Như chúng ta đã biết trong những năm gần đây, ngành du 
lịch của tỉnh Khánh Hoà phát triển rất mạnh mẽ, đặc biệt là 
thành phố Nha Trang, với thiên nhiên ưu đãi nơi đây có một quần 
thể các đảo, những bãi tắmtuyệt đẹp với lòng biển chứa rừng San 
Hô khoảng 350 loài và có hơn 350 loài sinh vật biển vịnh Nha 
Trang không chỉ giàu tài nguyên, đẹp cảnh quan mà còn gắn liền 
với những nét đẹp của văn hóa biển và những địa chỉ văn hóa - du 
lịch như Tháp bà Ponagar, Viện Pasteur Nha Trang, bảo tàng 
A.Yersin, bảo tàng biển lớn nhất Đông Dương. Chính vì lý do 
trên nên vịnh Nha Trang được công nhận là một trong 29 vịnh đẹp 
của thế giới.
Khách du lịch đến Nha Trang không chỉ tắm biển mà còn 
muốn chinh phục Đại Dương vươn ra các hòn đảo, chơi nhiều trò 
chơi với cảm giác mạnh như: đi môtô nước, bay dù kéo bằng ca 
nô…
Xuất phát từ những nhu cầu thực tế trên, em đã được giao thực 
hiện đề tài với nội dung: Thiết kế canô kéo dù bay phục vụ du lịch 
trên vịnh Nha Trang.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 163 trang
163 trang | 
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2424 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thiết kế canô kéo dù bay phục vụ du lịch trên vịnh Nha Trang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
Thiết kế canô kéo dù bay 
phục vụ du lịch trên vịnh 
Nha Trang. 
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.TỔNG QUAN.
 Như chúng ta đã biết trong những năm gần đây, ngành du 
lịch của tỉnh Khánh Hoà phát triển rất mạnh mẽ, đặc biệt là 
thành phố Nha Trang, với thiên nhiên ưu đãi nơi đây có một quần 
thể các đảo, những bãi tắm tuyệt đẹp với lòng biển chứa rừng San 
Hô khoảng 350 loài và có hơn 350 loài sinh vật biển vịnh Nha 
Trang không chỉ giàu tài nguyên, đẹp cảnh quan mà còn gắn liền 
với những nét đẹp của văn hóa biển và những địa chỉ văn hóa - du 
lịch như Tháp bà Ponagar, Viện Pasteur Nha Trang, bảo tàng 
A.Yersin, bảo tàng biển lớn nhất Đông Dương.... Chính vì lý do 
trên nên vịnh Nha Trang được công nhận là một trong 29 vịnh đẹp 
của thế giới.
 Khách du lịch đến Nha Trang không chỉ tắm biển mà còn 
muốn chinh phục Đại Dương vươn ra các hòn đảo, chơi nhiều trò 
chơi với cảm giác mạnh như: đi môtô nước, bay dù kéo bằng ca 
nô…
 Xuất phát từ những nhu cầu thực tế trên, em đã được giao thực 
hiện đề tài với nội dung: Thiết kế canô kéo dù bay phục vụ du lịch 
trên vịnh Nha Trang.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
 Thực tế nhận thấy, một trong những yếu tố quan trọng và khó 
khăn khi thiết kế chế tạo ca nô là phải đạt được tốc độ cao. Về mặt 
lý thuyết có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ: Đặc điểm 
đường hình, bố trí chung, hệ thống động lực…Do đó thiết kế ca nô 
là một bài toán phức tạp và có ý nghĩa quan trọng.
 Ở nước ta hiện nay ca nô chủ yếu được thiết kế dựa trên những 
ca nô mẫu có tốc độ cao và có tính năng tốt được thử nghiệm.
 Vì vậy trong đề tài này, chúng tôi cũng dựa trên những ca nô 
có sẵn nhưng có sự phân tích và lựa chọn nhằm mục đích đưa ra 
mẫu ca nô phù hợp về mặt tính năng, tốc độ, phù hợp điều kiện 
kinh tế- kỹ thuật- công nghệ nước ta hiện nay.
* Đặc điểm địa hình và khí hậu vịnh Nha Trang
 Vịnh Nha Trang có diện tích khoảng 507 km2 bao gồm 19 hòn 
đảo, trong đó Hòn Tre là đảo lớn nhất, diện tích 3.250 ha; đảo nhỏ 
nhất là Hòn Nọc, chỉ 4 ha. Vịnh Nha Trang có khí hậu hai mùa rõ 
rệt. Mùa khô kéo dài từ tháng riêng đến tháng tám, mùa mưa từ 
tháng chín đến tháng mười hai, Nhiệt độ bình quân là 26 độ C, 
nóng nhất 39 độ C, lạnh nhất 14,4 độ C, gió với tần suất khác nhau, 
mùa đông hướng gió Tây Bắc và Bắc Đông Bắc, chiếm tới tần suất 
8090 %. Về mùa hạ hướng gió là Tây và Tây Nam chiếm tần suất 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
trên 50%. Tốc độ gió trung bình vào khoảng 2 – 2,5 (km/h). Những 
đặc điểm khí hậu trên rất thuận lợi cho tham quan du lịch biển. 
1.2. GIỚI THIỆU CÁC VẬT LIỆU DÙNG TRONG CHẾ TẠO 
CANÔ.
 Gỗ là loại vật liệu phổ biến và từ lâu đã được sử dụng trong 
việc đóng tàu thuyền ở Việt Nam cũng như trên thế giới vì dễ thực 
hiện cùng với nguồn cung cấp dồi dào và giá rẻ. Ở nước ta hiện 
nay vẫn còn dùng nhiều gỗ để đóng và sửa chữa đội tàu đánh cá 
dân gian và tàu vận tải trên sông. Ngày nay với sự phát triển về 
dân số làm cho nguồn gỗ ngày càng cạn kiệt, nếu đóng nhiều tàu 
gỗ thì nguy cơ phá rừng cao, gây hại cho môi trường. Thép là loại 
vật liệu được sử dụng rộng rãi nhất trong đóng tàu, nhờ có những 
đặc tính ưu việt của thép về tính năng cơ học, giá thành hợp 
lý…mà người ta có thể đóng những con tàu dài đến 500m trọng tải 
trên đưới 1/2 triệu tấn trong khi đó vật liệu gỗ chỉ đóng được con 
tàu trên dưới 50 ÷ 60m.
 Tuy nhiên, cả hai vật liệu truyền thống này khi làm vỏ tàu đòi 
hỏi quy trình bảo dưỡng rất nghiêm khắc. Tàu vỏ gỗ phải kéo lên 
bờ định kỳ, tàu vỏ thép cũng phải đưa vào ụ hoặc lên đà để bảo 
dưỡng định kỳ.
 Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ hiện đại dẫn đến nhu cầu 
to lớn về loại vật liệu, đồng thời có nhiều tính chất cần thiết mà các 
vật liệu nêu trên (kim loại, ceramic, polymer) khi đứng riêng rẽ 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
không thể có được, mà nổi bật là loại vừa bền lại vừa nhẹ, lại có 
tính ăn mòn cao. Tính chất cơ bản và cần thiết nhất của vật liệu mà 
phần lớn các sản phẩm cơ khí, chế tạo máy đòi hỏi là tính chịu nén, 
kéo, chịu ăn mòn và nhẹ. Qua nghiên cứu, người ta đã tìm được 
phức hợp vật liệu gồm sợi các bon chịu kéo và keo silicát chịu nén 
có thể bổ trợ cho nhau, cả hai cùng nhẹ và không bị ăn mòn hoá 
học, đây là vật liệu mới vật liệu Composite (FRP).
 Canô là một phương tiện nhỏ dùng để phục vụ quân sự, vận 
chuyển hàng hoá, hành khách, phục vụ du lịch, tuần tra, cứu nạn, 
trên các sông, hồ, vịnh… Vì đặc điểm của canô là phải có tốc độ 
cao, có lượng dãn nước nhỏ, tính quay trở tốt, tính năng động cao, 
khối lượng nhỏ dễ dàng vận chuyển….Chính những yếu tố trên 
nên yêu cầu vật liệu chế tạo ca nô cũng phải phù hợp. Trước đây 
khi chưa có vật liệu Composite hầu hết các canô đều được chế tạo 
từ hợp kim nhôm vì hợp kim này nhẹ, độ bền cao, khả năng chống 
chịu môi trường lớn nên phù hợp được các yêu cầu về độ bền, tốc 
độ, lượng dãn nước nhỏ, tính thẩm mỹ, phương pháp thi 
công…Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ hiện 
đại, vật liệu mới cũng ra đời đó là vật liệu Composite (FRP) vật 
liệu mới này có những đăc điểm sau:
 * Ưu điểm: 
+ Có độ bền vững cao, trọng lượng nhẹ.
+ Có độ tính hoá học tốt, tính cơ học cao.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
+ Chịu được biến dạng uốn.
+ Chịu tác dụng lực liên tục.
+ Không thấm nước.
 + Riêng nhựa pholyester có độ bền chịu nhiệt cao, 
chịu ẩm và xâm thực của môi trường.
 + Phương thức thi công đơn giản, tuổi thọ cao.
 + Giá thành phù hợp.
 * Nhược điểm:
 + Modun đàn hồi thấp.
 + Sức chịu ma sát và chịu đập thấp.
 + Bị giòn khi nhiệt độ cao.
 Chính những ưu điểm nổi bật của vật liệu mới nên nó thay thế 
dần vật liệu nhôm trong chế tạo canô trước kia. Vì vậy, trong đề tài 
này tôi cũng sử dụng vật liệu Composite trong việc chế tạo vỏ canô 
kéo dù bay.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
Chương 2: 
 VẬT LIỆU COMPOSITE
1.3.1.Định nghĩa thành phần và phân loại.
1.3.1.1. Định nghĩa.
 Vật liệu Composite hay Composite là vật liệu tổ hợp từ hai 
vật liệu có bản chất khác nhau. Vật liệu tạo thành có đặc tính trội 
hơn đặc tính của từng vật liệu thành phần khi xét riêng rẽ. Tuy 
nhiên, định nghĩa này chưa đầy đủ. Vật liệu composite được xác 
định theo các tiêu chuẩn:
- Cả hai chất thành phần phải có tỷ lệ lớn hơn 5%.
 - Chỉ khi các pha thành phần có cơ tính khác nhau và cơ tính 
của vật liệu Composite khác một cách đáng kể với cơ tính của vật 
liệu thành phần.
 - Trong vật liệu Composite, các vật liệu thành phần không hoà 
tan hẳn vào nhau.
 Về phương diện hoá học, Composite có hai pha (hoặc nhiều 
hơn) riêng biệt, được phân ra bởi mặt phân cách riêng biệt. Thành 
phần liên tục tồn tại với khối lượng lớn trong Composite gọi là 
nền. Composite có thể là nền gốm, kim loại hoặc polymer.
 Thành phần thứ hai được gọi là cốt, có tác dụng làm tăng cơ 
tính cho vật liệu nền. Cơ tính của vật liệu composite phụ thuộc 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
vào: Cơ tính của vật liệu thành phần, luật phân bố hình học của vật 
liệu cốt, tác dụng tương hỗ giữa các vật liệu thành phần,….
1.3.1.2. Phân loại.
 Vật liệu Composite được phân loại theo hình dáng và theo bản 
chất của các vật liệu thành phần.
* Theo bản chất vật liệu nền: Tùy thuộc vào bản chất vật liệu 
nền, vật liệu Composite chia thành ba nhóm: 
- Composite nền kim loại (như hợp kim nhôm, titan…) với vật 
liệu cốt dạng: Sợi kim loại (Bo); sợi khoáng (cacbon, SiC).
- Composite nền khoáng (gốm) với cốt là các dạng: sợi kim 
loại (Bo); hạt gốm (cacbua,nitơ). Hạt kim loại (chất gốm 
kim).
- Composite nền hữu cơ (nhựa, hạt) cùng với vật liệu cốt dạng: 
sợi hữu cơ (polyamit, Kevlar..); sợi khoáng (thuỷ tinh 
cacbon…); sợi kim loại (Bo, nhôm..)
* Theo hình dáng vật liệu cốt:
 - Vật liệu Composite cốt sợi: Khi vật liệu cốt là các sợi, ta gọi 
là Composite cốt sợi, sợi được sử dụng có thể dưới dạng liên tục, 
có thể dưới dạng gián đọan: Sợi ngắn, vụn….Ta có thể điều khiển 
sự phân bố, phương của sợi để có vật liệu dị hướng theo ý muốn. 
Và cũng có thể tạo ra các vật liệu có cơ lý tính khác nhau, khi chú 
ý tới:
+ Bản chất của vật liệu thành phần.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
+ Tỷ lệ các vật liệu tham gia.
+ Phương của sợi.
 - Vật liệu Composite cốt hạt: Khi vật liệu cốt có dạng hạt, ta 
gọi là Composite cốt hạt. Hạt khác sợi ở chỗ, nó không có kích 
thước ưu tiên. Hạt thường được sử dụng để cải thiện một số cơ tính 
của vật liệu nền, chẳng hạn tăng độ cứng, tăng khả năng chịu nhiệt, 
chịu mòn, giảm khả năng co ngót…
1.3.1.3. Vật liệu Composite (FRP) chế tạo canô. 
Vật liệu Compositer (FRP) trong chế tạo canô là cốt sợi thuỷ tinh 
nền nhựa polyester không no.
 * Cốt là những tấm sợi thuỷ tinh băm (sau đây gọi là “tấm sợi 
băm”), những tấm vải sợi thuỷ tinh thô (sau đây gọi là “vải sợi 
thô”), và sợi thuỷ tinh thô (sau đây gọi là “sợi thô”), dùng làm cốt 
cho FRP được chế tạo từ sợi dài.
 * Mát gồm các lớp sợi liên tục hoặc gián đoạn, phân bố hỗn 
loạn trong một mặt phẳng. Các sợi được giữ với nhau nhờ chất liên 
kết có thể hoà tan hoặc không hoà tan trong nhựa, tuỳ thuộc vào 
công nghệ sử dụng. Tính phân bố hỗn loạn của các sợi làm cho 
“mát” có tính đẳng hướng trong mặt phẳng của nó.
 Vải (hay băng) là một tổ hợp mặt các sợi, các mớ …vv, được 
thực hiện nhờ kỹ thuật dệt. Vải gồm:
- Phương cơ bản (dọc), đó là tập hợp tất cả các sợi song song, 
phân bố trong mặt phẳng theo chiều dài của vải.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
- Phương ngang, đó là tập hợp tất cả các sợi bắc ngang qua 
các sợi dọc.
Người ta phân biệt các loại vải dựa vào loại sử dụng (sợi đơn giản, 
mớ…), có nghĩa là dựa vào khối lượng dài của sợi, và vào kiểu 
tréo sợi dọc và ngang, bao gồm 4 kiểu: Lụa trơn, xa tanh, vân chéo,
kiểu đồng phương.
* Nhựa polyester.
 Nhựa polyester được sử dụng từ lâu để chế tạo các vật liệu 
Composite. Dựa trên mô đun đàn hồi, người ta phân loại polyester: 
Nhựa nền, nhựa cứng vừa phải và nhựa cứng. Loại nhựa cứng 
thường được sử dụng để chế tạo vật liệu composite. Chúng ta có 
thể liệt kê một số cơ tính chính của loại nhựa cứng đã đóng rắn.
Khối lương riêng 
1.200 kg/m3
Mô đun đàn hồi kéo 2,8 
đến 3,5 Gpa
Mô đun đàn hồi uấn 3 
đến 4 Gpa
Ứng suất phá huỷ kéo 50 
đến 80 Mpa
Ứng suất phá huỷ uấn 90 
đến 130 MPa
Biến dạng phá huỷ kéo 2 đến 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
5 % 
Biến dạng phá huỷ uấn 7 đến 
9 %
Độ bền nén 90 đến 
200 MPa
Độ bền cắt 10 đến 
20 MPa
Nhiệt độ uấn cong dưới tải trọng (1,8 Mpa) 60 đến 
1000C
* Nhựa polyester có ưu điểm:
- Cứng.
- Ổn định kích thước.
- Khả năng thấm vào sợi và nhựa cao.
- Dễ vận hành.
- Chống môi trường hoá học.
- Giá thành hạ
* Nhựa polyeste có nhược điểm sau: 
- Dễ bị nứt, đặc biệt nứt do va đập.
- Độ co ngót cao (khoảng 8 – 10%).
- Khả năng chịu hơi nước, nước nóng kém.
- Bị hư hại dưới tác hại của tia cực tím.
- Dễ bắt lửa.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
- Chịu nhiệt trung bình (dưới 1200C).
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
chương 3: 
CƠ SỞ LÝ THUYẾT THUỶ ĐỘNG 
HỌC CA NÔ CAO TỐC
 Đa số các canô hiện nay hoạt động dựa trên lý thuyết thuỷ 
động học vì hoạt động trên nguyên lý này có hình dáng, kết cấu 
đơn giản hơn hoạt động trên nguyên lý khí động học.
 Trong đề tài này, canô được thiết kế cũng hoạt động trên 
nguyên lý thuỷ động học do đó ta cần tìm hiểu về nguyên lý thuỷ 
động học của canô cao tốc.
* Lực nâng và lực cản tấm phẳng.
 Lực nâng và lực cản của tấm lướt ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ 
của canô cao tốc, do đó ta cần xác định các thành phần lực này để 
lựa chọn hình dáng đáy canô hợp lý nhất nhằm làm nhẹ cho ca nô 
khi chạy.
 Đối với các tàu chạy chậm hoặc tàu thuộc nhóm tàu chạy 
nhanh đang đứng yên trên nước phương trình cân bằng được viết 
dưới dạng trọng lượng toàn tàu đúng bằng lực nổi.
 W = .V 
(1.1)
Trong đó W - trọng lượng tàu (Tấn).
V - thể tích chiếm nước (m3).
 - trọng lượng riêng của nước (T/m3).
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
Tàu đang chạy, khi sang giai đoạn quá độ lực nâng bắt đầu tham 
gia vào thành phần các lực tác dụng lên tàu, phương trình cân bằng 
sẽ có dạng:
 W =  .V1+ L 
(1.2)
Trong đó W- trong lượng thân tàu (tấn)
Trong đó: V1 - thể tích chìm của phần thân tàu trong trạng thái 
đang chạy đủ nhanh, trong mọi môi trường V1<V.
L - lực nâng (KG).
 Tàu chạy càng nhanh, lực nâng L càng lớn, V1 càng nhỏ dần, 
song phương trình (1.2) luôn cân bằng.
 Lực nâng xuất hiện trong quá trình thân tàu chạy lướt. Dưới tác 
dụng của ngoại lực tấm đang nghiêng với góc tấn  , chuyển động 
với vận tốc v trong nước. khi chuyển động tấm có tác dụng làm 
thay đổi hướng dòng, vận tốc dòng chảy trên tấm chia dòng thành 
hai phần, phần dưới và phần trên. Điểm 0 nằm tại ranh giới giữa 
hai miền đó gọi là điểm giới hạn. Từ định luật Bernoulli có thể xây 
dựng đường phân bố áp lực thuỷ động, giá trị lớn nhất của đường 
này phải rơi đúng vào điểm 0
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
Hình 1.1: Phân tích lực tấm phẳng.
Từ hình ảnh vừa có người ta có thể xây dựng các cách tính 
xác định lực thủy động lên tấm dạng lướt. Tổng cộng tất cả lực 
pháp tuyến trên hình 1.1 có thể quy tụ thành lực F tác động vuông 
góc với tấm. Để giúp việc tính toán thuận lợi chúng ta sẽ tiếp tục 
phân F thành các thành phần cấu thành mang ý nghĩa thực tế. Lực 
F có thể phân thành hai thành phần Fy và Fx, theo hướng trục Oy và 
Ox tương ứng. Cần giải thích ngay, trong kỹ thuật thành phần Fx
chính là lực cản chuyển động của tấm trong nước, thường được ký 
hiệu bằng R hoặc D. Thành phần Fy thường được gọi là lực nâng L 
.
Công suất kéo cần thiết của canô:
A = Fx.v = R.v =F.sin.v (1.3)
Bỏ qua năng lượng tạo sóng lúc chuyển động có thể cho rằng 
toàn bộ năng lượng được dùng cho việc đẩy tấm về trước đã dành 
cho việc tạo các tia nước bắn tung tóe ra sau. Vận tốc dòng dạng 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
này phải bằng tổng vectơ của vận tốc tấm đang lướt và vận tốc 
dòng so với tấm.
Vp = 2.v.cos(/2) (1.4)
Trong khi đó khối lượng nước bị ném về trước trong quá 
trình chuyển động của tấm, tính bằng v, với  - mật độ nước 
(kg/m3),  - chiều dày dòng các tia nước bị phun (m).
Động năng của dòng bị phun tung tóe (Spray) có thể tính:
AS = ½.mvp
2 = ½.v.(2.v.cos (/2))2 = 2. v3.cos2(/2) 
(1.5)
So sánh (1.3) với (1.5) có thể viết:
F.v.sin = 2. v3.cos2(/2) 
(1.6)
Từ đó:
F = v2. 
sin
)2/(cos.2 2 = v2.
)2/sin().2/cos(.2
)2/(cos.2 2
 
(1.7)
Hoặc là F = v2.cotg(/2).
Lực nâng và lực cản tính theo công thức sau:
L = Fy = F.cos = v2.
)2/cos(.2
cot
g 
(1.8)
D = Fx = F.sin = v2.
)2/sin(.2
cot
g 
(1.9)
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
Công thức (1.8) cho phép phát biểu rằng, khi đã biết giá trị 
của v và  chúng ta có thể xác định ngay được lực nâng L và lực 
cản D của tấm, nếu biết rõ về chiều dày lớp nước bị phun tung tóe. 
Với góc tấn nhỏ chiều dày lớp này được tính theo công thức:
 = 2..
4
 l (1.10)
Trong đó: l – chiều dài mặt ướt .
Hình ảnh dòng chảy dưới tấm phẳng (flat planing surface) 
được giới thiệu tại hình 1.3. Giới thiệu phân bố vận tốc dòng, áp 
lực thủy động lên tấm.
Hình 1.2. Giới thiệu phân bố vận tốc dòng áp.
Dòng nước bị bắn ngang dưới khối trụ đáy V được minh họa 
tại hình 1.3a. Hướng dòng và vận tốc dòng được trình bày tại hình 
1.3b.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
Hình 1.3. Hình thể hiện hướng dòng nước.
Với tấm phẳng đang lướt, phân bố áp suất theo chiều ngang 
đáy được giới thiệu tại hình 1.4a, còn phân bố dọc của áp suất 
được trình bày tại hình 1.4b.
Hình 1.4. Hình phân bố áp suất theo chiều ngang đáy.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
CHƯƠNG 4
YÊU CẦU KỸ THUẬT ĐỐI VỚI CA NÔ 
KÉO DÙ BAY VÀ XÂY DỰNG NHIỆM 
VỤ THƯ
 Theo Quy phạm phân cấp và đóng tàu thủy cao tốc TCVN 
6451 – 2004 thì tàu cao tốc được hiểu là tàu có tốc độ lớn nhất 
được tính bằng mét/giây (m/s) hoặc hải lý/giờ (kn), bằng hoặc lớn 
hơn trị số tính theo công thức sau đây:
V  3,70 )/(1667.0 sm .
V  7,1922  )(1667.0 kn .
 Tốc độ lớn nhất của tàu là tốc độ thiết kế mà tàu khi hạ thuỷ 
lần đầu có thể đạt được ở công suất liên tục lớn nhất của máy 
chính, chạy trên biển lặng, ở trạng thái ứng với đường nước chở 
hàng thiết kế cao nhất.
 Trong đó: - Thể tích chiếm nước tương ứng với đường nước 
chở hàng thiết kế (m3).
 Tàu khách cao tốc có thể phân thành 3 nhóm chính:
 Nhóm 1: Tàu cao tốc cỡ nhỏ kiểu kết cấu boong hở, 
được sử dụng để chuyên chở hành khách hoặc các hàng bưu kiện 
trên sông có mớn nước cạn. Thiết bị đẩy ở đây thường là chân vịt 
hoặc là thiết bị phụt nước. Lượng chiếm nước của nhóm tàu này 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
thường không vượt quá 3 tấn. Sức chở khách cỡ 12 người. Công 
suất động cơ cỡ 107 HP, tốc độ cỡ 32 hl/h. Ngoài ra, trên những 
tàu nhỏ hoạt động trên sóng lớn, hồ chứa nước và các vùng biển gần 
bờ có thể sử dụng thiết bị đẩy là chân vịt.
 Nhóm 2: Canô. Đây là loại tàu cao tốc chở khách được 
sử dụng phổ biến trên các tuyến khác nhau. Lượng chiếm nước của 
chúng có thể đạt tới 25 tấn, với sức chở khoảng 100 khách và tốc 
độ  22 hl/h.
 Nhóm 3: Canô chạy biển. Đây là loại tàu cao tốc cỡ 
lớn nhất. Có lượng chiếm nước 60 – 70 tấn và lớn hơn, công suất 
động cơ có thể đạt 825 HP.
2.1. YÊU CẦU KỸ THUẬT ĐỐI VỚI CA NÔ KÉO DÙ BAY.
2.1.1. Yêu cầu về tốc độ.
 Yêu cầu về tốc độ, đối với ca nô kéo dù bay là vấn đề quan 
trọng hàng đầu khi thiết kế đòi hỏi phải đạt được. Đặc điểm hình 
học là một trong các yếu tố làm ảnh hưởng lớn đến tốc độ và tính 
năng hàng hải của ca nô, đặc điểm hình học bao gồm các kích 
thước chính và bản vẽ đường hình (hình dạng hình học). Đối với ca 
nô kéo dù bay, tốc độ của ca nô yêu cầu đạt được là rất lớn, khi 
kéo dù thì vận tốc của canô yêu cầu đạt được phải rất nhanh từ 0 
cho đạt đến vận tốc cực đại để kéo cất chiếc dù lên, khi hạ dù canô 
chuyển nhanh từ vận tốc cực đại về vận tốc nhỏ để đảm bảo chiếc 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
dù đang ở vị trí góc lệch lớn nhất được rơi xuống như tự do theo 
phương thẳng đứng. Do đó, việc nghiên cứu xác định hợp lý giữa 
máy và đặc điểm hình học có vai trò và ý nghĩa quan trọng. 
2.1.2. Các yêu cầu đối với kích thước chính của canô kéo dù.
 - Với nhiệm vụ của canô thiết kế dùng để kéo dù bay, kiêm 
chở khách phục vụ du lịch vì thế phải đảm bảo được diện tích và 
khoảng không gian cần thiết để bố trí chỗ ngồi của hành khách và 
các thành phần tải trọng có mặt trên canô như hành lý và trang 
thiết bị, các dự trữ khác…
 - Các kích thước chính của canô nên có giá trị nhỏ nhất nhằm 
đảm bảo được trọng lượng và giá thành canô.
 - Tỷ số giữa các kích thước chính nằm trong giới hạn cho phép 
nhằm đảm bảo tính năng hàng hải và tốc độ cuả ca nô.
 Chiều dài L có ảnh hưởng quyết định đến mọi công việc như bố 
trí trên canô và ảnh hưởng tới trọng lượng vỏ được thiết kế. Chiều 
dài L lớn thì việc bố trí trang thiết bị trên canô dễ dàng hơn. Tuy 
nhiên, sẽ tăng khối lượng vỏ ca nô ảnh hưởng tới tốc độ của canô. 
Nếu chiều dài L của canô nhỏ thì sẽ làm cho việc bố trí trên canô 
gặp khó khăn nhưng đổi lại khối lượng vỏ giảm. Vì vậy, cần phải 
lựa chọn chiều dài L của canô một cách hợp lý, phải đảm bảo kết 
hợp hài hoà giữa sức chở và tốc độ.
 Chiều rộng B của canô có ảnh hưởng quyết định tới tính năng 
của canô. Chiều rộng B quá lớn thì làm cho việc cân bằng dễ dàng 
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 
hơn, ổn định động khá tốt, tuy nhiên ổn định dọc sẽ giảm. Chiều 
rộng B nhỏ đưa đến những điều không tốt cho phương tiện, B quá 
nhỏ không đảm bảo ổn định ban đầu như mong đợi, ổn định động 
của canô rất kém. Canô với B quá hẹp sẽ làm lực nâng đáy khi 
canô chạy không đủ độ lớn và hậu quả là canô không nân