Sự phát triển kinh tế đối ngoại trong thời gian vừa qua đã có ý nghĩa hết
sức quan trọng, thậm chí là quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của nước ta.
Lợi ích kinh tế xã hội mà kinh tế đối ngoại mang lại cho nền kinh tế quốc dân và
đời sống xã hội được thể hiện ở mức đội đóng góp vào việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế xã hội như phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất
lao động, tích luỹ ngoại tệ, tăng nguồn thu Ngân sách Nhà nước giải quyết việc
làm cải thiện đời sống nhân dân. Trong những năm vừa qua nước ta đã học hỏi
và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, đã đạt được những
thành tựu rất đáng kể trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, đã có được những nền tảng
bước đầu để có thể gia tăng hội kinh tế quốc tế trong giai đoạn mới. Đồng thời
những điều kiện quốc tế đã thay đổi, các quốc gia trong khu vực đã tiến xa so với
chúng ta trên con đường hội nhập quốc tế và đang đặt ra những thách thức lớn.
Vì vậy việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là vấn đề cấp
bách và cần thiết đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thật vậy, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại sẽ nhằm từng
bước thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mà mục tiêu trước mắt là đến năm 2020 nước
ta sẽ trở thành một nước công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Yêu cầu đặt ra là phải phát triển kinh tế đối ngoại. Muốn nhìn nhận kinh tế
đối ngoại dưới đề án kinh tế chính trị thì trước hết chúng ta phải xem xét phương
pháp và đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị.
Như chúng ta đã biết, kinh tế chính trị Mác - Lênin là một trong ba bộ
phận hợp thành của chủ nghĩa Mác - Lênin, có quan hệ mật thiết với hai bộ phận
kia là triết học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Kinh tế chính trị Mác - Lênin lấy
chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở lý luận. Chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu
những quy luật chung của xã hội loài người và những biểu hiện của chúng cở
những hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Còn kinh tế chính trị Mác - Lênin
nghiên cứu những quy luật kinh tế của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
31 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2708 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong những năm vừa qua và đưa ra những giải pháp đúng đắn, thích hợp trong những thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thực trạng phát triển kinh tế đối ngoại
của nước ta trong những năm vừa qua và
đưa ra những giải pháp đúng đắn, thích
hợp trong những thời gian tới
A. Đặt vấn đề
Sự phát triển kinh tế đối ngoại trong thời gian vừa qua đã có ý nghĩa hết
sức quan trọng, thậm chí là quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của nước ta.
Lợi ích kinh tế xã hội mà kinh tế đối ngoại mang lại cho nền kinh tế quốc dân và
đời sống xã hội được thể hiện ở mức đội đóng góp vào việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế xã hội như phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất
lao động, tích luỹ ngoại tệ, tăng nguồn thu Ngân sách Nhà nước giải quyết việc
làm cải thiện đời sống nhân dân... Trong những năm vừa qua nước ta đã học hỏi
và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, đã đạt được những
thành tựu rất đáng kể trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, đã có được những nền tảng
bước đầu để có thể gia tăng hội kinh tế quốc tế trong giai đoạn mới. Đồng thời
những điều kiện quốc tế đã thay đổi, các quốc gia trong khu vực đã tiến xa so với
chúng ta trên con đường hội nhập quốc tế và đang đặt ra những thách thức lớn.
Vì vậy việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là vấn đề cấp
bách và cần thiết đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thật vậy, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại sẽ nhằm từng
bước thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mà mục tiêu trước mắt là đến năm 2020 nước
ta sẽ trở thành một nước công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Yêu cầu đặt ra là phải phát triển kinh tế đối ngoại. Muốn nhìn nhận kinh tế
đối ngoại dưới đề án kinh tế chính trị thì trước hết chúng ta phải xem xét phương
pháp và đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị.
Như chúng ta đã biết, kinh tế chính trị Mác - Lênin là một trong ba bộ
phận hợp thành của chủ nghĩa Mác - Lênin, có quan hệ mật thiết với hai bộ phận
kia là triết học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Kinh tế chính trị Mác - Lênin lấy
chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở lý luận. Chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu
những quy luật chung của xã hội loài người và những biểu hiện của chúng cở
những hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Còn kinh tế chính trị Mác - Lênin
nghiên cứu những quy luật kinh tế của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Những phương pháp nghiên cứu quan trọng của kinh tế chính trị là trừu
tượng hoá khoa học.
Trừu tượng hoá khoa học là những quá trình hiện tượng được nghiên cứu,
tách ra những cái điển hình, bền vững, ổn định trong những hiện tượng và qúa
trình đó, trên cơ sở ấy nắm được bản chất của các hiện tượng. Từ bản chất hình
thành những phạm trù và những quy luật của bản chất đó. Trừu tượng hoá khoa
học là qúa trình nghiên cứu đi từ cụ thể đến trừu tượng nhưng cũng cần phải bổ
sung bằng một qúa trình ngược lại - đi từ trừu tượng đến cụ thể.
Ngoài ra để nghiên cứu kinh tế chính trị học phải gắn liền với các phương
pháp như phân tích tổng hợp, kết hợp lôgic với lịch sử, phương pháp hệ thống...
Về đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị, thì trong lịch sử hình thành
và phát triển của kinh tế chính trị học đã có những nhận thức khác nhau như quan
điểm của chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa trọng nông, kinh tế chính trị tư sản
cổ điển... Nhưng khoa học và đầy đủ nhất là quan niệm của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Theo đó đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là phương thức sản
xuất hay nói cách khác là nó nghiên cứu các quan hệ sản xuất trong mối liên hệ
và sự tác động lẫn nhau với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Cần phân biệt kinh tế chính trị và kinh tế học. Hai môn khoa học này có
chung một nguồn gốc, hay nói cách khác, đều nằm trong dòng phát triển của các
học thuyết kinh tế. Điểm khác biệt là kinh tế chính trị Mác - Lênin phát hiện
những nguyên lý chung và những quy luật trừu tượng chi phối qúa trình sản xuất
xã hội. Còn kinh tế học tuy phiến diện nhưng lại có ưu điểm là vận dụng phương
pháp tiếp cận tình huống và minh hoạ bằng đồ thị, biểu đồ gắn với những hiện
tượng cụ thể diễn ra trên bề mặt xã hội. Kinh tế chính trị cũng khác với những
môn kinh tế khác cụ thể như: Kinh tế phát triển, kinh tế nông nghiệp, kinh tế công
nghiệp, giữa kinh tế chính trị với các bộ môn này có sự khác nhau về trình độ
khái quát hoặc những nguyên lý của kinh tế chính trị mang tính tổng quát, phổ
biến có thể ứng dụng trong các ngành và các cơ sở kinh tế, còn những nguyên lý
của các bộ môn kinh tế khác chỉ ứng dụng trong phạm vi ngành hoặc những đơn
vị kinh tế thuộc ngành đó.
Như vậy, những nguyên lý và những quy luật kinh tế do kinh tế chính trị
phát hiện có ý nghĩa phổ biến đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, coi đó là nền
tảng, phương pháp của các môn khoa học kinh tế khác, khi kinh tế đối ngoại được
nhìn nhận dưới đề án kinh tế chính trị sẽ tổng quát hoá, vừa có chiều rộng, vừa có
chiều sâu. Chúng sẽ nhìn lại thực trạng phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta
trong những năm vừa qua và đưa ra những giải pháp đúng đắn, thích hợp
trong những thời gian tới.
B. Nội dung
I. Cơ sở lý luận.
1. Một số vấn đề cơ bản.
a. Thế nào là kinh tế đối ngoại của một quốc gia?
Trên thực tế người ta thường đồng nhất hai khái niệm kinh tế quốc tế và
kinh tế đối ngoại. Song, không phải như vậy, chúng có những mối quan hệ với
nhau nhưng cũng có những đặc điểm khác nhau.
Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là
tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất
định với các quốc gia khác còn lại hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế khác được
thực hiện dưới nhiều hình thức hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của
lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế.
Kinh tế quốc tế là mối quan hệ kinh tế quốc tế với nhau giữa hai hay nhiều
nước, là tổng thể quan hệ kinh tế của cộng đồng quốc tế.
Sự khác nhau giữa kinh tế đối ngoại và kinh tế quốc tế trước hết: Kinh tế
đối ngoại là một bộ phận của kinh tế quốc tế. Mặt khác kinh tế quốc tế chỉ mối
quan hệ trên phạm vi rộng - phạm vi quốc tế còn kinh tế đối ngoại giới hạn trong
phạm vi là mối quan hệ kinh tế của một quốc gia với nước khác hoặc vơí tổ chức
kinh tế quốc tế khác.
b. Vấn đề hội nhập.
Trong nền kinh tế thế giới thì sự phát triển kinh tế đối ngoại của mỗi quốc
gia có vai trò rất quan trọng. Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều thấy
được vai trò đó. Vì vậy kinh tế đối ngoại được các quốc gia quan tâm đúng mức
và đã có những bước phát triển thu được những thành tựu nhất định. Nhưng kinh
tế đối ngoại sẽ thực sự phát triển khi nó vượt qua những thách thức của vấn đề
hội nhập mà đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá, Tự do hoá hiện nay.
Thật vậy, hội nhập là sự lan rộng ra nước ngoài, sự liên kết giữa các quốc
gia tạo thành những liên minh cùng tuân thủ những quy định đã đặt ra trên cơ sở
cùng có lợi hoặc giải quyết những vấn đề mang tính chất toàn cầu như đói nghèo,
bệnh tật, ô nhiễm môi trường, khủng bố,... với các hình thức như tự do hoá, các
hội nghị tổ chức chống đói nghèo, bệnh tật, ô nhiễm môi trường, khủng bố.
Đến nay, Tự do hoá thương mại đang có xu hướng tăng cùng sự hình thành
của kinh tế khu vực. WTO là tổ chức thương mại thế giới điều chỉnh những hoạt
động buôn bán đa phương mang tính chất tương đối, tự do, công bằng và tuân thủ
những luật lệ rõ ràng cùng với sự mở rộng của WTO còn có các tổ chức Tự do
hoá thương mại khu vực như EU, NAFTA, AFTA hay AU, nhưng cũng có những
tổ chức châu á - Thái Bình Dương (APEC), hay hiệp định khung EU - Nam Phi
ký tháng 10 năm 1999,... Tự do hoá thương mại ngày càng được cụ thể hoá và thể
chế hoá, đã trở thành một bộ phận quan trọng trong hoạt động của các tổ chức
quốc tế và các tổ chức liên kết khu vực. Theo thống kê của liên hợp quốc, số
lượng các tổ chức khu vực được thành lập ngày càng nhiều, từ 19 tổ chức trong
những năm 1960, tăng lên 28 tổ chức trong những năm 1970, 32 tổ chức những
năm 1980 và 60 tổ chức trong những năm 1990 với 160 nước thành viên tham
gia.
Tuy nhiên, bên cạnh những nước hăng hái với Tự do hoá thương mại, vẫn
còn một số nước phản ứng thận trọng, tham gia với mức độ thấp vào tiến trình Tự
do hoá thương mại, vì họ còn nhiều băn khoăn, lo lắng trước những thách thức và
thua thiệt do Tự do hoá thương mại đã và có thể sẽ gây ra cho họ. Nhưng những
nước như vậy không những ít về số lượng mà còn chủ yếu là các nước nhỏ, kém
phát triển, về số lượng các nước này, chắc chắn sẽ còn giảm đi vì số nước đệ đơn
xin ra nhập WTO, tăng cường tham gia vào qúa trình toàn cầu hoá và Tự do hoá
ngày càng tăng lên. Đến nay số các nền kinh tế tham gia WTO đã lên tới 146
trong tổng số 190 nước thành viên Liên hợp quốc, trong khi đó vẫn còn 30 nước
nữa đã đăng ký tiếp tục đàm phán để ra nhập WTO. Trong đó có nước ta và dự
kiến đến năm 2005 nước ta sẽ ra nhập WTO. Khi đó nước ta sẽ được hưởng nhiều
lợi ích, những nước đứng ngoài chắc chắn không tránh khỏi ở vào thế bất lợi và
bị thua thiệt.
Mặt khác, để phát triển kinh tế đối ngoại nói riêng và nền kinh tế quốc dân
nói chung cũng cần phải quan tâm đến các vấn đề mang tính chất toàn cầu như
đói nghèo, bệnh tật, ô nhiễm môi trường, khủng bố... Những yếu tố này có tác
động rất lớn tới nền kinh tế thế giới và ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế
đối ngoại.
Về môi trường sinh thái, theo điều tra đã có 30% tài nguyên thiên nhiên
thế giới đã bị mất chỉ trong 1/4 thế kỷ vừa qua, đất canh tác của thế giới giảm
40% kể từ năm 1970, 1/2 số loài trên trái đất bị tuyệt chủng trong thế kỷ trước và
mỗi ngày con người với ô tô, nhà máy và tiêu dùng gia đình đã tiêu hao một
lượng năng lượng tương đương với số năng lượng do trái đất sản xuất ra trene 27
năm. Khai thác tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế là cần thiết nhưng nếu
chúng ta cứ khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí thì một ngày nào đó tài nguyên
thiên nhiên sẽ cạn kiệt. Vì vậy, chúng ta phải có những biện pháp khắc phục, tìm
ra những nguồn nguyên liệu mới và những biện pháp bảo vệ môi trường như cung
cấp nước sạch và xử lý nước thải,... Hơn nữa vấn đề khủng bố toàn cầu đã làm
ảnh hưởng rất lớn tới kinh tế đối ngoại nói riêng và nền kinh tế thế giới nói
chung. Tiêu biểu như vụ khủng bố phá huỷ hai toà nhà Trung tâm Thương mại
của Mỹ năm 2001. Sự kiện này không chỉ có ảnh hưởng về mặt chính trị và an
ninh quân sự, mà bản thân những hoạt động phối hợp về chính trị và tăng chi tiêu
quân sự để chống khủng bố đã dẫn tới giảm bớt các khoản đầu tư dân sự, gây mất
lòng tin và mất ổn định chính trị ở một số nước và khu vực trên thế giới làm tổn
hại không nhỏ cho các hoạt động kinh tế, nhất là đối với một số ngành, lĩnh vực
và nước có liên quan, chịu ảnh hưởng nhiều bởi các hoạt động khủng bố và chống
khủng bố như một số quốc gia hồi giáo, Trung đông các ngành và lĩnh vực như
hàng không, bảo hiểm du lịch, thương mại, tài chính, đầu tư nước ngoài, giá dầu
lửa,... Như vậy, nó cản trở sự phát triển kinh tế đối ngoại của các quốc gia có liên
quan và làm giảm tốc độ tăng trưởng của kinh tế quốc tế.
Tóm lại, hội nhập là một vấn đề cấp bách hiện nay. Nhà nước không thể
độc quyền quyết định mọi thứ, mà Nhà nước cũng phải cạnh tranh, cạnh tranh với
các Nhà nước khác, cạnh tranh với các thể chế quốc tế và các lực lượng thị trường
quốc tế (các tổ chức quốc tế, các công ty xuyên quốc gia,...) cạnh tranh để giành
lấy các cơ hội có lợi cho đất nước mình, nhất là những thứ nằm trong tay người
khác như tri thức, vốn, công nghệ, thị trường... vì thế để có những cơ hội đó,
những thứ đó, Nhà nước không những phải tự nâng cao năng lực quản lý của
mình, phải mở cửa, phải hội nhập. Hiện nay, hội nhập đang trở thành xu thế, nếu
đi ngược lại những xu thế đó của thưòi đại thì cả vai trò Nhà nước, cả nền kinh tế
quốc gia và cả xã hội sẽ bị suy yếu, trì trệ, không phát triển được, lúc đó không
những không giữ sản xuất độc lập như cũ, mà ngược lại, còn bị phụ thuộc hơn và
dễ bị tổn thương trước những tác động tiêu cực và những cú sốc khoiiong lường
trước được từ bên ngoài. Bài học đó đúng với nhiều nước và cũng đúng đối với
Việt Nam. Không có cải cách, đổi mới, mở cửa, càng có nhiều cơ hội để phát
triển; và cùng với sự phát triển, nền độc lập càng được bảo vệ tốt hơn, vai trò Nhà
nước càng được nâng cao, sự điều tiết gián tiếp dựa trên cơ sở của khung pháp lý
ngày càng được hoàn thiện và phù hợp với các thông lệ quốc tế. Nhận thức được
những điều lệ này, Nhà nước của các quốc gia trên thế giới đã có những điều
chỉnh hết sức quan trọng. Nhờ có những đổi mới đó nên kinh tế đối ngoại ngày
càng có những đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế của những nước đó.
2. Vai trò và tác dụng của kinh tế đối ngoại.
Để hội nhập kinh tế quốc tế thì đặc biệt phải phát triển kinh tế đối ngoại,
điều này đúng cho mọi nước. Vai trò của việc phát triển kinh tế đối ngoại là rất to
lớn nó không những ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế quốc daan mà
còn ảnh hưởng tới lĩnh vực đời sống xã hội. Sau đây là những vai trò của kinh tế
đối ngoại.
+ Thứ nhất: Phát triển kinh tế đối ngoại sẽ góp phần nối liền sản xuất và
trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế, nối liền thị trường trong
nước với sản xuất và trao đổi quốc tế, nối liền thị trường trong nước với thị
trường thế giới và khu vực.
Hoạt động kinh tế đối ngoại thúc đẩy qúa trình mở cửa và hội nhập của
nền kinh tế Việt Nam với thế giới, nó là một trong những phương thức đưa hàng
hoá sản xuất tại Việt Nam xâm nhập thị trường nước ngoài thông qua thực hiện
dự án đầu tư đã trở thành "cầu nối" là điều kiện tốt để Việt Nam nhanh chóng tiếp
cận và tiến hành hợp tác được với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế, cũng
như những trung tâm kinh tế, kỹ thuật, công nghệ cạnh tranh của thế giới. Đầu tư
nước ngoài nói riêng và hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung tác động làm tăng
tốc độ kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu. Nó đưa hàng hoá nước ta xâm
nhập thị trường thế giới, từ đó kích thích sản xuất trong nước phát triển để đáp
ứng được những yêu cầu của thị trường thế giới như về giá, chất lượng mẫu mã,...
+ Thứ hai: Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực
tiếp (FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc tế
(ODA), thu hút khoa học kỹ thuật, công nghệ, khai thác và ứng dụng những kinh
nghiệm xây dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta.
Kể từ khi mở cửa, do hoạt động kinh tế đối ngoại được thúc đẩy phát triển
nên số vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và
tổ chức tiền tệ quốc tế (ODA) vào nước ta tăng qua các năm. Nguyên nhân là do
chính phủ ta đã có những sửa đổi về luật pháp, chính sách đầu tư,... nhằm tạo ra
môi trường đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Mà hai dấu ấn quan
trọng là việc thực thi luật doanh nghiệp từ năm 2000 và luật đầu tư nước ngoài
sửa đổi bổ sung lần thứ 3 có hiệu lực từ tháng 7 năm 2000. Nhờ đó mà tính đến
năm 2002, cả nước có trên 1.800 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động
sản xuất kinh doanh với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 25 tỷ USD. Về vốn ODA
thì tại hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam lần thứ 10, các nhà tài
trợ quốc tế đã cam kết viện trợ chính thức cho Việt Nam 2,5 tỷ USD tăng 104
triệu USD hay 1,5% so với năm 2001.
Về vấn đề công nghệ, nguyên nhân do các nhà đầu tư nước ngoài bao giờ
cũng đặt lợi nhuận và thời gian thu hồi vốn làm mục tiêu hàng đầu. Do đó họ sẽ
đưa những thiết bị, công nghệ tương đối hiện đại phù hợp với trình độ và phát
huy được hiệu quả ở Việt Nam. Thực tế, những thiết bị, công nghệ của nước
ngoài chuyển vào thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam lâu nay chưa phải là những
loại thuộc thế hệ hiện đại nhất của thế giới nhưng phần lớn là hiện đại hơn những
thiết bị có trước đây tại Việt Nam.
Một vấn đề nữa rất quan trọng là nếu như trước đây các doanh nghiệp Việt
Nam chỉ biết đến sản xuất kinh doanh thụ động theo sự chỉ định kế hoạch của cấp
trên, không cần đầu tư, cải tiến không cần tìm hiểu thị trường, quảng cáo, tiếp thị,
sản phẩm sản xuất ra không bị cạnh tranh ... thì sự trở thành nhân tố tác động
mạnh làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất - kinh doanh của các doanh
nghiệp Việt Nam theo hướng tích cực và ngày càng thích nghi với nền kinh tế thị
trường. Những chế độ quản lý, tổ chức kinh doanh hiện đại được thực hiện ở Việt
Nam.
Như vậy hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút khoa học, kỹ thuật,
công nghệ, trình độ quản lý nền kinh tế hiện đại,... vào nước ta.
+ Thứ ba: Góp phần tích luỹ vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên hiện đại.
Đó là những nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn vốn
viện trợ chính thức từ chính phủ, từ tổ chức tiền tệ quốc tế (ODA). Nó là nguồn
vốn bổ sung quan trọng giúp Việt Nam phát triển một nền kinh tế cân đối bền
vững theo yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
luôn chiếm hơn 26,51%. Đối với một nền kinh tế có quy mô như nước ta thì đây
là một luợng vốn đầu tư không nhỏ, nó thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự
chuyển biến không chỉ về quy mô đầu tư mà điều quan trọng hơn là nguồn vốn
này có vai trò như "chất xúc tác - điều kiện" để việc đầu tư của ta đạt được hiệu
quả nhất định. Lượng vốn đầu nư này có xu hướng tăng qua các năm (cụ thể là
thời kỳ từ 1991-1999) như sau:
Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Việt Nam thời kỳ
năm 1991-1999
Năm Tổng số vốn
đầu tư
(tỷ đồng)
Vốn trong nước
(tỷ đồng)
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Số lượng
( tỷ đồng)
So với
tổng số %
1991 11.526,0 9.606,0 1.920 16,7
1992 19.755,0 15.255,0 4.500 22,8
1993 34.176,0 25.376,0 8.800 35,7
1994 43.100,0 29.900,0 13.200 30,6
1995 68.047,8 46.047,8 33.000 32,3
1996 79.367,4 56.666,4 22.700 28,6
1997 96.870,4 66.570,4 30.300 31,3
1998 96.870,4 72.100,0 24.300 25,2
1999 96.400,0 85.000,0 18.900 18,2
Tổng
số
102.900,0 406.522,6 146.620 26,54
Nguồn: Niên giám thống kê 1998 tr.227 và bộ kế hoạch - đầu tư.
Đây là nguồn vốn quan trọng để thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển cân
đối.
Hơn nữa, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nguồn
thu quan trọng cho Ngân sách Nhà nước. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài (không kể dầu khí) đã thực hiện nộp Ngân sách Nhà nước (thời kỳ 1994-
1999) với số tiền 1.489 triệu USD (cụ thể năm 1994 = 128 triệu, năm 1995 = 195
triệu, năm 1996 = 263 triệu, năm 1997 = 315 triệu, năm 1999 = 271 triệu USD),
... sự đóng góp này càng tăng lên trong những năm gần đây.
+ Thứ tư: Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc
làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập ổn định và cải thiện đời sống nhân dân
theo mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
Trong những năm qua nước ta luôn đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế là hơn
7%, năm 1992 đạt tốc độ tăng GDP là 7,04% là nước có tốc độ tăng trưởng đứng
thứ hai khu vực, sau Trung Quốc. Có được điều này thì vai trò của hoạt động kinh
tế đối ngoại là vô cùng quan trọng, trong đó phải kể đến các yếu tố như: Vốn đầu
tư nước ngoài FDI, ODA và liên tục đạt kim ngạch xuất khẩu cao. Tính đến hết
năm 2002, cả nước có trên 1800 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động
sản xuất kinh doanh với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 25 tỷ USD. Từ những dự án
này đã hình thành thêm 2.014 doanh nghiệp cùng 1.584 cơ sở sản xuất kinh
doanh phụ thuộc. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nuớc ngoài hiện chiếm
trên 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, 25% kim ngạch xuất khẩu của cả nước và
tạo việc làm cho khoảng 600.000 lao động trực tiếp. Ngoài ra nhờ hoạt động kinh
tế đối ngoại đã thúc đẩy việc xuất khẩu lao động