Để đáp ứng cho nhu cầu sửdụng năng lượng của nền kinh tế, trong 
những năm qua ngành Than Việt Nam đã phát triển mạnh mẽvà sẽcòn phát 
triển mạnh trong những năm tiếp theo. Sản lượng than theo quy hoạch được 
trình bày trong Bảng 1.1 
Bảng 1.1: Sản lượng than khai thác theo quy hoạch 
Sản lượng năm (Triệu tấn) 
TT Tên gọi 
2007 2008 2009 2010 2015 2020 
1 Than nguyên khai 35,33 36,71 40,525 44,64 50,185 54,755 
1.1 Lộthiên 19,77 19,46 19,785 18,57 18,615 18,155 
1.2 Hầm lò 15,56 17,25 20,740 26,07 31,570 36,600 
Nguồn: Quy hoạch phát triển ngành Than Việt Nam 
Qua bảng trên ta thấy sản lượng than tăng nhanh theo các năm trong đó 
sản lượng than lộthiên sẽgiảm dần và sản lượng than hầm lò tăng mạnh. Để
đáp ứng được tốc độtăng trưởng sản lượng trên đòi hỏi ngành than phải đổi 
mới, hiện đại hoá công nghệvà thiết bị, thực hiện cơgiới hoá đồng bộcác 
khâu trong dây truyền sản xuất. Một trong các khâu quan trọng trong dây 
truyền sản xuất than hầm lò chính là khâu vận tải. Trong ngành than hiện nay 
áp dụng rất nhiều phương thức vận tải trong hầm lò như: 
+ Vận tải bằng băng tải; 
+ Vận tải bằng máng cào; 
+ Vận tải bằng Skíp; 
+ Vận tải bằng xe gòong...
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 76 trang
76 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2349 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thiết kế, chế tạo vỏ bình ắc quy tàu điện mỏ bằng vật liệu phi kim loại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 BỘ CÔNG THƯƠNG 
TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP THAN- KHOÁNG SẢN VIỆT NAM 
VIỆN CƠ KHÍ NĂNG LƯỢNG VÀ MỎ- TKV 
* * * * * 
BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NCKH 
TÊN ĐỀ TÀI 
NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ, CHẾ TẠO VỎ BÌNH ẮC 
QUY TÀU ĐIỆN MỎ BẰNG VẬT LIỆU PHI KIM LOẠI 
MÃ SỐ: 02NN-07 
ThS. ĐỖ TRUNG HIẾU 
6777 
10/4/2008 
Hà Nội, 2007 
 BỘ CÔNG THƯƠNG 
TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP THAN – KHOÁNG SẢN VIỆT NAM 
VIỆN CƠ KHÍ NĂNG LƯỢNG VÀ MỎ- TKV 
BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NCKH 
TÊN ĐỀ TÀI 
NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ, CHẾ TẠO VỎ BÌNH ẮC QUY 
TÀU ĐIỆN MỎ BẰNG VẬT LIỆU PHI KIM LOẠI 
MÃ SỐ: 02NN-07 
THUYẾT MINH BÁO CÁO 
 Cơ quản chủ quản: Bộ Công Thương 
Cơ quan chủ trì: Viện Cơ khí Năng lượng và Mỏ -TKV 
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI 
Đỗ Trung Hiếu 
DUYỆT VIỆN 
Hà Nội, 2007 
 DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN 
TT Họ và tên Nghề nghiệp Cơ quan công tác 
1 Đỗ Trung Hiếu Thạc sỹ Máy và Dụng cụ 
Công nghiệp 
Viện Cơ khí Năng lượng 
và Mỏ - TKV 
2 Trần Đức Thọ Thạc sỹ Máy và Dụng cụ 
Công nghiệp 
Viện Cơ khí Năng lượng 
và Mỏ - TKV 
3 Hoàng Văn Vĩ Kĩ sư Chế tạo máy mỏ Viện Cơ khí Năng lượng 
và Mỏ - TKV 
4 Đàm Hải Nam Kĩ sư Công nghệ Chế tạo 
máy 
Viện Cơ khí Năng lượng 
và Mỏ - TKV 
5 Nguyễn Đức Toàn Thạc sỹ Máy và Dụng cụ 
Công nghiệp 
Trường Đại học Bách 
khoa Hà Nội 
6 Vũ Quang Hà Thạc sỹ Công nghệ Chế 
tạo máy 
Công ty TNHH Công 
nghiệp Quang Nam 
7 Vương Thế Hà Kỹ sư Cơ khí Phó GĐ Công ty CP Cơ 
khí Ôtô Uông Bí 
8 Trương Mậu Đạt Kỹ sư Cơ khí Tr. Phòng KCS Công ty 
CP Cơ khí Ôtô Uông Bí 
9 Vũ Văn Công Kỹ sư Công nghệ Chế 
tạo máy 
Tr. Phòng KT Công ty 
CP Cơ khí Ôtô Uông Bí 
 Môc lôc 
Trang 
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ................................................................... 5 
1.1. Tình hình sử dụng tàu điện ắc qui tại các mỏ than Việt Nam... 5 
1.2. Tình hình nghiên cứu ứng dụng vật liệu phi kim loại. ............. 7 
CHƯƠNG 2. NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ SẢN PHẨM....................... 15 
2.1. Nghiên cứu điều kiện làm việc của vỏ bình ắc qui ................. 15 
2.2. Phân tích lựa chọn kết cấu và vật liệu chế tạo sản phẩm........ 16 
2.3. Chọn loại nhựa để chế tạo sản phẩm ...................................... 17 
2.4. Dùng phần mềm ANSYS9.0 tính toán kết cấu của vỏ bình ... 19 
CHƯƠNG 3. TÍNH TOÁN THIẾT KẾ KHUÔN ................................ 44 
3.1. Tìm hiểu khuôn ép nhựa ......................................................... 44 
3.2. Xây dựng quy trình thiết kế, chế tạo bộ khuôn ép phun......... 49 
3.3. Ứng dụng phần mềm Moldflow để đánh giá các bộ khuôn.... 63 
CHƯƠNG 4. CHẾ TẠO VÀ THỬ NGHIỆM SẢN PHẨM ................ 72 
4.1. Quy trình công nghệ chế tạo khuôn ........................................ 72 
4.2. Quy trình công nghệ chế tạo vỏ bình ...................................... 72 
4.3. THỬ NGHIỆM SẢN PHẨM.................................................. 72 
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................... 73 
5.1. Kết luận ................................................................................... 73 
5.2. Kiến nghị ................................................................................. 73 
 Ch−¬ng 1. TỔNG QUAN 
1.1. Tình hình sử dụng tàu điện ắc qui tại các mỏ than Việt Nam. 
Để đáp ứng cho nhu cầu sử dụng năng lượng của nền kinh tế, trong 
những năm qua ngành Than Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và sẽ còn phát 
triển mạnh trong những năm tiếp theo. Sản lượng than theo quy hoạch được 
trình bày trong Bảng 1.1 
Bảng 1.1: Sản lượng than khai thác theo quy hoạch 
Sản lượng năm (Triệu tấn) 
TT Tên gọi 
2007 2008 2009 2010 2015 2020 
1 Than nguyên khai 35,33 36,71 40,525 44,64 50,185 54,755 
1.1 Lộ thiên 19,77 19,46 19,785 18,57 18,615 18,155 
1.2 Hầm lò 15,56 17,25 20,740 26,07 31,570 36,600 
Nguồn: Quy hoạch phát triển ngành Than Việt Nam 
Qua bảng trên ta thấy sản lượng than tăng nhanh theo các năm trong đó 
sản lượng than lộ thiên sẽ giảm dần và sản lượng than hầm lò tăng mạnh. Để 
đáp ứng được tốc độ tăng trưởng sản lượng trên đòi hỏi ngành than phải đổi 
mới, hiện đại hoá công nghệ và thiết bị, thực hiện cơ giới hoá đồng bộ các 
khâu trong dây truyền sản xuất. Một trong các khâu quan trọng trong dây 
truyền sản xuất than hầm lò chính là khâu vận tải. Trong ngành than hiện nay 
áp dụng rất nhiều phương thức vận tải trong hầm lò như: 
+ Vận tải bằng băng tải; 
+ Vận tải bằng máng cào; 
+ Vận tải bằng Skíp; 
+ Vận tải bằng xe gòong... 
Khi vận tải bằng xe goòng thì cũng có những hình thức khác nhau như: 
Xe goòng kéo cáp, xe goòng kéo bằng đầu tàu điện cần vẹt, xe goòng kéo 
bằng đầu tàu điện ắc quy. 
Đối với đầu tàu điện ắc quy hiện nay cũng sử dụng hai loại bình ắc quy 
là ắc quy chì axít và ắc quy kiềm. Song so với ắc quy chì, ắc quy kiềm có ưu 
 thế tuyệt đối hơn hẳn về tuổi thọ (gấp 10 ÷ 15 lần ắc quy chì về thời gian sử 
dụng) và độ an toàn cho người và thiết bị (con người không bị bỏng nặng khi 
sơ suất; thiết bị không bị ăn mòn do hơi axít). Bởi vậy ắc quy kiềm được các 
đơn vị sử dụng phổ biến hơn. 
Các loại ắc quy dùng trong Tập đoàn Than – Khoáng sản hiện nay có 
xuất sứ từ rất nhiều nguồn khác nhau như của Liên Xô (cũ); của Ba Lan; của 
Trung Quốc... Hiện tại Công ty Cổ phần Cơ khí ôtô Uông Bí là đơn vị duy 
nhất trong ngành đã chế tạo và cung cấp được các loại bình ắc quy tàu điện 
mỏ. Sản lượng và chủng loại bình ắc quy đã tiêu thụ của công ty Cổ phần Cơ 
khí Ôtô Uông Bí trong năm 2006 và 2007 được liệt kê trong Bảng 1.2. 
Bảng 1.2: Sản lượng và chủng loại bình ắc quy đã tiêu thụ 
Sản lượng tiêu thụ TT Chủng loại 
2006 2007 
1 Ắc quy kiềm SN300 1500 2000 
2 Ắc quy kiềm SN350 1650 2500 
Sản lượng bình ắc quy do Công ty Cổ phần Cơ khí Ôtô Uông Bí bán ra 
hiện nay chiếm 65 ÷ 70% thị phần trong ngành Than – Khoáng sản, năng lực 
của Công ty có thể đáp ứng 100% nhu cầu thị trường. 
Tuy nhiên hiện nay Công ty vẫn áp dụng công nghệ làm vỏ bình bằng kim 
loại và được bọc một lớp ủng cao su trước khi lắp đặt lên đầu tàu điện. Để có thể 
thay thế vỏ bình ắc quy từ sắt sang vỏ bình bằng nhựa, Viện Cơ khí Năng lượng 
và Mỏ - TKV đã tiến hành đề tài nghiên cứu thiết kế chế tạo vỏ bình ắc quy tàu 
điện mỏ bằng vật liệu phi kim loại. Kết quả thành công của đề tài sẽ được 
chuyển giao cho Công ty Cổ phần Cơ khí Ôtô Uông Bí sản xuất để góp phần 
phục vụ ngành Than – Khoáng sản. 
 1.2. Tình hình nghiên cứu ứng dụng vật liệu phi kim loại. 
1.2.1. Ứng dụng vật liệu phi kim loại của thế giới. 
Trên thế giới, người ta đã ứng dụng chất dẻo để thay thế các vật liệu 
truyền thống từ lâu để sản xuất ra các sản phẩm kỹ thuật, các hàng hóa tiêu 
dùng. Hiện nay chất dẻo kỹ thuật được sử dụng rất nhiều trong lĩnh vực công 
nghiệp ôtô, xe máy, điện tử, điện lạnh, các chi tiết phụ tùng thiết bị máy móc, 
các thiết bị quang học, trong lĩnh vực thể thao và phục vụ cho nhiều ngành 
công nghiệp khác. Ưu điểm của việc gia công các sản phẩm kỹ thuật bằng 
chất dẻo là: có khả năng sản xuất với sản lượng lớn và năng suất cao; có thể 
thay đổi nhanh nhiều kiểu dáng khác nhau; sản xuất được các sản phẩm từ 
trong suốt đến nhiều màu sắc; chịu được tác động của môi trường hoá chất; 
chịu mài mòn, chịu nhiệt độ; cách điện tốt; sản phẩm nhẹ dễ gia công, dễ lắp 
ráp; giá thành hạ có sức cạnh tranh so với vật liệu truyền thống. 
Hiện nay, thế giới ứng dụng cả nhựa thông dụng, chất dẻo kỹ thuật, 
composite… để chế tạo các sản phẩm kỹ thuật phục vụ cho các ngành kinh tế. 
Để tăng cường cơ tính, người ta phải gia cường sợi thuỷ tinh hoặc khoáng 
chất vô cơ… thường mức gia cường từ 15% đến 60%. 
Các nước có nền công nghiệp hoá dầu tiên tiến đều sản xuất các loại chất 
dẻo kỹ thuật phù hợp với nhu cầu của nước mình. Ví dụ: Polyoximethylene 
(POM), Polybutylene Terephthalate (PBT), Polythylene Terephthalate (PET), 
Nylon 6,66 (Poly amide), Polycarbonate (PC) Termo poly urethne (TPU), Poly 
phenylene (PPS)… Hoặc phối chế các loại nhựa kỹ thuật để có được hỗn hợp 
nhựa đáp ứng về yêu cầu kỹ thuật như phối chế PC với ABS và gia cường bằng 
sợi thuỷ tinh từ 10% đến 20% để có tính ổn định kích thước rất cao, ổn định và 
có độ bền va đập ngay cả ở nhiệt độ thấp (-500C)... 
Ngoài vật liệu nhựa nhiệt dẻo (Thermo plastic), người ta cũng ứng 
dụng nhựa nhiệt cứng (Thermo Sets) vào gia công chế tạo các sản phẩm nhựa 
kỹ thuật, vì chúng có độ ổn định lớn, chịu nhiệt, chịu hoá chất, cách điện 
 tốt… hơn so với nhựa nhiệt dẻo, nếu được gia cường thì các đặc tính được 
tăng lên rất nhiều và có giá trị về mặt kinh tế. 
Trong lĩnh vực gia công chế tạo các sản phẩm nhựa kỹ thuật hiện nay, 
vật liệu Composite được ứng dụng nhiều. Composite là vật liệu được tổng 
hợp từ hai hay nhiều loại vật liệu khác nhau, nhằm mục đích tạo nên một vật 
liệu mới, ưu việt và bền hơn so với các vật liệu ban đầu. Vật liệu nền của 
Composite có thể là Polyme, Kim loại, hợp kim, gốm hoặc cacbon. Vật liệu 
cốt của Composite có thể là khoáng chất, sợi thủy tinh, sợi chất dẻo hoặc sợi 
kim loại, sợi cacbon. Composite có thể đáp ứng được một loạt các đòi hỏi cao 
của kỹ thuật hiện đại như độ bền cao, nhẹ, có thể chịu được nhiệt độ đến 
30000C... Vật liệu Composite Polyme được thay thế cho kim loại để chế tạo 
các chi tiết của máy bay, tên lửa, áo giáp cho cảnh sát, quân đội, ống dẫn dầu 
khí, hóa chất, vỏ và các chi tiết của ôtô, các thiết bị khác của ngành chế tạo 
máy. Để nâng cao cơ lý tính và giảm trọng lượng, xu hướng dùng sợi cac bon 
làm cốt cho Polyme đang được ứng dụng và phát triển nhanh. Composite 
Polyme sợi cacbon được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực thể thao, y tế, 
hàng không… 
Hiệu quả vật liệu Composite polyme sợi các bon được sử dụng trong việc 
chế tạo máy bay AN-124 của Nga (Số liệu của VS. TSKH Nguyễn Đình Đức): 
- Số lượng các chi tiết máy bay được chế tạo bằng vật liệu Composite 
Polyme sợi các bon: 200 chi tiết phụ tùng 
- Giảm được trọng lượng máy bay: 800kg. 
- Tăng khối lượng vận chuyển: 1108 tấn/km. 
- Tiết kiệm nhiên liệu: 1,2.104 tấn. 
- Giảm mức độ phức tạp khi chế tạo: 300 %. 
Với những tính năng, ưu điểm như vậy, mức tiêu thụ nhựa nhiệt dẻo kỹ 
thuật trên thế giới có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 7% (theo số 
 liệu của hãng Bager). Năm 1972, cả thế giới mới tiêu thụ khoảng 1,2 triệu tấn, 
năm 2000 tiêu thụ khoảng 8,5 triệu tấn, năm 2006 tiêu thụ khoảng 12 triệu tấn 
1.2.2. Ứng dụng vật liệu phi kim loại tại Việt Nam. 
 Ngành gia công chất dẻo của Việt Nam tuy phát triển nhanh thời gian 
qua, nhưng cũng bộc lộ một số mặt yếu kém: 
- Các thành phần kinh tế đều đầu tư vào ngành gia công chất dẻo, nhưng 
còn mang tính tự phát, nên dẫn đến sự hợp tác, hiệu quả kinh tế chưa cao, 
nhiều khi mất cân đối giữa cung và cầu. 
- Chưa chủ động được về nguyên liệu đầu vào. Hiện nay, nguyên liệu sản 
xuất trong nước mới đáp ứng được khoảng 10 % nhu cầu, chủ yếu là nhựa PVC. 
- Chưa có một cơ sở nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ 
thuật của ngành hoặc chuyên ngành. 
- Sử dụng các loại chất dẻo có nhiều để sản xuất các sản phẩm kỹ thuật 
cao cấp, thay thế các vật liệu truyền thống còn thấp. 
Từ những năm đầu của thập kỷ 90, chất dẻo kỹ thuật đã được chính thức 
sử dụng tại Việt Nam để chế tạo các bánh răng, gối đỡ của đồng hồ đo nước 
và đồng hồ đo điện, lẫy của bút bi (POM), các chi tiết phụ tùng máy dệt (PA) 
vỏ quạt, đồ điện (ABS), ống và phụ tùng cấp thoát nước PVC... 
Trong những năm qua, việc sử dụng nhựa nhiệt dẻo kỹ thuật để gia công 
chế tạo chi tiết phụ tùng phục vụ cho việc lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử, 
điện lạnh, xe hơi, xe máy, bưu chính viễn thông... còn quá nhỏ bé. Chỉ đến 
năm 2000, do việc đẩy mạnh tỷ lệ nội địa hoá các sản phẩm kỹ thuật, đặc biệt 
là nội địa hóa xe máy, nên tỷ trọng nhựa kỹ thuật đã được đẩy lên đến 25%. 
(Sản phẩm nhựa kỹ thuật cao, năm 1992 đạt 500 tấn, bằng 5%; năm 2000 đạt 
30.000 tấn, bằng 25%). 
Một trong những chiến lược phát triển công nghiệp Nhựa Việt Nam là 
tăng dần tỷ trọng sản phẩm nhựa kỹ thuật phục vụ công nghiệp, trước hết là 
công nghiệp ôtô, xe máy, điện tử, điện lạnh, phụ tùng chi tiết thiết bị máy 
móc... Hiện nay, đã có hàng chục hãng sản xuất xe hơi danh tiếng trên thế giới 
đầu tư lắp ráp xe với mục đích đến năm 2005, nâng tỷ trọng nội địa hoá 25%. 
 Ngành công nghiệp lắp ráp xe máy cũng phát triển rất mạnh với tỷ lệ nội địa 
hoá đạt 40 - 50 %. Bên cạnh đó, cần thoả mãn các chi tiết nhựa của 2 triệu 
TV, 1 triệu máy vi tính và khoảng 5 triệu điện thoại hàng năm. 
Tại thời điểm này, vật liệu Composite tiêu thụ tại Việt Nam khoảng 
5.000 tấn/năm. Composite được dùng phổ biến để sản xuất các mặt hàng gia 
dụng như bàn, ghế, bồn tắm, đồ chơi... và các sản phẩm công nghiệp như 
thuyền bè, canô, bồn chứa hoá chất... Một trong những cơ sở sản xuất lớn sản 
phẩm Composite là Công ty TNHH Kiên Giang... chuyên sản xuất canô, 
xuồng, ghe, bồn chứa nước, bồn thực phẩm, cống thủy lợi và sản phẩm của 
công nghiệp ô tô... 
Chất lượng sản phẩm nhựa nói chung và sản phẩm nhựa kỹ thuật nói 
riêng phụ thuộc vào 4 yếu tố: Nguyên liệu nhựa; Máy móc thiết bị; Khuôn 
đúc; Công nghệ. Do đó, để có thể có một ngành công nghiệp nhựa tiên tiến, 
đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế, ngành Nhựa cần phải có 
những điều kiện tối thiểu để chủ động sản xuất chế tạo, chí ít là một trong 4 
yếu tố này, đặc biệt là về nguyên liệu và khuôn đúc. Chắc chắn khi và chỉ khi 
làm được như vậy, ngành nhựa kỹ thuật cao nước ta mới phát triển đúng với 
tiềm năng vốn có của mình về thị trường cũng như năng lực sản xuất, nhất là 
khi ngành đang có trong tay nhiều thiết bị công nghệ tiến tiến hiện đại, cùng 
một thị trường rộng lớn với hơn 83 triệu dân trong nước và khoảng 600 triệu 
dân trong khu vực ASEAN. 
1.2.3. Tình hình nghiên cứu sản xuất vật liệu nhựa 
Sản lượng ngành nhựa Việt Nam trong những năm gần đây tăng mạnh 
là do nhu cầu của xã hội về sản phẩm nhựa ngày càng lớn cũng như thị hiếu 
của người tiêu dùng thích đa dạng hóa mẫu mã và nâng cao mức độ tiện ích 
đồ gia dụng, tính năng của một số sản phẩm nhựa công nghiệp bền và rẻ. Một 
phần nguyên nhân của sự tăng trưởng này là do các doanh nghiệp nhựa có kế 
hoạch đầu tư đúng đắn và phù hợp với nhu cầu thực tế thể hiện qua các hoạt 
động của các doanh nghiệp như nghiên cứu thị trường, định hướng chuyên 
môn hóa sản phẩm, không sản xuất đại trà nhiều ngành hàng. 
 Chỉ số chất dẻo sản xuất được tính trên đầu người Việt Nam thấp hơn 
nhiều so với các nước khác trên thế giới, năm 1996 là 5,58kg/người, năm 
2000 là 11,57kg/người và năm 2005 là 14kg/người và mục tiêu tới năm 2010 
là 30kg/người. Riêng Thành Phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận là 
100kg/người. Việt Nam cần thực hiện chiến lược và chương trình mạnh mẽ để 
phát triển ngành này. 
Ngành nhựa Việt Nam thực chất là một ngành kinh tế kỹ thuật về gia 
công chất dẻo, hiện chưa có khả năng sản xuất ra nguyên vật liệu nhựa, gần 
như toàn bộ nguyên vật liệu sản xuất ra sản phẩm nhựa phải nhập từ nước 
ngoài. Ngành nhựa có ưu điểm là công nghệ cập nhật hiện đại, tốc độ quay 
vòng nhanh, sử dụng lao động kỹ thuật là chính, sản phẩm đa dạng, phục vụ 
được nhiều đối tượng, lĩnh vực công nghiệp, cũng như trong tiêu dùng hàng 
ngày của xã hội. Theo thống kê, 70% nhu cầu vật chất cho đời sống con người 
được làm bằng nhựa, từ đó chỉ số chất dẻo trên đầu người được thỏa mãn là 
30 kg/người (Việt Nam hiện mới chỉ đạt khoảng 14kg/người), còn đạt trên 
100kg/người là quốc gia có nền công nghiệp nhựa tiên tiến. 
Nổi bật nhất trong những năm qua là sự vươn lên mạnh mẽ của khối 
các công ty tư nhân. Theo thống kê sơ bộ của Hiệp hội nhựa Việt Nam, các 
công ty tư nhân hiện sản xuất tới 70% sản lượng của cả nước, trong khi cách 
đây 5 năm con số này chỉ đạt 20%. 
Máy móc thiết bị ngành nhựa chủ yếu được nhập từ châu Á. Các công 
nghệ mới hiện đại trong 8 ngành kinh tế kỹ thuật nhựa đều đã có mặt tại Việt 
Nam, tiêu biểu như các công nghệ sản xuất vi mạch điện tử bằng nhựa, DVD, 
CD, chai 4 lớp, chai Pet, Pen, màng ghép phức hợp cao cấp BOPP. Ðến nay, 
cả nước có hơn 5000 máy bao gồm: 3000 máy ép (injection), 1000 máy thổi 
(bowling injection) và hàng trăm profile các loại trong đó 60-70% là máy đời 
mới. Trên 99% máy móc thiết bị nhập thông qua cảng TP Hồ Chí Minh (tổng 
giá trị hơn 26 triệu USD) là máy đời mới. 
Công nghệ áp dụng trong ngành sản xuất nhựa Việt Nam hiện nay bao 
gồm: Công nghệ ép phun (Injection Technology): Ðây là công nghệ truyền 
 thống của ngành sản xuất nhựa, được phát triển qua 4 thế hệ máy, thế hệ thứ 4 
là các loại máy ép điện, ép gaz đang được áp dụng phổ biến ở các quốc gia có 
công nghiệp nhựa tiên tiến (Mỹ, Ðức, Nhật...) đang thâm nhập vào thị trường 
châu Á. Loại công nghệ này phục vụ cho các ngành công nghiệp điện tử, điện 
dân dụng, sản xuất xe hơi và các ngành công nghiệp khác, đỉnh cao của công 
nghệ này là công nghệ nhựa vi mạch điện tử. Tại Việt Nam, hiện có gần 3000 
thiết bị ép phun, trong đó có 2000 máy ở thế hệ thứ 2, thứ 3 (những năm 90). 
Trước đây công nghệ ép phun được sử dụng sản xuất hàng gia dụng nay đã 
chuyển sang hàng nhựa công nghiệp phục vụ cho các ngành công nghiệp 
khác, sản phẩm của nó đụơc thay thế các chất liệu khác như gỗ, sắt, nhôm 
trong công nghiệp bao bì và hàng tiêu dùng. 
Công nghệ đùn thổi (Blowing injection technology): Ðây là công nghệ 
thổi màng, sản xuất ra các loại vật liệu bao bì nhựa từ màng, dùng trong các 
công nghệ thổi túi PE, PP và màng (cán màng PVC). Các loại máy thổi được 
cải tiến từ Việt Nam để thổi túi xốp từ nhiều loại nguyên liệu phối kết, sử 
dụng các loại nguyên liệu từ đơn nguyên PE, PP đến phức hợp OPP, BOPP 
thông qua giai đoạn cán kéo hai chiều, bốn chiều. Hiện nay nhiều doanh 
nghiệp nhựa sử dụng công nghệ đùn thổi bằng nhiều thiết bị nhập từ các 
nước, nhiều thế hệ để sản xuất các sản phẩm bao bì nhựa. Bên cạnh đó, ngành 
thổi bao bì dạng chai nhựa tiên tiến như PET, PEN, thùng phuy... đều phát 
triển từ công nghệ đùn thổi. 
Công nghệ đùn đẩy liên tục (Profile): Ðược cải tiến từ công nghệ 
truyền thống đùn thổi, từ nhu cầu tiêu dùng của xã hội phát triển được hình 
dung thành các nhóm hàng sau đây: 
- Nhóm sản phẩm dạng ống, từ ống PVC thoát nước đến PE cấp nước, 
cao cấp là các sản phẩm ống phức hợp nhôm nhựa, ống phức hợp gaz, cáp 
quang... 
- Nhóm sản phẩm vật liệu xây dựng, gia công thành phẩm khung cửa 
PVC, tấm trần, vách ngăn. 
 Công nghệ chế biến cao su nhựa: Là công nghệ ép sử dụng phổ biến 
trong các ngành chế biến cao su và các công nghệ ép phun sử dụng cùng lúc 
hai loại nguyên liệu nhựa và cao su Latex hoặc nhựa phối kết với cao su thiên 
nhiên với dạng compound. Là ngành kinh tế kỹ thuật nhựa có sức thu hút lớn 
chiếm vị trí thứ 3 trong 8 ngành kinh tế kỹ thuật nhựa. Công nghiệp gia công 
giày, dép nhựa cũng gắn liền với công nghệ này. 
Các công nghệ khác như: Composite, Melamine, Công nghệ EVA, PU, 
EPS và các công nghệ phụ. Thực trạng công nghệ nhựa hiện nay vừa thoát 
khỏi giai đoạn phát triển tự nhiên, từng bước đi vào quỹ đạo có quy hoạch, có 
định hướng, đặc biệt quá trình hội nhập đã thúc đẩy ngành nhựa phát triển 
mạnh hơn, nhanh hơn. 
Tuy đạt nhiều thành công trong 6 năm gần đây, nhưng ngành nhựa Việt 
Nam vẫn trong tình trạng lệ thuộc nguồn nguyên liệu nhập khẩu của nước 
ngoài. Công nghiệp chế tạo khuôn mẫu cũng rất yếu, chỉ sản xuất được những 
bộ khuôn chất lượng trung bình và không yêu cầu độ chính xác cao. 
Trong cơ cấu sản phẩm, hàng tiêu dùng chiếm đến 63%, còn lại khoảng 
20% là bao bì, 8% sản phẩm dùng làm vật liệu xây dựng. Sản phẩm nhựa kỹ 
thuật dùng cho các ngành điện, điện tử, xe gắn máy,... chỉ có 4%. Điều đó cho 
thấy, trình độ công nghệ của ngành nhựa Việt Nam vẫn còn ở mức thấp. 
Mục tiêu của Việt Nam trong 10 năm tới là hiện đại hóa công nghệ, 
thiết bị và tăng dần tỷ trọng sản phẩm nhựa kỹ thuật để thay thế hàng nhập 
khẩu. Đặc biệt là sản xuất phụ tùng cho các ngành công nghiệp ô tô, xe gắn 
máy, điện tử và điện lạnh... 
Các công ty nhựa Việt Nam đang có xu hướng chuyển sang nhập k