Ngân sách nhà nước đóng một vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với sự phát triển kinh tế nước ta mà còn đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Mà vấn đề thu chi Ngân sách vẫn là mối quan tâm sâu sắc của mỗi quốc gia. Ngân sách là công cụ quản lý vĩ mô nên kinh tế. Thông qua công cụ này, Nhà nước sẽ tham gia vào việc điều chỉnh một số quan hệ kinh tế cân đối của nền kinh tế như: tích luỹ và tiêu dùng, xuất và nhập khẩu, cơ cấu tiêu dùng và điều tiết thu nhập để đảm bảo cân bằng. Thực tế, các cường quốc kinh tế trên thế giới đều có một chính sách thu ổn định, đồng thời chi tiêu ngân sách hợp lý. Điều này thể hiện tầm quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
25 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1857 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng việc áp dụng các nguyên tắc thiết lập hệ thống thu Ngân sách nhà nước của nước ta giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân sách nhà nước đóng một vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với sự phát triển kinh tế nước ta mà còn đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Mà vấn đề thu chi Ngân sách vẫn là mối quan tâm sâu sắc của mỗi quốc gia. Ngân sách là công cụ quản lý vĩ mô nên kinh tế. Thông qua công cụ này, Nhà nước sẽ tham gia vào việc điều chỉnh một số quan hệ kinh tế cân đối của nền kinh tế như: tích luỹ và tiêu dùng, xuất và nhập khẩu, cơ cấu tiêu dùng và điều tiết thu nhập để đảm bảo cân bằng. Thực tế, các cường quốc kinh tế trên thế giới đều có một chính sách thu ổn định, đồng thời chi tiêu ngân sách hợp lý. Điều này thể hiện tầm quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay việc từ bỏ nguyên tắc quản lý trực tiếp theo kiểu “cấp phát và giao nộp” đối với khu vực kinh tế quốc doanh và các cơ quan Nhà nước, đã tạo điều kiện cho NSNN đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế – xã hội. Thu NSNN là một công tác rất quan trọng, nó quyết định việc thực hiện các vai trò của NSNN nói chung cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến các khoản chi NSNN nói riêng.
Vì vậy nhóm 2 chọn đề tài: “Thực trạng việc áp dụng các nguyên tắc thiết lập hệ thống thu NSNN ở nước ta giai đoạn hiện nay. Làm thế nào để tránh thất thu NSNN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ?”
Bài có 3 phần chính:
Phần A: Lý thuyết chung về thu Ngân sách nhà nước.
Phần B: Thực trạng việc áp dụng các nguyên tắc thiết lập hệ thống thu Ngân sách nhà nước của nước ta giai đoạn hiện nay.
Phần C: Một số giải pháp chống thất thu ngân sách ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
PHẦN A
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I - Ngân sách nhà nước:
1. Ngân sách nhà nước là gì?
Ngân sách nhà nước (NSNN) là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội phát sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung quan trọng nhất của Nhà nước – quỹ ngân sách nhằm đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước về mọi mặt.
II - Thu Ngân sách nhà nước
1. Khái niệm, đặc điểm, và vai trò của thu NSNN:
a, Khái niệm:
“Thu NSNN là hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị, phát sinh trong quá trình nhà nước dùng lực chính trị, huy động các nguồn lực tài chính xã hôi để hình thành quỹ tiền tệ tập trung quan trọng nhất nhà nước (quỹ ngân sách)”.
b, Đặc điểm thu NSNN
Thứ nhất, nguồn tài chính được tập trung vào NSNN là những khoản thu nhập của Nhà nước được hình thành trong quá trình Nhà nước tham gia phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Thu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân chia các nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội. Sự phân chia đó là một tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy Nhà nước cũng như yêu cầu thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Đối tượng phân chia là nguồn tài chinh quốc gia là kết quả do lao động sản xuất trong nước tạo ra được thể hiện dưới hình thức tiền tệ.
Thứ hai, về mặt nội dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước
Cuối cùng, một đặc điểm quan trọng nữa của thu NSNN là nó gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của các phạm trù giá trị như giá cả, lãi suất, thu nhập… Ví dụ: khi giá cả tăng => thu giảm; thu nhập tăng => thu tăng; tỷ giá tăng => thu tăng; lãi suất tăng ( giảm đầu tư ) => thu giảm…vv. Sự vận động của các phạm trù đó vừa tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết cuả các công cụ thu NSNN.
c, Cơ cấu thu NSNN
Thu trong cân đối NSNN là các khoản thu nằm trong hoạch định của Nhà Nước nhằm cân đối ngân sách. Các khoản này bao gồm: thuế, lệ phí, lợi tức của nhà nước, thu tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước và các khoản thu khác.
Thu ngoài cân đối ngân sách hay còn gọi là thu bù đắp thiếu hụt ngân sách. Trong tình trạng NSNN bị bội chi thì Nhà nước phải có giải pháp bù đắp lại phần thâm hụt đó, vì không thể để tình trạng ngân sách mất cân đối kéo dài. Thu bù đắp thiếu hụt ngân sách thức chất là vay để bù đắp, bao gồm vay trong nước và vay nước ngoài. Vay trong nước được tiến hành qua việc phát hành công trái, trái phiếu chính phủ….để huy động lượng tiền nhàn rỗi trong nhân dân. Vay nước ngoài được thực hiện qua vay nợ nước ngoài hay nhận các khoản viện trợ nước ngoài của các Chính Phủ,các tổ chức phi tài chính quốc tế.
d, Vai trò:
Như chúng ta đã biết, NSNN có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Và có thể nói rằng thu NSNN chính là việc tạo lập quỹ NSNN, từ đó NSNN mới có khả năng phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ này nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước. Có thu thì mới có chi, thu phải tốt thì chi mới có thể tốt, vậy nên có thể khẳng định thu NSNN có vai trò đặc biệt quan trọng.
2. Phân loại thu ngân sách nhà nước
a. Căn cứ vào nội dung kinh tế của các khoản thu
Thu thuế
Thu phí, lệ phí ( cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp)
Thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước : thu từ lợi tức, từ hoạt động góp vốn kinh doanh cổ phần của nhà nước, thu hồi tiền cho vay ( gốc + lãi) của nhà nước, thu hồi vốn đầu tư của nhà nước tại các cơ sở kinh tế bán hoặc đấu giá doanh nghiệp nhà nước.
Thu từ bán – cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
Thu từ hoạt động hợp tác lao động với nước ngoài.
Thu khác ( tiền phạt, tịch thu, tịch biên tài sản)
b. Căn cứ vào tính chất phát sinh các khoản thu
Thu thường xuyên: các khoản thu phát sinh thường xuyên cùng với nhịp độ hoạt động nền kinh tế, thường mang tính chất bắt buộc.
Thu không thường xuyên: các khoản thu chi phát sinh vào những thời điểm nhất định, không phát sinh liên tục.
c. Căn cứ vào tính chất cân đối ngân sách nhà nước
Thu trong cân đối ngân sách nhà nước: là những khoản thu được xây dựng và thực hiện trong mối quan hệ cân đối với chi ngân sách nhà nước, thường ổn định lâu dài, được lập dự toán.
Thu ngoài cân đối ngân sách nhà nước: là những khoản thu được xác định và thực hiện khi ngân sách nhà nước mất cân đối hay bôi chi
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước
Thu nhập GDP bình quân đầu người : là 1 chỉ tiêu phản ánh khả năng tăng trưởng và phát triển của một quốc gia, phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước, nó là nhân tố khách quan quyết định mức thu của NSNN
Tỷ suất doanh lợi của nền kinh tế: là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của đầu tư phát triển kinh tế. Tỷ suất doanh lợi càng lớn thì nguồn tài chính càng lớn, như vậy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng cả về quy mô và hiệu quả, đây là cơ sở nâng cao tỷ suất thu cho NSNN
Khả năng xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên ( dầu mỏ và khoáng sản). Đối với các nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào phong phú thì xuất khẩu tài nguyên sẽ đem lại nguồn thu lớn cho NSNN. Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến số thu của ngân sách.
Mức độ trang trải các khoản chi phí của nhà nước. Mức độ phụ thuộc vào các yếu tố:
Quy mô và hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Những nhiệm vụ kinh tế xã hội mà nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ, từng giai đoạn.
Chính sách sử dụng kinh phí của nhà nước
Tổ chức bộ máy thu nộp: tổ chức bộ máy gọn nhẹ, đạt hiệu quả cao, chống được thất thu do trốn lậu thuế sẽ là nhân tố tích cực làm giảm tỷ suất thu mà vẫn thoả mãn được các nhu cầu chi tiêu của NSNN.
Các nhân tố khác.
.
4. Nguyên tắc thiết lập hệ thống thu NSNN :
Thiết lập một hệ thống thu ngân sách không chỉ nhằm mục đích duy trì và đảm bảo nguồn thu NSNN mà còn phải chứa đựng các mục tiêu kinh tế xã hội khác. Do đó việc thiết lập hệ thống thu NSNN phải dựa trên những nguyên tắc nhất định:
Nguyên tắc ổn định và lâu dài:
Trong những điều kiện hoạt động bình thường thì phải cẩn ổn định mức thu, ổn định các sắc thuế không được gây xáo trộn lớn trong hệ thống thuế; đồng thời tỷ lệ động viên của nhà nước phải thích hợp, đảm bảo kích thích nền kinh tế tăng trưởng, nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.
Để thực hiện được nguyên tắc này đòi hỏi phải có sự lụa chọn đối tượng tính thuế sao cho đối tượng đó ít có sự biến động.
Ý nghĩa:
+ Thuận lợi cho việc kế hoạch hóa NSNN.
+ Tạo điều kiện để kích thích người nộp thuế cải tiến, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nguyên tắc đảm bảo tính công bằng:
Việc thiết lập hệ thống thuế phải có quan điểm công bằng đối với mọi người chịu thuế, không phân biệt địa vị xã hội, thành phần kinh tế.
Việc thiết kế hệ thống thuế chủ yếu dựa trên khả năng thu nhập của người chịu thuế. Để đảm bảo được nguyên tắc công bằng trong thiết kế hệ thống thuế phải thiết kết hợp giữa sắc thuế trực thu với sắc thuế gián thu.
Nguyên tắc rõ ràng, chắc chắn:
Trong thiết kế hệ thống thuế các điều luật của các sắc thuế phải rõ ràng, cụ thể ở từng mức thuế, cơ sở đánh thuế…để tránh tình trạng lách luật, trốn thuế. Hơn nữa việc sửa chữa, bổ sung các điều khoản trong sắc thuế ko phải lúc nào cũng thực hiện được, cho nên các điều khoản trong luật phải bao quát và phù hợp với các hoạt động của nền kinh tế xã hội.
Ý nghĩa: đảm bảo được nguyên tắc này giúp cho việc tổ chức chấp hành luật thống nhất, tránh được tình trạng lách luật trốn thuế.
* Nguyên tắc đơn giản:
Cần hạn chế số lượng thuế suất, xác định rõ mục tiêu chính, không đề ra quá nhiều mục tiêu trong một sắc thuế.
Có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai luật thuế vào thực tiễn, tránh được những tiêu cực trong thu thuế.
PHẦN II
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC THIẾT LẬP HỆ THỐNG THU NGÂN SÁCH NƯỚC TA HIỆN NAY
I. Thực trạng
Trong thời gian qua, thu ngân sách góp phần củng cố và tăng cường tiềm lực tài chính Nhà nước. Thu ngân sách không những đã đảm bảo đủ nguồn thu cho chi tiêu thường xuyên của chính phủ mà còn để dành ra một phần tích luỹ cho đầu tư phát triển. Số thu ngân sách, theo giá hiện hành, đã tằn 7.7 lần từ năm 1991 đến năm 2000. Trong đó số thu từ thuế là lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu NSNN. Bình quân thu từ thuế, phí và lệ phí chiếm khoảng 95 % trong tổng số thu. Cụ thể chúng ta sẽ tìm hiểu qua một chút về những chỉ tiêu đã đạt được trong trong giai đoạn 2005 - 2009:
* Năm 2005
Tổng dự toán cân đối thu NSNN năm 2005 là 183.000 tỷ đồng. Dự toán thu nội địa ( không kể dâu thô) năm 2005 tăng 13,6%, trong đó thu từ khu vực DN nhà nước tăng 12,3%, thu từ khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài tăng 30,1%, từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng 20,5%, dự toán thu phí, lệ phí tăng 4,1%, để hạ chi phí đầu vào của nền kinh tế, khuyến khích sản xuất, xuất khẩu. Điều đặc biệt, năm 2005 quốc hội đã nhất trí tăng dự toán thu nội địa từ thu tiền sử dụng đất thêm 800 tỷ đồng ( để tăng dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản hạ tầng của địa phương), tăng dự toán thu ngân sách trung ương từ dầu thô 2.500 tỷ đồng( do giá dầu thô thế giới tại thời điểm này ở mức cao và dự báo trong năm 2005 vẫn ở mức cao). Tổng hợp chung, dự toán thu NSNN năm 2005 tăng thêm 3.300 tỷ đồng. Điểm nổi bật trong hoạt động thu NSNN năm 2005 là thu nội địa đạt 170.500 tỷ đồng, tăng 19% so với cả dự toán đặt ra và so với năm trước. Không chỉ về đích sớm từ cuối tháng 10, lần đầu tiên 64/64 tỉnh thành đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức nhiệm vụ thu NSNN, nâng tổng số địa phương đạt số thu 500 tỷ đồng lên con số 39 và 22 địa phương được đứng trong câu lạc bộ 1000 tỷ đồng( tăng thêm 4 địa phương so với năm trước), 39/64 địa phương hoàn thành trên mức bình quân chung của toàn ngành, trong đó 6 địa phương đã vượt dự toán ở mức rất cao( hơn 50%) là Đà Nẵng, Bình Thuận, Lai Châu, Thái Bình và Quảng Ngãi. Thu từ dầu thô đạt hơn 55.000 tỷ đồng, vượt hơn 46% so với dự toán do giá dầu thô luôn duy trì ở mức cao, bình quân cả năm ở mức 397 USD/ tấn, tăng hơn 50% so với giá xây dựng dự toán. Toàn khối doanh nghiệp nộp ngân sách hơn 75.000 tỷ đồng. Trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm hơn 20.000 tỷ đồng( tương đương 1.3 tỷ USD, tăng mạnh nhất hơn với hơn 39% so với năm 2004). Mặc dù các giao dịch nhà đất chững lại, nhưng số thu từ nguồn này vẫn đạt hơn 16.000 tỷ đồng, tăng gần 34% so với dự toán. Thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao đạt hơn 4.400 tỷ đồng, tăng 25% so với dự toán. Nếu so với thời kỳ trước đây thì thu ngân sách đã có những tiến bộ lớn. Tuy nhiên, nếu so với tốc độ tăng trưởng thì việc tăng thu NSNN còn chậm, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh, trong khi giá trị công nghiệp tăng 19,2% thì nguồn thu ngân sách chỉ tăng 12%.
* Năm 2006
Dự toán NSNN năm 2006 với tổng các nguồn thu ước đạt 237.900 tỷ đồng, tăng 13% so với thực hiện năm 2005. Theo Bộ Tài chính, trong tổng thu ngân sách năm 2006, nguồn thu trong nước ước đạt 132.000 tỷ đồng, thu từ dầu khí khoảng 63.400 tỷ đồng, từ thuế XNK 40.000 tỷ đồng và viện trợ không hoàn lại khoảng 2500 tỷ đồng. Ngoài ra khoảng 8000 tỷ đồng trong NSNN năm 2005 cũng đã được chuyển sang năm 2006. Trong số nguồn thu ngân sách trong nước ( không kể thu từ dầu thô ) thì thu từ kinh tế quốc doanh đạt 42.243 tỷ đồng, doanh nghiệp FDI là 27.807 tỷ đồng, còn lại là thu từ các loại thuế, phí…
* Năm 2007
Mục tiêu thu chi ngân sách năm 2007 do chính phủ trình quốc hội tại kỳ họp thứ 10 như sau: “ Tổng thu NSNN trên 274 nghìn tỷ đồng, bằng 24,2% GDP và tăng 15,5%; tổng chi NSNN 347 nghìn tỷ đồng, tăng 17,7% so với dự toán năm 2006; bội chi NSNN bằng 5% GDP ”, so với GDP đạt khoảng 26,3%. Thực tế thực hiện tổng thu cân đối NSNN năm 2007 là 281.900 tỷ đồng và thu kết dư 19.000 tỷ đồng năm 2006 chuyển sang; tổng thu NSNN năm 2007 là 300.900 tỷ đồng. “số vượt thu chủ yếu tập trung vào các khoản ngân sách địa phương , trong đó các khoản về nhà và đất vượt gần 15.800 tỷ đồng so với dự toán, chiếm đến 70,1% số vượt thu nội địa, nhiều hơn 12.200 tỷ so với báo cáo Quốc hội”. Trong khi đó, thu từ kinh tế quốc doanh lại thấp hơn đến trên 3.500 tỷ đồng so với dự toán. Các nguyên nhân chủ yếu: giảm thu đối với sản xuất, kinh doanh khí thiên nhiên; Cục dự trữ Liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất cơ bản, dẫn đến giảm thu từ chênh lệch thu chi Ngân hàng Nhà nước; các Ngân hàng thương mại Nhà nước tăng trích vốn để lập quỹ dự phòng rủi ro, và cuối cùng là giảm thu thuế thu nhập doanh nghiệp. Uỷ ban Tài chính – ngân sách Quốc hội cho rằng: mặc dù năm 2007 nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhưng tình trạng thu NSNN vẫn chưa bền vững. Có 13 khoản thu đạt và vượt, có hai khoản thu giảm so với dự toán, là thu nội địa( không đạt là do thu từ kinh tế quốc doanh không đạt) và thu phí xăng dầu. Chính phủ lý giải thu từ kinh tế quốc doanh không đạt chủ yếu là do chưa thực hiện điều chỉnh chính sách thu đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh khí thiên nhiên trong năm 2007, giảm thu ngân sách từ tổng công ty Khí… Trong khi đó, giảm thu từ phí xăng dầu do giá xăng dầu tăng cao nên lượng tiêu thụ không đạt mức dự kiến.
* Năm 2008
Theo báo cáo của Bộ trưởng Bộ tài chính Vũ Văn Ninh, tổng số thu cân đối NSNN năm 2008 ước đạt 399.000 tỷ đồng, vượt dự toán 76.000 tỷ đồng. Dự ước tổng số thu NSNN đạt khá, vượt 23,5% so với dự toán, tăng 26,3% so với thực hiện năm 2007, đạt tỷ lệ động viên 26,8% GDP. Tính đến cuối tháng 9 – 2008, tổng thu NSNN ước đạt 90,5% dự toán cả năm do Quốc hội phê duyệt, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ tương ứng ( 68,6%) của năm ngoái. Trong đó, thu nội địa đạt 84,8%, thu từ dầu thô đạt 86%, thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất khẩu đạt 111%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực Nhà nước đạt 83%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( không kể dầu thô) đạt 75%; thu từ thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước đạt 77,7%; thuế thu từ người có thu nhập cao đạt 105,6%; thu phí xăng dầu đạt 68,3%; thu phí và lệ phí đạt 72,8%. “Nét nổi bật nhất trong công tác thu ngân sách năm 2008 là mặc dù nền kinh tế phải đối phó với rất nhiều khó khăn, thách thức và biến động khó lường, nhiều khoản thu giảm mạnh vào những tháng cuối năm, nhưng tổng thu nội địa (trừ dầu) vẫn đạt mức tăng trưởng cao. Đặc biệt, số thu từ khu vực doanh nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay”, phó tổng Cục trưởng tổng Cục thuế Nguyễn Đình Vu nhận định. Một trong những điểm nổi bật nữa của công tác thu ngân sách năm 2008, theo ông Vu là khu vực doanh nghiệp Nhà nước ( DNNN) đã “bắt nhịp” được với sự phát triển , khi số nộp ngân sách đã đạt mức tăng trưởng 30,6%. Khu vực doanh nghiệp dân doanh ngày càng trở nên quan trọng của nền kinh tế, tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng, khi số thu ngân sách tăng trên 33%. Năm 2007 là năm thành công trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài , nên sau một số năm, số thu ngân sách đạt tốc độ tăng trưởng thấp, khu vực này đã đạt tốc độ tăng trưởng 32,5% năm 2008”. Tuy nhiên Ngân sách của quốc hội cho rằng mức vượt dự toán này chủ yếu từ yếu tố bên ngoài, yếu tố bán tài nguyên, đất đai. Số thu từ nội lực của nền kinh tế còn rất thấp và có phần giảm sút. Báo cáo của uỷ ban Tài chính – Ngân hàng Quốc hội cũng đưa ra phân tích mặc dù vượt dự toán 76.000 tỷ đồng , nhưng có 35.000 tỷ đồng vượt dự toán là do giá dầu thô trên thị trường thế giới tăng 41 USD/ thùng so với giá tính dự toán; thu XNK tăng 23.500 tỷ đồng ( tăng 34,6% so dự toán), thu từ đất tăng 5.500 tỷ đồng ( tăng 33,3% so dự toán). Điều đó chứng tỏ rằng số thu vượt dự toán chủ yếu phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài, yếu tố bán tài nguyên, đất đai; số thu từ nội lực của nền kinh tế còn rất thấp và có phần giảm sút. Thu nội địa ( trừ tiền sử dụng đất) chỉ tăng 5,9% so với dự toán, thu từ khu vực DNNN chỉ tăng 1,5% dự toán, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tăng 2,1% so với dự toán, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 5,9% so với dự toán; tốc đọ tăng thu giảm dần so với đầu năm… Điều đó cho thấy, sản xuất kinh doanh năm 2008 có biểu hiện chững lại, phát sinh rất nhiều khó khăn ở các khu vực kinh tế, kéo theo số thu NSNN không ổn định và không đều như các năm trước đây. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì thu nội địa thực chất thấp hơn so với dự toán.
* Năm 2009
Trên cơ sở chỉ tiêu đã đạt được những năm trước và tình hình kinh tế thế giới cũng như trong nước, Quốc hội thông qua dự toán NSNN năm 2009 là 389.300 tỷ đồng, bằng 21,5% GDP. Thông tin trên được Bộ Tài chính cho biết ngày 15-1. Với trên 10 tỷ USD trong số trên 60 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2008 đã được giải ngân, năm 2009, khu vực này được trông đợi sẽ tiếp tục đóng góp nhiều hơn vào NSNN. Trong đó, thu nội địa ( không kể dầu thô) tăng 13,7% so với ước thực hiện năm 2008, không kể thu tiền sử dụng đất theo đăng ký của địa phương tăng 15,8% so với ước thực hiện năm 2008. Kết quả thu ngân sách tăng cao vào năm 2008, nhưng ngành thuế đang phải đối mặt trước sự suy giảm nguồn thu. Mức giảm thu gần đây khá lớn và diễn ra ở hầu khắp các địa phương. Thống kê của Tổng cục Thuế cho thấy, từ đầu năm đến ngày 10/2, thu nội địa đạt 21.663 tỷ đồng( bằng 7,3% so với dự toán), chỉ bằng 65,1% so với cùng kỳ. Nhìn chung hầu hết các khoản thu đều đạt thấp so với dự toán và giảm so với cùng kỳ năm 2008.
Theo nhận định của tổng cục thuế, bên cạnh lý do giảm thu do kinh tế suy thoái, trong năm 2009, toàn ngành sẽ phải thực hiện những giải pháp của Chính phủ về giãn, giảm thuế cho DN để chống suy giảm kinh tế. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số thu của toàn ngành, nhất là tại những địa bàn có nhiều DN nhỏ và vừa - đối tượng được hưởng hỗ trợ của chính phủ thông qua các chính sách thuế. Dự kiến tổng thu NSNN năm nay vượt 23,5% so với dự toán và tăng 26,3% so với kết quả thực hiện năm ngoái. Tuy nhiên, theo phân tích của Uỷ ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội, thu ngân sách năm nay chức đựng nhiều yếu tố đột biến, không ổn định. Trong 76.000 tỷ đồng vượt dự toán, có tới 35,4 nghìn tỷ đồng chênh lệch giá dầu thô so với tính toán ban đầu. Giá tính dự toán dự toán thu từ dầu thô là 64 USD mỗi thùng xong giá bình quân dự kiến thực hiện xấp xỉ 105 USD. Thu từ xuất khẩu vượt 23.500 tỷ đồng và thu từ đất vượt 5.500 tỷ đồng so với dự toán đầu năm. Cả ba yếu tố này đều r