Trong bất kỳ nền kinh tế nào, mô hình sản xuất nào thì cũng cần có sự phối hợp 
giữa các hình thức sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Phân phối luôn thể hiện 
một vị trí hết sức quan trọng. Nó phụ thuộc vào sản xuất nhưng phân phối tốt hay 
không tốt lại ảnh hưởng đến sản xuất, đến trao đổi tiêu dùng và đời sống nhân dân.
Khi mà nền kinh tế của nước ta chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền 
kinh tế thị trường thì phân phối giữ một vị trí hết sức quan trọng.Phân phối nối liền sản 
xuất với sản xuất,sản xuất với tiêu dùng, nối liền thị trường hàng tiêu dùng ,dịch vụ 
thị trường yếu tố sản xuất ,làm cho sự vận động của kịnh tế thị trương diễn ra thông 
suốt.
Tuy nhiên, khi chuyển sang kinh tế thị trường , hàng loạt các vấn đề thuộc lĩnh 
vực phân phối thu nhập như tiền lương,lợi nhuận,lợi tức ,địa tô và phân phối lao động 
,các hình thúc phân phối khác phù hợp với nguyên lý kinh tế thị trường cũng như các 
tác đọng của chúng đối với sự phát triển kinhtế - xã hội ở nước tađang đòi hỏi có sư 
nghiên cứu nghiêm túc công phu. Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề quan hệ phân phối ở 
việt nam hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách .
Kết cấu đề tài này gồm hai chương
chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quan hệ phân phối ở nứoc ta hiện nay
chương2: Thực trạng quan hệ phân phối ở nứoc ta và những giải pháp hoàn thiện 
quan hệ phân phối ở nứoc ta hiện nay
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 24 trang
24 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1902 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng quan hệ phân phối ở nứoc ta và những giải pháp hoàn thiện quan hệ phân phối ở nứoc ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Thực trạng quan hệ phân phối ở nứoc ta 
và những giải pháp hoàn thiện quan hệ 
phân phối ở nứoc ta hiện nay 
Lời mở đầu 
Trong bất kỳ nền kinh tế nào, mô hình sản xuất nào thì cũng cần có sự phối hợp 
giữa các hình thức sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Phân phối luôn thể hiện 
một vị trí hết sức quan trọng. Nó phụ thuộc vào sản xuất nhưng phân phối tốt hay 
không tốt lại ảnh hưởng đến sản xuất, đến trao đổi tiêu dùng và đời sống nhân dân. 
Khi mà nền kinh tế của nước ta chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền 
kinh tế thị trường thì phân phối giữ một vị trí hết sức quan trọng.Phân phối nối liền sản 
xuất với sản xuất,sản xuất với tiêu dùng, nối liền thị trường hàng tiêu dùng ,dịch vụ 
thị trường yếu tố sản xuất ,làm cho sự vận động của kịnh tế thị trương diễn ra thông 
suốt. 
Tuy nhiên, khi chuyển sang kinh tế thị trường , hàng loạt các vấn đề thuộc lĩnh 
vực phân phối thu nhập như tiền lương,lợi nhuận,lợi tức ,địa tô và phân phối lao động 
,các hình thúc phân phối khác phù hợp với nguyên lý kinh tế thị trường cũng như các 
tác đọng của chúng đối với sự phát triển kinhtế - xã hội ở nước tađang đòi hỏi có sư 
nghiên cứu nghiêm túc công phu. Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề quan hệ phân phối ở 
việt nam hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách . 
Kết cấu đề tài này gồm hai chương 
chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quan hệ phân phối ở nứoc ta hiện nay 
chương2: Thực trạng quan hệ phân phối ở nứoc ta và những giải pháp hoàn thiện 
quan hệ phân phối ở nứoc ta hiện nay 
CHƯƠNG 1 
Một số vấn đề cơ bản về quan hệ phân phối 
ở nước ta hiện nay 
1.1/Tính tất yếu khách quan của vai trò phân phốỉ trong nền kinh tế thị trường 
Trong nền kinh tế thị trường thì phân phối giữ vi trí hết sức quan trọng .Trong 
quá trình tái sản xuất thi phân phối làm khâu trung gian nối liền giũa sản xuất với sản 
xuất, sản xuất với tiêu dùng, nó phục vụ và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu dùng. 
Nhưng sản xuất lại đóng vai trò quyết định đối với phân phối ,sản xất tao ra đối 
tượng và vật liệu cho phân phối ,quyết định quy mô và cơ cấu của cải để phân phối . 
Phân phối không thể vượt qúa khả năng cho phép của sản xuất,thu nhập thực tế 
chỉ có thể tăng lên theo đà phát triển của sản xuất nhưng tốc độ tăng của thu nhập thực 
tế phải chậm hơn tốc độ tăng lên của sản xuất ,có như thế mới đảm bảo tái sản xuất 
mở rộng . Hiện nay nứoc ta đang thực hiện công cuộc CNH-HĐH đất nước xây dựng 
cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội . Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ làm 
chủc tập thể của nhân dân lao động trên tất cả mọi lĩnh vực trong đó làm chủ tập thể về 
kinh tế là cơ sở. Trong chế độ làm chủ tập thể về kinh tế thì làm chủ về tư liệu sản xuất 
là cơ sở ,điều kiên để đảm bảo làm chủtập thể về phân phối. Một khi tư liệu sản xuất la 
thuộc sở hữu chung của nhân dân lao động thì của cải làm ra cũng thuộc sở hữu chung 
của họ và việc phân phối của cải làm ra chỉ có thể nhằm mục đích phục vụ lợi ích của 
nhân dân lao động .Trong điều kiện của nước ta hiện nay nền kinh tế vẫn còn ở tình 
trạng lạc hậu , nghèo nàn chưa đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu .Vì thế việc 
thực hiện phân phối theo thu nhập trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là mộ vấn 
đề vô cùng quan trọng đẻ tạo ra đọng lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản 
xuất phát triển, ổn định tình hình kinh tế -xã hội nâng cao đời sống nhân dân thực hiện 
mục tiêu dân giầu nước mạnh xã hội công bằng ,dân chủ ,văn minh . 
1.2.Bản chất và vị trí của phân phối. 
Quá trình tái sản xuất xã hội gồm bốn khâu:sản xuất, phân phối ,trao đổi, tiêu 
dùng. Các khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau,trong đó sản xuất là khâu cơ bản 
đóng vai trò quyết định;các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất,nhưng chúng có quan 
hệ trở lại đối với sản xuất cũng như ảnh hưởng lẫn nhau chính vi có quá trinh phân 
phối này mới có sự tác động qua lại giữa sản xuất và tiêu dùngvà từ đó thúc đẩy sản 
xuất phát triển ,tăng quy mô tiêu dùng . 
Tính chất của quan hệ phân phối do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết 
định. Khi ta xét về quan hệ giữa người và người thì phân phối do quan hệ sản xuất 
quyết định. Quan hệ trong sản xuất như thế nào thì quan hệ trong phân phối như thế 
ấy. Xã hội luôn tồn tại mối quan hệ sản xuất và sản phẩm. Bản thân phân phối là sản 
phẩm của sản xuất không chỉ về nội dung mà cả về hình thức. Phân phối không phải là 
một lĩnh vực độc lập đứng bên cạnh sản xuất. Bản chất của quan hệ phân phối hoàn 
toàn do quan hệ sản xuất quyết định. 
 Mặt khác ta thấy rằng phân phối không chỉ đơn thuần là một kết quả tiêu cực 
của sản xuất và trao đổi mà nó còn tác động mạnh mẽ ngược trở lại trao đổi và sản 
xuất. Phân phối có tính độc lập tương đối của nó,nó có chức năng cụ thể ,có những quy 
luật đặc thù tác động tích cực đến cáckhâu của quá trình tái sản xuất. Trước khi phân 
phối sản phẩm thì nó là: phân phối những công cụ sản xuất và điều này là một tính qui 
định nữa cũng của một mối quan hệ ấy - phân phối các thành viên xã hội theo những 
loại sản xuất khác nhau. Rõ ràng phân phối sản phẩm chỉ là kết quả của sự phân phối 
đó, sự phân phối này đã bao hàm trong bản thân quá trình sản xuất và quyết định trong 
cơ cấu sản xuất. Xem xét sản xuất một cách độc lập với sự phân phối đó, sự phân phối 
bao hàm trong sản xuất, thì rõ ràng là một sự trừu tượng trống rỗng, còn sự phân phối 
sản phẩm thì trái lại, đã bao hàm trong sự phân phối này là sự phân phối ngay từ đầu 
đã là một yếu tố của sản xuất. 
 Cơ sở kinh tế của sự phân phối bao gồm cả sự phân phối cho sản xuất và phân 
phối cho tiêu dùng do đó tổng sản phẩm xã hội vừa được phân phối để tiêu dùng cho 
sản xuất, vừa được phân phối để tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong xã hội . 
Nhưng vì sự phân phối bao giờ cũng gồm cả sự phân phối cho sản xuất xem là yếu tố 
của sản xuất và phân phối cho tiêu dùng xem là kết quả của quá trình sản xuất,cho nên 
không phải toàn bộ sản phẩm xã hội tạo ra đều được phân phối cho tiêu dùng cá nhân 
mà cần trích ra để bù đắp những tư liệu sản xuất hao phí, mở rộng sản xuất lập quỹ dự 
phòng, chi phí về quản lý hành chính tổ chức... Phần còn lại phù hợp với số lượng và 
chất lượng lao động. Như vậy,phân phối là tổng sản phẩm xã hội và phân phối để tiêu 
dùng cho sản xuất, vừa được phân phối để tiêu dùng cho cá nhân. 
1.3/ Các hình thức phân phối ở nước ta hiện nay 
Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định và Đại hội 
Đảng lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ là 
nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước ,tương ứng với nó là nhiều 
hình thức phân phối nhưng lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là 
chủ yếu , đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp nguồn lực khác vào kết quả sản 
xuất - kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. 
 Trong nền kinh tế này xuất hiện nhiều chủ thể kinh tế khác nhau với các hình 
thức sở hữu khác nhau và cũng vì lẽ đó mà xuất hiện nhiều phương thức phân phối 
khác nhau.Mỗi thành phần kinh tế có phương thức sản xuất –kinh doanh khác nhau 
nên kết quả kinh doanh khác nhau do đó cần các hình thức phân phối khác nhau 
 Vì vậy ở nước ta hiện nay không thể tồn tại một hình thức phân phối duy nhất 
1.3.1/ Phân phối theo lao động 
 Trong thời kỳ quá độ hiện nay ,hình thức phân phối theo lao động là hình thức 
phân phối căn bản , là nguyên tắc phân phối chủ yếu và thích hợp nhất với các thành 
phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (kinh tế nhà nước)hoặc các 
hợp tác xã cổ phần mà góp vốn của các thànhviên bằng nhau (kinh tế hơp tác ) 
 Phân phối theo lao động là hình thức phân phối căn bản, là nguyên tắc phân phối 
chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công hữu về 
tư liệu sản xuất. Do đó dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà chế 
độ người bóc lột người bị xoá bỏ.Người lao động làm chủ những tư liệu sản xuất nên 
tất yếu cũng làm chủ phân phối theo thu nhập . Lao động đang trở thành cơ sở quyết 
định địa vị và phúc lợi vật chất của mỗi người. Chính vì vậy mà phân phối theo lao 
động là phù hợp với quan hệ sản xuất của các thành phần kinh tế đang tồn tại ở nước 
ta. 
 Trước đây nước ta đã thực hiện sự phân phối bình quân là phân phối cho mỗi 
người một lượng sản phẩm như nhau, không phân biệt mức đóng góp của từng 
người vào sản xuất xã hội. Phân phối bình quân đã gây ra sự bất hợp lý và tiêu cực 
trong xã hội. 
1.3.2/Phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác 
 Bên cạnh việc thực hiện phân phối theo lao động thì nước ta còn sử dụng 
hình thức phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác. Nền kinh tế nước ta 
trong bước quá độ định hướng lên chủ nghĩa xã hội . Với cơ cấu nhiều thành phần ,nên 
tất yếu co nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và cũng sẽ xuất hiện nhiều hình 
thức sản xuất kinh doanh khác nhau. 
 Một đặc điểm rõ nét của nước ta trong quá độ định hướng lên CNXH từ một 
nền sản xuất nhỏ là tình trạng thiếu vốn phân tán vốn. Quá trình sản xuất, tích tụ và tập 
trung vốn chưa cao, một phần tương đối lớn vốn vốn sản xuất hiện nay còn nằm rải rác 
,phân tán trong tay người tư hữu nhỏ ,tư sản nhỏ ,trong đó có cả dưới dang jtư liệu sản 
xuất , vàng bạc ngoại hối và tiền mặt vv…. Để sử dụng nguồn vốn đó cho sản xuất thì 
không thể sử dụng cá chính sách ắp đặt như trưng thu, trưng mua hoặc đóng góp cổ 
phần một cách bình quân. Từ sau nghị quyết hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung 
ương (khoá VI) thì ở nước ta đã xuất hiện các biện pháp huy động vốn của dân cư dưới 
các hình thức vay vốn, hùn vốn và góp cổ phần không hạn chế, với mức lãi suất hợp lý. 
Cách làm như vậy có tác dụng đưa được vốn nhàn rỗi đi vào chu chuyển. Qua đó kinh 
tế quốc doanh và kinh tế tập thể nắm quyền sử dụng một nguồn vốn to lớn hơn nhiều 
nguồn vốn tự có. Như vậy mặc dù sở hữu vốn là tư nhân, nhưng việc sử dụng vốn đã 
mang tính xã hội. Xét tình hình đất nước ta thì cần phải tạo điều kiện pháp lý cho các 
thành phần kinh tế tư nhân cá thể và tất cả mọi thành viên trong xã hội yên tâm và 
mạnh dạn đầu tư vốn và sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó thực hiện phân phối kết quả 
sản xuất kinh doanh theo vốn và theo tài sản của mỗi cá nhân đóng góp vào quá trình 
sản xuất xã hội dươí hình thức “lợi tức”và “lợi nhuận” và được coi là hình thức phân 
phối hợp pháp và được sự bảo hộ của pháp luật. Do sự liên doanh liên kết giữa các 
thành phần kinh tế, giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh nên đã xuất hiện các công ty 
liên doanh, các xí nghiệp cổ phần. ở các loại xí nghiệp này, việc phân phối dựa trên cơ 
sở vốn cổ phần, dưới hình thức lợi tức cổ phần. Phân phối thu nhập dưới hình thức lợi 
tức tiền gửi của các cá nhân hoặc tập thể vào ngân hàng. 
1.3.3/ Phân phối thông qua phúc lợi tập thể , phúc lợi xã hội 
 Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản và vốn đều là tất yếu khách 
quan trong quá độ hiện nay ở nước ta , vì các hình thức phân phối đó đều nhằm mục 
đích thúc đẩy nền sản xuất phát triển và tạo lập sự công bằng xã hội giữa mọi thành 
viên trong xã hội. Nhưng trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay , nhưng ngoài 
những người khoẻ mạnh có khả năng lao động và đang lao động, được trả công theo 
lao động, những có vốn và tài sản đóng góp vào qúa trình sản xuất để được nhận lợi 
tức và lợi nhuận, thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này hay lẽ khác, không thể 
tham gia vào lao động được trả công của xã hội. Đời sống số đông người này được gia 
đình đảm bảo. Mặt khác, ngay cả mức sống của cán bộ công nhân viên chức Nhà nước 
và những người làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế cũng không chỉ dựa vào 
tiền công cá nhân. Bởi mức tiền công theo qui định của Nhà nước chưa đảm bảo được 
mức sống. Họ phải dựa một phần vào các quĩ phúc lợi công cộng của Nhà nước, của 
các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác. 
Vì vậy mà ngoài việc phân phối theo lao động, theo tài sản và theo vốn thì trong 
xã hội còn tồn tại hình thức phân phối ngoài thù lao lao động, thông qua quĩ phúc lợi 
xã hội. Đây không phải là phân phối theo nhu cầu, cũng không phải là phân phối là 
phân phối theo lao động mà đây mới chỉ là phân phối của thời kỳ quá độ mà thôi. Đây 
là hình thức phân phối bổ sung cần thiết và quan trọng đối với nguyên tắc phân phối 
theo lao động. Nó thích hợp với việc thoả mãn những nhu cầu công cộng của xã hội. 
Nó có lợi trước hết cho những gia đình mà thù lao lao động tính theo đầu người tương 
đối thấp. Nó không những bảo đảm cho tất cả mọi thành viên trong xã hội đều có mức 
sống bình thường tối thiểu mà còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích 
sự phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội. Đây là hình thức phân phối của 
thời kỳ quá độ, nó góp phần thúc đẩy sự phát triển của một đất nước. 
Cả ba hình thức phân phối trên đều là những hình thức phân phối cơ bản ở nước 
ta hiện nay trong đó phân phối theo lao động giữ vai trò chủ đạo.Phân phối ngoài thù 
lao lao động qua các quĩ phúc lợi xã hội ngày càng trở nên quan trọng trong quá trình 
phát triển xã hội. Đồng thời phân phối theo tài sản, vốn và những đóng góp khác ngày 
nay cũng trở thành một tất yếu, hợp qui luật. 
1.4 / Kinh nghiệm một số nước về quan hệ phân phối 
 1.4.1/Thái lan 
Thái lan vẫn được coi là ít có sự can thiệp của chính phủ vào đời sống kinh 
tếhơn cả . Thái lan đã thành công trong việc phát triển kinh tế .Tốc độ tăng trưởng 
nhanh , tỷ lệ sinh đẻ hạ từ 3,3 trong ba thập kỷ đầu xuống còn 2,2 hiện nay đã làm thu 
nhập đầu người tăng một cách ổn định . Tuy nhiên sự nghèo khổ ở đây vẫn thể hiện rõ 
nét , có sự bất công bằng lớn giữa nông thôn và thành thị , giữa các khu vực , chênh 
lệch về thu nhập ngày càng gia tăng . 
Tuy nhiên Thái lan cung đạt được nhièu thành tựu trong việc cung cấp các 
dịch vụ cơ bản dưới nhiều hình thức phong phú như phúc lợi bằng tiền mặt , bằng hiện 
vật , phúc lợi trẻ em và thanh niên ,trợ giúp việc làm phúc lợi cho người có tuổi …… 
 Tóm lại các chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu ở các nước ASEAN 
đã thất bại chủ yếu do phân phối thu nhập không đều.Chính vì việc phân phói 
không đều đã bó hẹp thị trường nội địa không chỉ do đông đảo quần chúng nghèo khổ 
mà còn do những ngưòi có thu nhập cao thường mua hàng ngoại , hoặc tiêu dùng 
những sản phẩm đơn lẻ.Qua đó đã chứng minh rằng ,giữa tăng trưởng kinh tế và phân 
phối thu nhập có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau .Tăng 
trưởng kinh tế không chỉ dẫn đến sự giàu có chung của đất nước , mà còn tạo điều kiện 
thuận lơi để giúpcácnhóm có thu nhập thực hiễn xoá đói giảm ngheo mặt khác không 
thể có tăng trưởng kinh tế kéo dài nếu không áp dụng các chinh sách phân phối thu 
nhập công bằng hơn 
Thành công của các nước này thường đi kèm với sự gia tăng vững chắc của tiền 
lương thực tế năng xuất và sự tham gia vào các hoạt kinh tế của đại đa số dân 
chúng.Một bài học chung rút ra từ thực tế các nước ASEAN là thành công trong phát 
triển phụ thuộc vào sự can thiệp một cách có hiệu quả của nhà nước vào đời sống thực 
tế và lợi ích của đại bộ phận nhân dân. 
+Phát triển ,hoàn thiện lực lượng sản xuất ngày một tốt hơn trong thời gian tới 
về mọi mặt . 
+Hoàn thiện chính sách tiền lương,bình quân chống chủ nghĩa bình quân và thu 
nhập bất chính.Trong vấn đề này,vai trò của chính phủ là phải gắn vhặt tiền công,tiền 
lương với người lao động nhằm tường bước thực hiện hpân phối công bằng hợp 
lí.Nghiêm trị những kẻ có thu nhập bất chính,chúng ta phải từng bước tiền tệ hoá tiền 
lương,xoá bỏ những đặc quyền, đặc lợi trong phân phối 
+Điều tiết thu nhập dân cư giữa các khu vực khác nhau.Trong hoàn cảnh kinh tế 
như hiện nay chúng ta phải thừa nhận sự chênh lệch thu nhập giữa các tổ chức với 
nhau.Tuy vậy vai trò của nhà nước là phải làm giảm đi phần nào sự chênh lệch đó.Điều 
tiết thu nhập là một yêu cầu khách quan ở bất kì chế độ nào nhằm duy trì và ổn định xã 
hội.Điều tiết thu nhập thông qua các hình thức như:thuế thu nhập,tự nguyện đóng góp 
vào các quỹ phú lợi xã hội 
1.4.2/ Inđônêxia 
 ở Inđônêxia các vấn đề được quan tâmchủ yếu là giáo dục và tạo việc làm.Từ 
những năm 60 chính phủ ở đây đã tiến hành các chính sách nhằm tăng cường việc làm 
ở khu vực nông thôn với một phần kinh phí do nhà nước cấp,phần còn lại do các 
chương trình viện trợ.Nhờ chương trình này mà giai đoạn từ1976 đến 1987 số dân 
sống dưới mức nghèo khổ đã giảm từ 54.000.000 xuống còn 30.000.000.tỉ lệ nghèo 
khổ ở nông thôn giảm nhanh hơn so với ở thành thị.Tại quốc gia này các tổ chức phi 
chính phủ có đóng góp to lớn trong việc tiếp cận,giúp đỡ tầng lớp nghèo khổ dưới các 
hình thức như:tư vấn,giúp đỡ sản xuất, huấn luyện nghiên cứu …Hoạt động của các tổ 
chức này đã ghóp phần giảm bớt gành nặng cho chình phủ Indonexia do có một số nơi 
mà hệ thồng quản lí của chính phủ cũng không thể với tới được.Với tư cách là người 
trung gian họ chuyển những nguyện của người nghèo đến với chính phủ sở tại. 
1.4.3/ Malayxia 
 ở Malayxia trong những thập niên 60 – 70 sự phát triển kinh tế kèm theo sự gia tăng 
bất bình đẳng trong phân phối thu nhập những nhà tư sản người hoa và các quan chức 
hành chính, chính trị người Malay là những người được hưởng thụ phần lớn kết quả 
của sự tăng trưởng kinh tế nhanh của những năm 60 . Hậu quả là các quan hệ xã hội trở 
nên hét sức căng thẳngcác vụ bạo động lật đổ đã nổ ra vào cuối những năm đó. Khi 
những người được gọi là TURKS trẻ nên nắm chính quyền đã đưa ra chính sách kinh 
tế mới, tạo điều kiện về mặt kinh tế xã hội nhằm đạt được sự đoàn kết dân tộc trên cơ 
sở chính sách tái phân phối thu nhập công bằng hơnnhờ đó mà tỷ lệ người nghèo ở 
Malayxia đã giảm từ 49,3 % xuống còn 17,3 %. Tuy nhiên việc giảm tỷ lệ nghèo ở 
Malayxia chủ yếu là kết quả của mức tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm 
chứ không phải do thu nhập nhiều hơn. ở Malayxia chi phí từ ngân sách cho các hoạt 
động xã hội tăng liên tục từ 18 % trong suốt thời kỳ 1970 đến 37 % trong thời kỳ 
1988. Trong các dịch vụ xã hội thì giáo dục được dành vị trí ưu tiên hàng đầu, tiếp theo 
là nhà ở, y tế và các dịch vụ chung. Nhờ nỗ nực của chính phủ và sự phát triển kinh tế 
chủa xã hội nói chung tỷ lệ học sinh sơ cấp tăng từ 88 % lên 96,4 %. Các chỉ số về y tế 
như tỷ lệ sinh tỷ lệ chết tuổi thọ trung bình đều có những tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên , 
việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của những người nghèo vẫn còn là vấn đề cần 
quan tâm. 
1.4.4/ Philippin 
 Khi nghiên cứu tình trạng nghèo khổ ở Philippin các nhà kinh tế đã chỉ ra một số 
nguyên nhân sau: 
+.Nguồn cung cấp lao động tăng nhanh dẫn tới thất nghiệp và lương thấp. 
+.Mô hình đầu tư công nghiệp với cường độ vốn tăng nhanh đã làm giảm khả năng thu 
hút lao động 
+.Sự thiếu hụt về việc làm đã dẫn đến tình trạng nguồn nhân lực nông thôn không 
chuyển được sang các nghành thứ yếu khác. 
+.Sự phân phối đất đai khá chênh lệch. 
+.Những sai lầm trong chiến lược công nghiệp hoá như:bảo hộ quá mức,tập trung quá 
nhiều nguồn lực vào trong thành phố... 
 Trên đây là một số vấn đề mà Philippin gặp trong việc phân phối .Thậm chí trong 
chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá Philippin cũng tập trung quá nhiều vào thành 
thị,chính sách phân phối có lợi cho người có thu nhập cao.Hệ thống thuế chủ yếu dựa 
vào thuế gián thu.Các gia đình có thu nhập cao chỉ phải đóng 12%,trong đó các gia 
đình có thu nhập thấp lại phải đóng tới 20%.Chương trình giảm nghèo khổ có mục 
đích chính là thực hiện một sự phân phối công bằng hơn trên cơ sở phân phối một cách 
hợp lí hơn. 
1.4.5/ Singapore 
 Là một đất nước giầu có và có thu nhập cao sự tăng trưởng kinh tế cao và liên 
tục trong nhiều thập niên đã làm cho việc xoá bỏ nghèo khổ ở đây ít nan giải hơn tỷ lệ 
nghèo tuyệt dối giảm từ19 % xuống còn chỉ 13 %. Trong những năm gần đây, chính 
phủ Singapore đã có những cố gắng đáng khể để tăng kỹ năng và chất lượng của toàn 
bộ lực lượ