Cải cách tài chính công là một trong bốn nội dung lớn của chương trình tổng thể cải cách hành chính trong giai đoạn 2001-2010. Trong đó, đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước là một trong những chương trình trọng điểm, và nội dung chủ yếu là thực hiện chế độ khoán chi hành chính, tạo thế chủ động cho các cơ quan hành chính nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Để hiểu rõ hơn về chế độ khoán chi hành chính nhóm chúng em quyết định chọn đề tài: “Tìm hiểu nội dung của chế độ khoán chi hành chính và khả năng áp dụng phương thức này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
13 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2259 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu nội dung của chế độ khoán chi hành chính và khả năng áp dụng phương thức này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU.
Cải cách tài chính công là một trong bốn nội dung lớn của chương trình tổng thể cải cách hành chính trong giai đoạn 2001-2010. Trong đó, đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước là một trong những chương trình trọng điểm, và nội dung chủ yếu là thực hiện chế độ khoán chi hành chính, tạo thế chủ động cho các cơ quan hành chính nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Để hiểu rõ hơn về chế độ khoán chi hành chính nhóm chúng em quyết định chọn đề tài: “Tìm hiểu nội dung của chế độ khoán chi hành chính và khả năng áp dụng phương thức này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
B. NỘI DUNG.
I. Nội dung chế độ khoán chi hành chính.
1.Khái niệm:
Khoán chi hành chính là nhà nước giao cho một số cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp có thu của nhà nước 1 khoản kinh phí tiến hành tự chủ trong chi tiêu và quản lí biên chế.
2. Các cơ quan, tổ chức hành chính sự nghiệp thực hiện chế độ tự chủ.
Nghị định 130 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước có tài khoản và con dấu riêng (sau đây gọi tắt là cơ quan thực hiện chế độ tự chủ), ( theo điều 1 khoản 1 NĐ130) bao gồm:
-Các bộ,cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ;
-Văn phòng Quốc Hội, Văn phòng Chủ tịch nước;
-Tòa án nhân dân các cấp, Viện kiểm sát nhân dân các cấp;
-Văn Phòng Hội đồng nhân dân, Văn phòng ủy ban nhân dân; các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
-Văn phòng Hội đồng nhân dân, Văn phòng ủy ban nhân dân; Các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân các quận, huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
3 Nội dung và nguyên nhân thực hiện khoán chi hành chính.
3.1 Nội dung.
Căn cứ theo nghị định của chính phủ số 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 quy định chế độ tựu chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phía quản lý hành chính.
Cơ chế khoán chi hành chính bao gồm một số nội dung được quy định như sau:
Nhà nước sẽ giao khoán cho các đơn vị trên nguồn kinh phí (ngân sách nhà nước cấp) cộng với các khoản thu phí, lệ phí theo quy định của pháp luật, tổng hợp các nguồn kinh phí trên, đơn vị hành chính nhà nước đó sẽ tự chủ trong việc chi tiêu, thanh toán cho các mục đích hoạt động của đơn vị. Mặc dù tự chủ trong việc chi tiêu nhưng các đơn vị hành chính nhà nước kể trên vẫn chỉ được phép chi tiêu cho các khoản chi có trong quy định, khuôn khổ cho phép của pháp luật, điều đó được quy đinh tại khoản 2 Điều 6 Nghị định 130: Nội dung chi của kinh phí giao, gồm:
a) Các khoản chi thanh toán cho cá nhân : tiền lương, tiền công, phụ cấp lương, các khoản đóng góp theo lương, tiền thưởng, phúc lợi tập thể và các khoản thanh toán khác cho cá nhân theo quy định;
b) Các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn: thanh toán dịch vụ công cộng, vật tư văn phòng, thông tin, tuyên truyền, liên lạc, hội nghị, công tác phí trong nước, chi cho các đoàn đi công tác nước ngoài và đón các đoàn khách nước ngoài vào Việt Nam (phần bố trí trong định mức chi thường xuyên), chi phí thuê mướn, chi nghiệp vụ chuyên môn của từng ngành, mua sắm, sửa chữa thường xuyên tài sản cố định;
c) Các khoản chi khác có tính chất thường xuyên ngoài nội dung quy định tại Điều 7 Nghị định này.
Khi sử dụng nguồn kinh phí mà được sử dụng theo chế độ tự chủ, Căn cứ vào tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao, Thủ trưởng cơ quan thực hiện chế độ tự chủ tự quyết định bố trí số kinh phí được giao vào các mục chi cho phù hợp; được quyền điều chỉnh giữa các mục chi nếu xét thấy cần thiết. Cơ quan thực hiện chế độ tự chủ được vận dụng các chế độ chi tiêu tài chính hiện hành để thực hiện, nhưng không được vượt quá mức chi tối đa do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Khi có phát sinh các yếu tố làm thay đổi mức kinh phí đã giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ có văn bản đề nghị bổ sung, điều chỉnh dự toán kinh phí, giải trình chi tiết các yếu tố làm tăng, giảm dự toán kinh phí gửi cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp. Cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp (trường hợp không phải là đơn vị dự toán cấp I) xem xét, tổng hợp dự toán của các đơn vị cấp dưới trực thuộc gửi đơn vị dự toán cấp I. Cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương (đơn vị dự toán cấp I) xem xét dự toán do các đơn vị trực thuộc lập, tổng hợp và lập dự toán chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý gửi cơ quan tài chính cùng cấp để trình cấp có thẩm quyền quyết định.
Các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ phải có trách nhiệm trong hoạt động của mình, trong đó Thủ trưởng cơ quan thực hiện chế độ tự chủ chịu trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định của mình trong việc quản lý, sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính được giao. Các cơ quan quản lý cấp trên, cụ thể là Bộ tài chính, Bộ nội vụ có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với nhau để hướng dẫn thực hiện cho các đơn vị tự chủ, thường xuyên tổ chức chỉ đạo, kiểm tra giám sát việc thực hiện chế độ tự chủ tại các đơn vị, quy định cụ thể tại Điều 12, 13 Nghị định này. Ngoài ra các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương cũng có trách nhiệm liên quan đến việc thực hiện tự chủ của các đơn vị (quy định cụ thể tại Điều 11 Nghị định này) thường xuyên chỉ đạo hướng dẫn cho các đơn vị thực hiện chế độ, ban hành các tiêu chí đánh giá cho các đơn vị, tổ chức kiểm tra giám sát việc thực hiện, hàng năm có tổ chức báo cáo đánh giá việc thực hiện của các đơn vị, đánh giá kiến nghị đề xuất tháo gỡ các khó khăn trong việc thực hiện.
Về biên chế. Căn cứ số biên chế được giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ được quyền chủ động trong việc sử dụng biên chế như sau: Được quyết định việc sắp xếp, phân công cán bộ, công chức theo vị trí công việc để bảo đảm hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan. Được điều động cán bộ, công chức trong nội bộ cơ quan. Trường hợp sử dụng biên chế thấp hơn so với chỉ tiêu được giao, cơ quan vẫn được bảo đảm kinh phí quản lý hành chính theo chỉ tiêu biên chế được giao. Được hợp đồng thuê khoán công việc và hợp đồng lao động đối với một số chức danh theo quy định của pháp luật trong phạm vi nguồn kinh phí quản lý hành chính được giao
3.2 Nguyên nhân phải thực hiện.
Một số thực trạng về vấn đề chi tiêu và biên chế của cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp có thu.
Những vấn đề chi tiêu không đúng chế độ; sử dụng tài chính không đúng mục tiêu; không đúng nguồn tình trạng; lãng phí và thất thoát đã diễn ra một cách phổ biến trong các cơ quan hành chính theo như dân gian ta hay nói cha chung không ai khóc. Cuối năm 2008, kiểm toán nhà nước công bố những con số giật mình. Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn phản ánh thiếu tài sản, ôtô, máy móc,… lên tới gần 10 tỉ đồng. Tại 8 bộ, ngành địa phương, qua kiểm toán phát hiện số tài sản mua sai chế độ mục đích…lên tới 95 tỷ đồng...Số tiền chi tiêu công mà kiểm toán nhà nước kiến nghị xử lý lên tới 13.000 tỷ đồng – tương ứng thu ngân sách của 13 tỉnh thành. Không những thế với 1 luợng lớn biên chế mỗi năm chúng ta mất một lượng lớn tiền chi cho họ mà nhiều khi không cần thiết nhiều đến thế, mọi người thi nhau chạy vào biên chế, vào cơ quan nhà nước rồi sau khi được biến chế lại chạy chỗ khác làm thêm những việc khác, một thực trạng kéo dài trong nhiều năm liền mất một lượng tiền lớn để trả cho họ mà có khi hiệu quả thu được không nhiều.
Nguyên nhân nhà nước ta thực hiện chế độ khoán chi hành chính.
-Để giảm thiểu gánh nặng chi tiêu công, các cơ quan, đơn vị với quan niệm trước đây thiếu đâu đã có nhà nước no, cơ chế xin-cho tồn tại trong một thời gian dài đi sau vào tư tưởng ý thức, mọc rể trong suy nghĩ của họ, nhà nước ta mỗi năm phải chi 1 khoản tiền lớn cho chi tiêu : tiền lương, tiền công, phụ cấp lương, chi phí thuê mướn, chi nghiệp vụ chuyên môn của từng ngành, mua sắm, sửa chữa thường xuyên tài sản cố định;…giả sử như biên chế tăng không có hạn mức cụ thể thì nhà nước ta phải chi một số tiền cho số biên chế này. Lượng biên chế đông mỗi năm nhà nước ta phải chi 1 số tiền khổng lồ cho chi trả lương, khi thực hiện tự chủ buộc các cơ quan, đơn vị phải xem xét đến lượng biên chế sao cho đủ người đúng việc.
- Thực hiện khoán chi hành chính thì buộc các đơn vị sử dụng NSNN chủ động trong việc chi hơn, không còn mang tính thụ động, ỷ lại nữa, mà sẽ phải tự điều tiết, có kế hoạch tính toán chi tiêu sao cho với khoản chi đó thu được hiệu quả, bởi nếu chi mà không phù hợp dẫn đến lãng phí không đủ thì không có chuyện hết là xin và chính thủ trưởng cơ quan đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những quyết định của mình.
- Thúc đẩy sự năng động của các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp trong việc chủ động tìm kiếm và tăng những nguồn thu, các khoản phí, lệ phí được để lại theo chế độ quy định, các khoản thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Nâng cao hiệu suất hoạt động để tăng thêm thu một cách hiệu quả. Tăng tính năng động trong việc điều tiết cán bộ biên chế sao cho hiệu quả, do ý thức làm việc thiếu trách nhiệm của cán bộ công chức trong chế độ cũ. Trước đây khi nhà nước thực hiện biên chế hưởng lương theo cấp bậc, ý thức làm việc chưa cao của cán bộ công chức luôn nghĩ rằng lương đã có nhà nước trả. Lương bình quân như nhau làm nhiều hay ít cũng vậy nhưng với khoán chi sẽ tạo ra 1 môi trường mới người làm hiệu quả sẽ nhận được phần lương tương ứng với phần mình làm.
-Đảm bảo cho nguồn nhân lực đầu vào ổn định hơn khi mà trong thời gian trước lượng người vào làm và biên chế cứ xin vào rồi đi học thêm lấy bằng, hoặc trình độ không cao.. nhưng với thực hiên chế độc khoán chi hành chính này thì phải cân nhắc sao cho nguồn nhân lực đầu vào chất lượng để thu được hiệu quả cao không gây lãng phí thất thoát nguồn kinh phí được cấp.
4. Ưu điểm và nhược điểm thực hiện khoán chi hành chính.
4.1 Ưu điểm của khoán chi hành chính.
Việc khoán chi hành chính tạo ra tính chủ động, sáng tạo trong việc sử dụng ngân sách ở các cấp địa phương. Giảm gánh nặng cho ngân sách trung ương. Điều tiết vấn đề chi tiêu, các cơ quan sẽ phải tự sắp xếp nguồn nhân lực sao cho hợp lí. Tạo ra tính năng động trong việc tìm kiếm nguồn thu đảm bảo cho quỹ tiền của cơ quan, chủ động đi tìm kiếm những khoản thu sao cho một phần nào đó có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương mình. đơn vị đó.
Xoá bỏ sự bình quân chủ nghĩa, xoá bỏ sự thiên vị trong quá trình phân bổ ngân sách khiến cơ chế xin - cho không còn môi trường tồn tại.
Áp dụng chế độ khoán chi hành chính góp phần làm cho bộ máy hành chính nước ta được hiệu quả. Khoản chi thường xuyên về lương cho đội ngũ nhân viên nhà nước được sử dụng hiệu quả, lượng biên chế được bảo đảm.
Việc áp dụng chế độ khoán chi hành chính làm cho bộ máy hành chính hoạt động có hiệu quả hơn, giúp việc kiểm soát chi hành chính thuận lợi hơn, khi đã giao cho các cơ quan, đơn vị này tự chủ thì công việc sẽ giảm bớt và giảm bớt gánh nặng cho cơ quan cấp trên, ngày trước thì các cơ quan, đơn vị này kêu rồi lại phản ánh nên trên, trên có chưa giải quyết kịp lại gâp ra khó khăn cho dưới thế là bài toán đặt ra trên lại trách dưới sao chi tiêu lại tốn nhiều thế, dưới lại phản ánh nên trên chi nhiều vấn đề lương rồi phụ cấp..khúc mắc sao lâu có tiền, thế là thiếu tiền chi cho khoản này khoản kia, đưa ra họp thì bên nào cũng kêu cũng đổ lỗi cho nhau, đặt ra vấn đề giao kinh phí tự chủ về biên chế và kinh phí quản lí hành chính, thủ trưởng, người đứng đầu tự phải biết quản lí điều tiết nguồn kinh phí chi cho cơ quan, đơn vị của mình.
Thực hiện tự chủ tốt sẽ đem lai lợi ích cho chính cơ quan, đơn vị đó: ví dụ kết thúc năm ngân sách, sau khi đã hoàn thành các nhiệm vụ công việc được giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ có số chi thực tế thấp hơn dự toán kinh phí quản lý hành chính được giao thực hiện chế độ tự chủ thì phần chênh lệch này căn cứ theo nghị định 130 và văn bản hướng dẫn nghị định 130 thì có thể thực hiện tăng lương cho cán bộ, chi khen thưởng, hoặc chuyển sang năm sau sử dụng tiếp…
4.2 Nhược điểm của khoán chi hành chính.
Thứ nhất: Nếu trong các đơn vị không có nguồn thu nào khác ngoài nguồn thu từ ngân sách nhà nước cấp hoặc nguồn các thu đó không đủ, thì vấn đề đặt ra các đơn vị đành phải tự chủ. Vậy tự chủ phải được thực hiện như thế nào cho hợp lý, vấn đề này gây khó khăn cho các đơn vị, có thể dẫn đến chi trả không đủ gây nhiều khó khăn.
Trên thực tế, thủ trưởng không có quyền chấm dứt một cán bộ biên chế không có năng lực hay phẩm chất đạo đức không tốt mà chỉ là sắp xếp họ vào một công việc khác. Hay với một nhiệm vụ mới phát sinh, đòi hỏi phải tăng cán bộ nhưng thủ trưởng đơn vị vẫn không thể quyết định, nếu được thì cũng mất nhiều thời gian. Như vậy, kinh phí, biên chế đều chỉ là tự chủ trong tổng cố định, tự chủ mang tính tương đối nhưng công việc vẫn phải làm.
Thứ hai: Nếu trong các đơn vị người đứng đầu kém sáng tạo, thì khoán chi cho rồi mà lại không phân bổ đúng, phân bổ vào những khoản không cần thiết, không hợp lý thì cũng dẫn đến tình trạng ngân sách chi trả trong đơn vị thiếu thốn, lãng phí.
* Mục tiêu của việc thực hiện khoán chi hành chính là đổi mới cơ chế quản lý nhằm nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các cơ quan hành chính trong việc sử dụng biên chế và kinh phí quản lý; khuyến khích cơ quan chủ động sắp xếp tổ chức và biên chế được giao; sử dụng lao động và kinh phí có hiệu quả; nâng cao hiệu suất, chất lượng công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng kinh phí, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức.
II: Tổng quan phương thức này trong giai đoạn hiện nay.
1: Thực trạng áp dụng thực hiện khoán chi qua các năm.
Đối với khoán chi hành chính mà nói không phải bây giờ chúng ta mới thực hiện theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP mà trong thời gian trước chúng ta cũng đã thực hiện cụ thể là trước khi có nghị định 130 đã có Quyết định số 230/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17 tháng 12 năm 1999 về việc thực hiện thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với một số cơ quan thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 17-12-2001, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg về việc mở rộng khoán biên chế và khoán biên chế quản lý hành chính nhà nước với các cơ quan hành chính nhà nước sử dụng ngân sách nhà nước ở Trung ương.
Thực hiện khoán chi hành chính trong thời gian trước: (1999-2005).
Sau hơn một năm thực hiện, tháng 5/2001, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức sơ kết triển khai Quyết định số 230/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ có sự tham gia của Bộ Tài chính, Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ). Qua đánh giá của UBND thành phố, việc thực hiện cơ chế khoán đã đạt được một số kết quả bước đầu khả quan. Từ thực tiễn triển khai cơ chế khoán theo Quyết định số 230/TTg của Thủ tướng Chính phủ tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17/12/2001 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg về mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan hành chính nhà nước.
Tính đến tháng 9/2004 đã có 55/64 tỉnh, thành phố thực hiện khoán, với 991 cơ quan hành chính trực thuộc thực hiện khoán, đạt tỷ lệ 31,59% tổng số cơ quan hành chính thuộc tỉnh. Đổi mới tổ chức bộ máy và sắp xếp biên chế hợp lý báo cáo thực hiện năm 2003 của 50 tỉnh, thành phố với 399 cơ quan quản lý hành chính thực hiện thí điểm khoán đã giảm biên chế 1.512 người, đạt tỷ lệ giảm 7,7% so với tổng biên chế được giao khoán. Thực hành được tiết kiệm báo cáo thực hiện 2 năm 2002, 2003 của 50 tỉnh, thành phố cho thấy: Năm 2002, với 116 cơ quan thực hiện thí điểm khoán đã tiết kiệm được 14.988 triệu đồng bằng 16,7% tổng kinh phí khoán; năm 2003 với 399 cơ quan thí điểm khoán đã tiết kiệm được 39.737 triệu đồng bằng 9,1% tổng kinh phí khoán. Tăng thu nhập cho cán bộ, công chức…
Tuy nhiên, song song với những kết quả đạt được, vẫn còn một số tồn tại và khó khăn. Những vướng mắc về cơ chế chính sách. Quyết định số 192/2001/QĐ-TTG ngày 17/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ là mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính, Quyết định này chưa mang tính bắt buộc đối với tất cả các cơ quan hành chính nên số lượng cơ quan đăng ký thực hiện khoán còn hạn chế.
Trên thực tế rất ít cơ quan thoả mãn điều kiện trên không tăng biên chế và tổng kinh phí của các khoản chi thực hiện khoán so với trước khi thực hiện khoán, đối với đa số các địa phương khi xây dựng đề án khoán các cơ quan cấp trên mới rà soát lại và giao chính thức số biên chế và kinh phí cần thiết cho các cơ quan nhận khoán. Có nhiều công việc phát sinh đột xuất. Việc quy định như trên làm cho các cơ quan e ngại khi thực hiện đề án khoán. Đối với các cơ quan đã thực hiện khoán thì một số cơ quan gặp khó khăn trong quá trình thực hiện. Chế độ hiện hành vẫn còn thiếu những quy định xác định tiêu thức đánh giá, làm căn cứ để lượng hoá việc hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thực hiện khoán.
Do các văn bản hướng dẫn hiện hành chưa có hướng dẫn rõ về việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ nên trong quá trình thực hiện một số cơ quan thực hiện khoán vẫn còn lúng túng, và còn 1 số quy định vướng mắc trong thực hiên việc khoán chi hành chính.
Vẫn còn nhiều cơ quan chưa thấy được sự cần thiết thực hiện thí điểm cơ chế này, còn e ngại khi chuyển sang thực hiện cơ chế khoán nên chưa triển khai thực hiện. Một số cơ quan và cán bộ, công chức nhận thức chưa đúng tinh thần quyết định số 192 / 2001/QĐ-TTg….
Sau hơn 4 năm thực hiện Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg cho thấy chủ trương khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính là đúng đắn. Việc triển khai bước đầu đã đạt được những kết quả tích cực, đáng khích lệ, các đơn vị đã triển khai có điều kiện quản lý, nâng cao chất lượng công việc, biên chế giảm, tiết kiệm kinh phí, thu nhập của cán bộ, công chức tăng, cán bộ, công chức thực sự phấn khởi.
Thực hiện khoán chi hành chính trong thời gian gần đây: (2005-hiện nay).
Trước thực tế cần khắc phục những hạn chế, thiếu sót của quyết định 192 đó, nhà nước đã ban hành chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ và các Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTC-BNV ngày 17/01/2006, số 71/2007/TTLT-BTC-BNV ngày 26/6/2007 của Liên Bộ Tài chính - Bộ Nội vụ.
-Sau khi được ban hành, việc thực hiện theo nghị định 130/2005/NĐ-CP cho đến nay đã đem lại những kết quả nhất định.
Qua nhiều năm thực hiện, sự phù hợp và hiệu quả của cơ chế mới đã được khẳng định rõ rệt, đó là: Từng bước hạn chế tình trạng cơ quan chủ quản cấp trên can thiệp quá sâu vào công việc của cơ quan cấp dưới; sử dụng kinh phí đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu quả hơn, không còn tình trạng “chạy” kinh phí còn dư cuối năm để chi tiêu cho hết, mặc dù việc chi tiêu đó chưa thực sự cần thiết; thực hiện công khai dân chủ trong việc sử dụng kinh phí quản lý hành chính đã tạo sự đồng thuận cao trong đơn vị, đội ngũ cán bộ biên chế được đảm bảo hơn về cả số lượng và chất lượng…
Đến hết năm 2008, theo số liệu chưa đầy đủ đã có 22 Bộ, cơ quan ở trung ương triển khai chế độ tự chủ cho 100% các đơn vị trực thuộc, có 44 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện chế độ tự chủ cho 100% cơ quan, đơn vị thuộc cấp tỉnh …Năm 2008 thấy, các cơ quan thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm đã triển khai nhiều biện pháp để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và sử dụng kinh phí được giao đúng mục đích, có hiệu quả, một số cơ quan trung ương báo cáo có số tiết kiệm tương đối cao (đạt trên 10%) như: Bộ Ngoại giao đạt 26,67%; Kiểm toán Nhà nước đạt 19,86%; Bộ Công Thương đạt 14,22%; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đạt 10,97%; Bộ Thông tin và Truyền thông đạt 14,44%; …Nhờ nguồn kinh phí tiết kiệm, một số cơ quan đã có nguồn để chi tăng thu nhập cho cán bộ công chức như: Cục trợ giúp pháp lý Bộ Tư pháp là 2.516.000 đồng (0,6 lần), Bộ Ngoại giao là 1.830.000 …
Tuy nhiên qua quá trình thực hiện cơ chế tự chủ cũng cho thấy một số hạn chế nhất định trong công tác quản lý, sử dụng kinh phí của các cơ quan nhà nước và trong việc đánh giá hiệu quả quản l