cụ thể với mức giá hỗ trợ là 600đ/kWh, hộ trên sẽ chỉ phải trả 26.400đ/tháng (trong đó 2.400đ là thuế VAT). Trong khi với giá hiện tại, hộ trên phải trả 24.200đ. Tương tự, một hộ đang sử dụng 99kWh/tháng (dưới ngưỡng 100kWh), mỗi tháng sẽ phải trả 30.000đ cho 50kWh đầu tiên, 42.385đ cho 49kWh tiếp theo, cộng thuế VAT 10% thành 79.623đ (so với giá hiện tại là 59.895đ). Đại đa số người tiêu dùng đang dùng trong khoảng 100-150kWh (sẽ phải đóng mức 1.135đ/kWh), theo giải thích của Thứ trưởng Bộ Công thương Đỗ Hữu Hào, cũng được bù giá cho mức giá ưu đãi dù không thuộc diện nghèo. Ví dụ một gia đình đang dùng 150kWh/tháng, mỗi tháng sẽ phải đóng 30.000đ cho 50kWh đầu tiên, 43.250đ cho 50kWh tiếp theo, 56.750 cho 50kWh tiếp theo, cộng thuế VAT sẽ thành 143.000đ (so với giá hiện tại là 121.550đ)... Đối với trường hợp nhiều hộ gia đình đang dùng chung một côngtơ hiện khá phổ biến tại các khu đô thị do bán đất, chưa tách được đường dây, thông tư của Bộ Công thương hướng dẫn: các hộ cùng được hưởng các bậc thang. Ví dụ bốn hộ đang dùng chung một côngtơ sẽ được hưởng 200kWh đầu tiên tính theo giá 50kWh đầu (600đ/kWh), 200kWh tiếp theo tính theo giá 50kWh tiếp theo (865đ/kWh) và cứ thế cộng gộp tí