Trong nhưng năm gần đây, ngành du lịch nước ta đã có những chuyển biến tích cực.
Du lịch là ngành xuất khẩu tại chỗ hiệu quả nhất, đóng góp đáng kể vào tổng thu nhập kinh
tế quốc dân. Bên cạnh đó, ngành du lịch phát triển kéo theo các ngành kinh tế khác cũng
phát triển theo: giao thông, ngân hàng, bưu điện; mở rộng giao lưu quan hệ kinh tế, chính
trị và văn hoá với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện để Việt Nam
hội nhập , xây dựng nền kinh tế xã hội phát triển và quảng bá, giới thiệu về hình ảnh Việt
Nam- Đất nước- Con người.
Cùng với sự đi lên của ngành du lịch không thể thiếu lĩnh vực kinh doanh khách sạn
vì kinh doanh khách sạn cung cấp yếu tố đầu vào, là điều kiện cần để du lịch tồn tại và
phát triển. Nhiều năm nay khách sạn Dân Chủ , trực thuộc Tổng công ty du lịch Hà Nội,
nằm ở số 29 phố Tràng Tiền, khẳng định được vị thế, uy tín của mình trong hoạt động kinh
doanh khách sạn . Khách sạn không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ tương xứng với
thứ hạng(3 sao) và đóng góp vào quá trình phát triển của hoạt động kinh doanh khách sạn
nói riêng và ngành du lịch Việt Nam nói chung.
Trong thời gian thực tập tại khách sạn, em thấy công tác quản lý nhân lực rất có ý
nghĩa đối với hoạt động kinh doanh của khách sạn và em quyết định chọn đề tài “Thực
trạng công tác quản lý nhân lực tại khách sạn Dân Chủ- Một số kiến nghị hoàn thiện”
để nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này
73 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1993 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác quản lý nhân lực tại khách sạn Dân Chủ - Một số kiến nghị hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thực trạng công tác quản lý nhân lực
tại khách sạn Dân Chủ- Một số kiến
nghị hoàn thiện
Lời nói đầu
Trong nhưng năm gần đây, ngành du lịch nước ta đã có những chuyển biến tích cực.
Du lịch là ngành xuất khẩu tại chỗ hiệu quả nhất, đóng góp đáng kể vào tổng thu nhập kinh
tế quốc dân. Bên cạnh đó, ngành du lịch phát triển kéo theo các ngành kinh tế khác cũng
phát triển theo: giao thông, ngân hàng, bưu điện; mở rộng giao lưu quan hệ kinh tế, chính
trị và văn hoá với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện để Việt Nam
hội nhập , xây dựng nền kinh tế xã hội phát triển và quảng bá, giới thiệu về hình ảnh Việt
Nam- Đất nước- Con người.
Cùng với sự đi lên của ngành du lịch không thể thiếu lĩnh vực kinh doanh khách sạn
vì kinh doanh khách sạn cung cấp yếu tố đầu vào, là điều kiện cần để du lịch tồn tại và
phát triển. Nhiều năm nay khách sạn Dân Chủ , trực thuộc Tổng công ty du lịch Hà Nội,
nằm ở số 29 phố Tràng Tiền, khẳng định được vị thế, uy tín của mình trong hoạt động kinh
doanh khách sạn . Khách sạn không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ tương xứng với
thứ hạng(3 sao) và đóng góp vào quá trình phát triển của hoạt động kinh doanh khách sạn
nói riêng và ngành du lịch Việt Nam nói chung.
Trong thời gian thực tập tại khách sạn, em thấy công tác quản lý nhân lực rất có ý
nghĩa đối với hoạt động kinh doanh của khách sạn và em quyết định chọn đề tài “Thực
trạng công tác quản lý nhân lực tại khách sạn Dân Chủ- Một số kiến nghị hoàn thiện”
để nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này.
Chương I
Cơ sở lý luận chung về nhân lực, quản lý nhân lực trong hoạt động kinh doanh
khách sạn
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm về khách sạn
Cùng với sự đi lên của kinh tế, xã hội, thông tin, bưu điện cũng như giao thông
vận tải đã thúc đẩy du lịch phát triển mạnh mẽ. Du lịch đã trở thành nhu cầu không thể
thiếu của người dân ở bất kì quốc gia nào trên thế giới. Chính điều đó đã cho ra đời các cơ
sở chuyên thực hiện những việc liên quan tới du lịch. ở đâu có tài nguyên du lịch tất yếu sẽ
diễn ra hoạt động kinh doanh du lịch. Khách sạn là một trong những nhân tố không thể
thiếu được trong kinh doanh du lịch và trong quá trình “khai thác” tài nguyên du lịch của
một địa phương, một vùng hay một quốc gia.
Ngay từ ngày sơ khai, ngành khách sạn đã luôn gắn với hình ảnh sự mến khách
và đáp ứng các nhu cầu cơ bản của khách du lịch khi họ rời khỏi nơi cư trú thường xuyên
của mình đó là “ nhu cầu ở, nhu cầu ăn uống”. Tuy nhiên, ở thời kì này những chủ nhà
chưa nghĩ tới việc tìm kiếm “lợi nhuận” mà chỉ đơn thuần là “sự giúp đỡ” và “lòng mến
khách” đối với những người hành hương. Cũng vì lẽ đó mà sự mến khách- Hospitality-
được định nghĩa là: “Sự đón tiếp và đối xử thân tình với người xa lạ”. Với hầu hết mọi
người thì ngành khách sạn có nghĩa là tiếp đãi khách hàng với sự tôn trọng và tình cảm
nồng ấm.
Theo cuốn “Thuật ngữ chuyên ngành kinh doanh khách sạn” của tập thể tác giả
khoa Du lịch và Khách sạn trường đại học Kinh tế Quốc dân định nghĩa: “Khách sạn là cơ
sở cung cấp các dịch vụ lưu trú (với đầy đủ tiện nghi), dịch vụ ăn uống, dịch vụ vui chơi
giải trí và các dịch vụ cần thiết khác cho khách lưu lại tạm thời qua đêm tại các điểm du
lịch”.
Có thể nói khách sạn là một loại hình cơ sở lưu trú mà ai cũng có thể tiêu dùng,
sử dụng dịch vụ của nó nếu có khả năng. Nhưng để được coi là khách sạn thì cơ sở lưu trú
nhất định phải có phòng ngủ, phòng tắm, phòng vệ sinh và trong phòng ngủ phải có các
trang thiết bị tối thiểu là giường ngủ, bàn, ghế, dịch vụ điện thoại, ti vi… và các dịch vụ
khác phục vụ nhu cầu đa dạng của khách trong quá trình lưu trú tại khách sạn.
1.1.2. Hoạt động kinh doanh khách sạn và đặc điểm của hoạt động kinh doanh
khách sạn
1.1.2.1. Khái niệm về hoạt động kinh doanh khách sạn
Kinh doanh khách sạn là một hoạt động kinh doanh trên cơ sở cung cấp các dịch
vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ bổ sung cho khách du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu của
khách trong thời gian lưu tại điểm du lịch và mang lại lợi ích kinh tế cho các cơ sở kinh
doanh.
Nhu cầu đi du lịch chỉ là nhu cầu thứ yếu nên để thoả mãn các nhu cầu đòi hỏi
của khách du lịch bắt buộc kinh doanh khách sạn không chỉ đơn thuần là cho thuê buồng
ngủ mà nó bao gồm cả cho thuê các dịch vụ bổ sung như bể bơi, sàn nhảy, tennis… Các
dịch vụ bổ sung càng phong phú bao nhiêu kèm theo là chất lượng dịch vụ cung cấp tốt sẽ
thu hút nhiều khách đến với khách sạn hơn. Kinh doanh khách sạn là hình thức kinh doanh
trong nền công nghiệp mang tính cạnh tranh lớn. Nó đòi hỏi các hoạt động dịch vụ tại
khách sạn nhằm thoả mãn các nhu cầu tiêu dùng của khách ở mức độ hoàn hảo nhất mà
doanh nghiệp có thể đáp ứng. Các doanh nghiệp đều cố gắng tạo ấn tượng tốt bằng các
dịch vụ bắt buộc và không bắt buộc, đặc biệt là các dịch vụ không bắt buộc (bổ sung),
chính các dịch vụ này mới tạo nên uy tín và tin tưởng của khachs đối với khách sạn vì
trong cùng các khách sạn cùng hạn như nhau, người ta không còn để ý tới giá cả mà chu ý
tới vấn đề chất lượng dịch vụ tại khách sạn đó như thế nào, có đem lại những mong muốn
của họ hay không.
1.1.2.2 Các đặc điểm của hoạt động kinh doanh khách sạn
Thứ nhất , hoạt động kinh doanh khách sạn phụ thuộc vào tài nguyên du lịch
tại các điểm du lịch .
Hoạt động kinh doanh khách sạn chỉ có thể tiến hành ở những nơi có tài
nguyên du lịch bởi tài nguyên du lịch là yếu tố thúc đẩy, thôi thúc con người đi du lịch .
Nếu không có sự khác nhau về tài nguyên du lịch giữa các vùng thì chắc chắn hoạt động
du lịch sẽ kém phát triển . Nơi nào càng có nhiều tài nguyên du lịch nơi đó càng hấp dẫn
đối với du khách . Lượng khách đến các điểm du lịch sẽ làm nhu cầu về khách sạn lớn và
rõ ràng như vậy tài nguyên du lịch có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh khách sạn .
Mặt khác , việc tiếp nhận qui mô của tài nguyên du lịch sẽ quyết định đến qui mô, thứ
hạng của khách sạn. Sự hấp dẫn của tài nguyên du lịch quyết định tính hấp dẫn của khách
sạn . Mỗi loại tài nguyên du lịch sẽ chỉ phù hợp với một số khách hàng nhất định. Chính vì
vậy khi đầu tư vào hoạt động kinh doanh khách sạn đòi hỏi phải nghiên cứu kĩ tài nguyên
du lịch cũng như nhóm khách hàng mà chúng ta định hướng tới.
Thứ hai: Hoạt động kinh doanh khách sạn đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu cao và
đầu tư cơ bản cao
Chi phí để xây dựng một khách sạn rất cao vì không chỉ đầu tư vào các trang thiết
bị trong buồng ngủ mà còn kinh doanh các dịch vụ khách sạn đảm bảo tính tổng hợp đồng
bộ để thoả mãn nhu cầu của khách. Chi phí chuẩn bị đưa khách sạn vào hoạt động như
tuyển chọn nhân viên, thuê kỹ sư thiết kế…Khi đã đưa khách sạn vào hoạt động các nhà
quản lý phải tính toán tất cả các khoản với mục đích nâng cao chất lượng phục vụ như nối
mạng Internet, máy chiếu, thuê tuyển nhân viên mới…Ngoài ra, để tạo ra nét dị biệt trong
sản phẩm của mình khách sạn cũng cần phải có sự đầu tư cho nó, chi phí cho việc xây
dựng cơ sở hạ tầng, chi phí đất đai giải phóng mặt bằng…Khi tạo ra lợi nhuận nhà quản lý
phải phân bố một cách hợp lý luôn có khoản dùng cho việc nâng cấp để tạo điều kiện
thuận lợi khách sạn lên ở mức cao hơn chứ không phải chỉ bằng lòng với thứ hạng cũ.
Thứ ba: Hoạt động kinh doanh khách sạn đòi hỏi dung lượng lao động trực
tiếp tương đối cao
Do nhu cầu của con người rát phong phú, đa dạng và có tính cao cấp hay nói cách
khác sản phẩm khách sạn không có tính khuôn mẫu. Cho nên không thể dùng máy móc để
thay thế con người được mà phải sử dụng chính con người để thoả mãn tối đa nhu cầu của
khách và mức độ phục vụ phải cao.
Ngành kinh doanh khách sạn thuộc lĩnh vực dịch vụ do vậy chủ yếu sử dụng lực
lượng lao động sống là con người . Hơn nữa, yêu cầu của khách ngày càng cao hơn về số
lượng và chất lượng dịch vụ cho nên các nhà kinh doanh khách sạn phải nâng cao chất
lượng các sản phẩm của mình, đặc biệt là việc nâng cao thái độ phục vụ của nhân viên vì
sự thoả mãn bằng sự cảm nhận – sự mong chờ của du khách. Công thức sau đây thể hiện
mối quan hệ đó:
S = P – E
Trong đó E là một đại lưọng tương đối ổn định.Vậy muốn tăng S thì phải đẩy P lên.
Mà P là sự cảm nhận . Đó là sự cảm nhận bằng cơ quan giác quan của khách ngay khi
bước chân đến khách sạn. Muốn tăng P các nhà kinh doanh khách sạn cần tập trung vào 2
yếu tố : Con người và cơ sở vật chất kỹ thuật .Cho nên con người là một trong những nhân
tố để nâng cao chất lựơng sản phẩm mà cụ thể là thái độ phục vụ của nhân viên khách sạn
trong qúa trình phục vụ khách kể từ khi khách đến khách sạn cho đến khi khách rời khỏi
khách sạn . Để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch thì cần có sự chuyên môn hoá trong
phân công lao động dẫn đến đòi hỏi nhiều lao động trực tiếp hơn. Mặt khác thời gian kinh
doanh phụ thuộc vaò thời gian tiêu dùng của khách do đó lao động phải làm việc 24/24 giờ
một ngày đêm tạo thành những ca kíp làm việc và do thiên hướng nâng cao tính đa dạng
của sản phẩm nên có xu hướng số lao động trong hệ thống khách sạn ngày càng tăng.
Với đặc điểm này hoạt động kinh doanh khách sạn phải coi công tác tổ chức , quản
lý và sử dụng nhân lực là một trong những khâu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản
phẩm , sự hấp dẫn của khách sạn .
Thứ tư : Hoạt động kinh doanh khách sạn mang tính thời vụ
Hoạt động kinh doanh khách sạn mang tính thời vụ vì nó gắn liền với tài nguyên du
lịch, quy luật tâm sinh lý của con người tạo nên những chu lỳ. Gây khó khăn cho việc
hoạch toán chi phí và quản lý nguồn nhân lực., nếu không thực hiện tốt sẽ ảnh hưởng đến
chất lượng sản phẩm cung cấp và thua lỗ. Do vậy ,các nhà quản lý phải các biện pháp hợp
lý, còn mục tiêu cuối cùng là làm thoả mãn tối đa nhu cầu của khách và tạo ra nhiều doanh
thu cho khách sạn .
Qua các đặc điểm trên cho thấy khách sạn muốn tạo ra chất lượng dịch vụ tốt nhất
không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan mà còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố khách
sạn. Nhiệm vụ của những người đứng đầu doanh nghiệp khách sạn là với các yếu tố như :
vốn, nhân lực… sử dụng sao cho đạt hiệu quả cao nhất, đây là nhiệm vụ không dễ dàng .
1.2 Quản lý nhân lực trong doanh nghiệp khách sạn
1.2.1 Khái niệm nhân lực và quản lý nhân lực
_Nguồn nhân lực của một tổ chức bao gồm tất cả những người lao động làm việc
cho tổ chức đó.
_Quản lý nhân lực là một hệ thống các kiến thức, các nguyên tắc và các phương
pháp khoa học đã được đúc rút và kiểm nghiệm qua thực tế để thực hiện các chức năng
quản lý con người , tạo động lực để thúc đẩy hoạt động của họ, liên kết, phối hợp hoạt
động của con người, lãnh đạo và kiểm tra hoạt động của con người. Quản lý nhân lực là tất
cả các hoạt động của một tổ chức để xây dựng, phát triển, sử dụng, đánh giá, bảo toàn và
gìn giữ một lực lượng lao động phù hợp với yêu cầu của công việc của tổ chức cả về mặt
số lượng và chất lượng.
_ Đối tượng của quản lý nhân lực là người lao động với tư cách là những cá
nhân và các vấn đề có liên quan đến họ trong tổ chức như công việc và các quyền lợi của
họ.
_ Mục tiêu của quản lý nhân lực là nhằm nâng cao sự đóng góp có hiệu suất của
người lao động đối với tổ chức để giúp cho tổ chức có thể sử dụng được tốt nhất nguồn
nhân lực hiện có, đồng thời đáp ứng được các yêu cầu công việc trước mắt và trong tương
lai của tổ chức cũng như yêu cầu phát triển cá nhân của người lao động.
Thực chất quản lý nhân lực là công tác quản lý con người trong phạm vi nội bộ một
tổ chức, là sự đối xử của tổ chức đối với người lao động. Quản lý nhân lực trong doanh
nghiệp khách sạn chỉ là một phần trong công tác quản lý nhân lực trong hệ thống tổ chức
các doanh nghiệp nói chung, mặc dù mang một số nét riêng đặc thù. Để thực hiện được các
chức năng quản lý, người quản lý phải biết vận dụng linh hoạt các kiến thức, phương pháp
quản lý cho phù hợp với từng người lao động trong từng trường hợp.
1.2.2.Nội dung của công tác quản lý nhân lực trong kinh doanh khách sạn.
Mục tiêu của công tác quản lý nhân lực là hiệu qủa kinh doanh, tối thiểu là hoà vốn,
tạo động lực thúc đẩy nhân viên làm việc và thoả mãn các nguyện vọng chính đáng. Do
vậy, để đạt được mục tiêu trên, doanh nghiệp khách sạn cần phải tổ chức lao động một
cách hợp lý và khoa học, đồng thời phân công sắp xếp lao động vào vị trí làm việc phù hợp
với năng lực của họ. Để đạt được điều này, doanh nghiệp cần phải thực hiện tốt các nội
dung của công tác nhân lực sau:
1.2.2.1. Hoạch định nguồn nhân lực
Hoạch định nguồn nhân lực là nội dung đầu tiên đối với một doanh nghiệp cụ
thể, nhằm phác thảo kế hoạch tổng thể về nhu cầu nhân lực đối với một doanh nghiệp
trong tương lai. Dựa vào mục tiêu của doanh nghiệp từ đó hình thành nhu cầu nhân lực cho
các bộ phận khác nhau. Công tác này bao gồm:
Xác định nhu cầu lao động ( tăng hoặc giảm ) trong từng thời kỳ kinh doanh.
Trong đó cần dự kiến cả nhu cầu về chức danh, chất lượng, chế độ đãi ngộ , mức độ trách
nhiệm.
Đề ra chính sách và kế hoạch đáp ứng nhu cầu lao động đã dự kiến. Chú ý
xác định nguồn cung ứng nhân lực và khả năng thuyên chuyển nhân lực khi cần thiết.
Xây dựng các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng thừa hoặc thiếu lao động
xảy ra .
Do đặc điểm của hoạt động kinh doanh khách sạn mang tính thời vụ rõ rệt, bởi vậy
nhu cầu sử dụng lao động cũng co giãn theo. Nên công tác hoạch định nguồn nhân lực
đóng vai trò quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, tạo cho khách
cảm giác luôn được phục vụ tốt ở mọi lúc, mọi thời điểm là như nhau thậm chí ngày một
tốt hơn.
1.2.2.2. Tuyển dụng nhân lực
Tuyển dụng nhân lực trong khách sạn là quá trình tìm kiếm, thu hút và lựa chọn
nhân viên thích hợp với công việc tuyển dụng. Nhưng phải dựa vào nhu cầu sử dụng lao
động của từng bộ phận và đặc điểm từng công việc. Hơn nữa phải nhạy bén trong tình hình
thực tế của thị trường lao động, xem xét kỹ lưỡng luật lao động và các văn bản hiện hành
có liên quan đến vấn đề tuyển dụng .
Mục đích của công tác này là nhằm tạo ra cung ứng kịp thời số lao động đủ tiêu
chuẩn cho công việc của các bộ phận khác nhau. Họ phải đủ khả năng để đảm bảo những
vị trí thiếu khuyết của doanh nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tiến hành theo đúng
nghĩa của nó, tức là người được tuyển chọn phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Người được tuyển chọn phải là người có trình độ chuyên môn cần thiết, có
thể làm việc đạt tới năng suất lao động cao, hiệu suất công tác tốt.
- Người được tuyển chọn phải là người có kỷ luật, trung thực, gắn bó với công
việc.
- Người được tuyển chọn phải là người có sức khoẻ để có thể làm tròn được
nhiệm vụ mà doanh nghiệp giao cho.
Việc tuyển chọn này rất phức tạp, đòi hỏi tốn kém về thời gian, tiền bạc và sức lực,
nhưng nếu tuyển chọn không kỹ, tuyển chọn sai, tuyển chọn theo cảm tính hoặc theo một
sức ép nào đó thì sẽ dẫn đến hậu quả nhiều mặt về kinh tế và xã hội. Không những thế,
việc tổ chức tuyển lao động còn đòi hỏi phải được tiến hành theo một trình tự nhất định.
Quy trình tuyển dụng như sau:
Sơ đồ 1: Tiến trình tuyển chọn nhân viên
Chuẩn bị và thông báo tuyển dụng: Chuẩn bị tuyển dụng bao gồm các công
việc như phác thảo thông báo , mẫu phỏng vấn…Tiếp theo tiến hành thông báo tuyển dụng
bằng các hình thức thông tin đại chúng, cho chính nhân viên trong khách sạn…Trong
thông báo cần thông báo yêu cầu của công việc, chức danh, số lượng…
Thu nhận hồ sơ và sơ tuyển : Thông qua việc thu nhận và xem xét hồ sơ của
các ứng cử viên, doanh nghiệp có thể loại bớt những hồ sơ không đạt yêu cầu so với thông
báo đề ra.
Chuẩn bị và thông báo
tuyển dụng
Thu nhận hồ sơ và sơ
tuyển
Phỏng vấn và kiểm tra
tay nghề
Kiểm tra sức khỏe
Ra quyết định tuyển
dụng
Thử việc
Kí hợp đồng lao động
ứng cử
viên bị
loại
Phỏng vấn và kiểm tra tay nghề: Thông qua phỏng vấn , hội đồng tuyển dụng
sẽ tiếp xúc trực tiếp với ứng cử viên. Tạo điều kiện cho việc tìm hiểu kĩ hơn về thí sinh,
lựa chọn được nhân viên thích hợp với chức danh cần tuyển. Thông qua phỏng vấn có thể
sàng lọc và lựa chọn được những người giỏi nhất . Đối với các chức danh như nhân viên lễ
tân, buồng , bàn …thì cần phải có kiểm tra tay nghề để khẳng định về mặt chuyên môn .
Mục đích của phỏng vấn và kiểm tra tay nghề là đưa ra kết luận đối với người tham gia dự
tuyển về các mặt: trình độ học vấn, ngoại ngữ, nghiệp vụ, khả năng giao tiếp ứng xử…
Kiểm tra sức khoẻ: Nhằm khẳng định khả năng làm việc ổn định và lâu dài
của nhân viên mới. Ngoài ra, còn phải đảm bảo nhân viên của khách sạn không mắc các
bệnh truyền nhiễm, bệnh ngoài da, đủ chiều cao…do đặc điểm của hoạt động kinh doanh
khách sạn luôn tiếp xúc với khách.
Ra quyết định tuyển dụng: Những người trúng tuyển sẽ được thông báo rõ
ràng. Sau đó người nhân viên mới trải qua thời gian thực tập theo quá trình và thực hiện
các thủ tục có liên quan. Mục đích của tuyển dụng nhằm lựa chọn được đội ngũ lao động
đạt yêu cầu đề ra vì trong kinh doanh khách sạn chất lượng dịch vụ được đặt lên hàng đầu
và khách hàng luôn là đối tượng quan trọng nhất.
Việc tuyển dụng lao động tại các doanh nghiệp khách sạn hiện nay rất được coi
trọng bởi vì trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn chất lượng phục vụ được đặt lên hàng
đầu và khách hàng là thượng đế. Cho nên các doanh nghiệp thường áp dụng hình thức thi
tuyển dưới hai dạng là trắc nghiệm và phỏng vấn để có thể trực tiếp đánh giá một cách
tương đối chính xác chất lượng của lao động được tuyển chọn.
+Dạng thứ nhất là trắc nghiệm cá nhân và có 4 loại:
_ Trắc nghiệm trí thông minh.
_ Trắc nghiệm về kĩ năng, kĩ xảo sẽ đo lường được khả năng trong khi thực hiện
một công việc nhất định.
_ Trắc nghiệm về sự quan tâm sẽ đo lường được sự chú ý cá nhân, sự thích thú
đối với công việc và thái độ làm việc.
_ Trắc nghiệm về cá nhân sẽ làm bộc lộ tính khí của con người và động cơ của
họ.
+ Dạng thứ hai là phỏng vấn cũng có 2 loại là phỏng vấn ban đầu và phỏng vấn
đánh giá:
_ Phỏng vấn ban đầu là để loại trừ những ứng cử viên không đủ trình độ và chú ý
đến những người có trình độ để có thể tuyển vào làm việc. Để thực hiện loại phỏng vấn
này là dùng cách sàng lọc. Theo cách này, nhà quản lí đưa ra hệ thống các câu hỏi để ứng
cử viên trả lời rồi căn cứ vào đó để xem ứng cử viên có đạt được những tiêu chuẩn của
nghề nghiệp hay không.
_ Phỏng vấn đánh giá được tiến hành để duyệt lại tất cả mọi vấn đề về khả năng
của người xin việc. Việc này cho phép người phỏng vấn ra quyết định cuối cùng về việc
tuyển chọn.
_ Tuy nhiên dù là tuyển chọn dưới hình thức nào thì việc tuyển chọn lao động tại
doanh nghiệp chỉ có ý nghĩa khi đảm bảo được nguyên tắc sau đây:
Phải thông báo rộng rãi, tạo cơ hội để tất cả mọi người vào vị trí còn trống,
không kể nguồn gốc, miễn là họ có đủ trình độ để làm việc, có thể là nhân viên cũ trong
nội bộ của khách sạn, co thể la ứng cử viên từ bên ngoài.
Có hệ thống tiêu chuẩn đánh giá thôngs nhất đảm bảo tính khách quan khi
đánh giá.
Có luật lệ, qui tắc , qui định giám sát tiêu chuẩn thi tuyển rõ ràng và nghiêm
túc thực hiện từ 2 phía người thi và người tuyển.
1.2.2.3 Bố trí và sử dụng nhân viên:
Mọi nỗ lực của công tác tuyển dụng sẽ tạo ra cho doanh nghiệp một đội ngũ lao
động có khả năng thích ứng với công việc được giao. Song hiệu quả sử dụng lao động lại
phụ thuộc chủ yếu vào vấn đề bố trí và sử dụng nhân viên đó có hợp lí không. Nừu không
bố trí hợp lí thì sẽ không phát huy đúng năng lực của họ, từ đó ảnh hưởng tới hoạt động
kinh doanh của khách sạn. Sử dụng nhân viên hợp lí có nghĩa là các nhà quản lí phải biết
cách sắp xếp , điều chỉnh và tạo ra sự hội nhập của từng nhân viên vào guồng máy hoạt
động chung của doanh nghiệp.
* Xác định định mức lao động
áp dụng định mức lao động để bố trí và sử dụng lao động trong doanh nghiệp là
cần thiết. Định mức lao động trong khách sạn là