Đề tài Tìm hiểu quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật

Ngày 09/6/2000 tại kỳ họp thứ 7 khóa X Quốc hội đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình mới – đây là đạo luật thứ ba trong vòng 40 năm qua về lĩnh vực hôn nhân và gia đình ở nước ta. Điều mới dễ nhận thấy nhất là quy mô của đạo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đạt mức độ hoàn chỉnh cao về dung lượng, nhắm tới việc đáp ứng đầy đủ hơn yêu cầu điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình trong giai đọan phát triển mới của đất nước

doc25 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2073 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Danh sách sinh viên nhóm 01 Lớp N05 STT MÃ SINH VIÊN HỌ VÀ TÊN Đánh giá của sinh viên SV ký tên A B C 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Nhóm trưởng: Lời mở đầu Ngày 09/6/2000 tại kỳ họp thứ 7 khóa X Quốc hội đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình mới – đây là đạo luật thứ ba trong vòng 40 năm qua về lĩnh vực hôn nhân và gia đình ở nước ta. Điều mới dễ nhận thấy nhất là quy mô của đạo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đạt mức độ hoàn chỉnh cao về dung lượng, nhắm tới việc đáp ứng đầy đủ hơn yêu cầu điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình trong giai đọan phát triển mới của đất nước. So với 10 điều liên quan trong Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950, 6 chương 35 điều của Luật Hôn nhân và gia đình 1959 và 10 chương 57 điều của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thì Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 với 13 chương và 111 điều đã có bước tiến rất lớn, đạt tầm vóc của một bộ luật. Đặc biệt có một số điểm mới nổi trội trong quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về việc hủy kết hôn trái pháp luật. Đây cũng là vấn đề mà chúng em muốn trình bày dưới đây: “Tìm hiểu quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật”. Do đây là một đề tài lớn và chúng em đã cố gắng trình bày vấn đề này một cách ngằn gọn, cô đọng nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô. Chúng em xin chân thành cảm ơn ! I. Khái niệm 1. Kết hôn trái pháp luật là gì? Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng có đăng kí kết hôn tại cơ quan đăng kí kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định, cụ thể là vi phạm một trong các quy định tại Điều 9, 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. 2. Thế nào là hủy kết hôn trái pháp luật? Hủy kết hôn trái pháp luật là biện pháp xử lý đối với những trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn nhằm bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh Luật hôn nhân và gia đình. II. Quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về hủy việc kết hôn trái pháp luật 1. Nguyên tắc xử lý đối với việc hủy kết hôn trái pháp luật Theo Điều 64 Hiến pháp 1992 quy định: “ Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình”. Hôn nhân chỉ được nhà nước thừa nhận khi việc xác lập quan hệ hôn nhân tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn: “Không ai bị buộc phải kết hôn, nhưng ai cũng bị buộc phải tuân theo luật hôn nhân một khi người đó kết hôn…hôn nhân không thể phục tùng sự tuỳ tiện của người kết hôn mà trái lại sự tuỳ tiện của người kết hôn phải phục tùng bản chất của hôn nhân”. Chính vì thế, Nhà nước không thừa nhận những trường hợp nam, nữ kết hôn mà không tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn nên hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp xử lý đối với những trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn nhằm đảm bảo sự chấp hành nghiêm chỉnh Luật hôn nhân và gia đình. Có thể nói đây là biện pháp chế tài của Luật hôn nhân và gia đình, thể hiện thái độ phủ định của Nhà nước đối với các trường hợp kết hôn trái pháp luật. Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “ Theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 15 của luật này, toà án xem xét và quyết định việc huỷ kết hôn trái pháp luật và gửi bản sao quyết định cho cơ quan đã thực hiện việc đăng kí kết hôn. Căn cứ quyết định của toà án, cơ quan đăng kí kết hôn xoá đăng kí kết hôn trong sổ đăng kí kết hôn”. Về nguyên tắc, việc kết hôn vi phạm một trong các điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 9 và Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình là trái pháp luật, khi có yêu cầu, toà án có quyền huỷ việc kết hôn trái pháp luật đó. Có thể nói rằng, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 bổ sung và đầy đủ hơn Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986. Nếu như trong luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 không có quy định về việc huỷ việc kết hôn trái pháp luật, đến năm 1986 trong Luật hôn nhân và gia đình tại Điều 9 có quy định về việc kết hôn trái pháp luật nhưng còn nhiều thiếu sót thì đến năm 2000 đã được pháp luật bổ sung từ điều kiện kết hôn đến những trường hợp cấm kết hôn và tại điều 15,16, 17 trong Luật hôn nhân và gia đình đã phân  chia cụ thể hơn với việc huỷ kết hôn trái pháp luật, bao gồm: Người có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật ( Điều 15), Huỷ việc kết hôn trái pháp luật ( Điều 16); Hậu quả pháp lý của việc kết hôn trái pháp luật, mà chúng ta sẽ được tìm hiểu rõ hơn nội dung dưới . Tuy nhiên, huỷ việc kết hôn trái pháp luật ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hai người kết hôn trái pháp luật và của con cái của họ. Vì vậy, khi xử lý các trưòng hợp kết hôn trái pháp luật, toà án phải điều tra làm rõ hành vi vi phạm điều kiện kết hôn, mức độ vi phạm và hoàn cảnh vi phạm, đặc biệt là phải xem xét và đánh giá thực chất mối quan hệ tình cảm giữa họ kể từ khi kết hôn cho đến khi toà án xem xét cuộc hôn nhân của họ để từ đó toà án có quyết định xử lý đúng đắn, đảm bảo “thấu lý, đạt tình”. 2. Căn cứ chung để xử hủy việc kết hôn trái pháp luật a. Chưa đến tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật mà nam nữ kết hôn Luật hôn nhân và gia đình quy định nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn: Nam bước sang tuổi hai mươi, nữ bước sang tuổi mười tám mà kết hôn thì coi như không vi phạm điều kiện kết hôn. Giải pháp này đã được chấp nhận ngay từ văn bản luật đầu tiên về hôn nhân và gia đình dưới chế độ xã hội chủ nghĩa (Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 Điều 6) và được giữ nguyên cho đến nay. Các lý lẽ của giải pháp chủ yếu mang tính y học: đối với người Việt Nam, sự phát triển thể chất đủ chín mùi cho việc thiết lập quan hệ hôn nhân thường được ghi nhận khi con người đạt độ tuổi đó (Ở Châu Âu các quy định về tuổi kết hôn tối thiểu không giống nhau tùy theo nước, dù thể trạng chung của con người thuộc các dân tộc Châu Âu không khác nhau lắm. Tuổi kết hôn tối thiểu ở Đức là 21 đối với nam và 16 đối với nữ, ở Thụy Sĩ là 20 và 18, ở Ý là 16 và 14 và ở Pháp là 18 và 15 ). Người làm luật quan tâm đến sự chín mùi về thể chất chứ không quan tâm đến khả năng sinh sản. Điều đó giải thích tại sao luật chỉ quy định giới hạn tối thiểu mà không có quy định giới hạn tối đa về tuổi kết hôn: người đã quá tuổi sinh sản tự nhiên vẫn có quyền kết hôn. Như vậy, khi nam nữ chưa đến tuổi kết hôn tức là nam chưa bước sang tuổi hai mười, nữ chưa bước sang tuổi mười tám mà kết hôn; đối với trường hợp này, tòa án có thể hủy việc kết hôn trái pháp luật đó. b. Thiếu sự tự nguyện của một trong hai bên hoặc của cả hai bên nam nữ khi kết hôn. Thiếu sự tự nguyện của nam nữ kết hôn là có hành vi cưỡng ép kết hôn, lừa dối để kết hôn - Cưỡng ép kết hôn: Cưỡng ép của bên kia hoặc của người thứ ba. Cưỡng ép kết hôn là hành vi buộc người khác phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 8 khoản 5). Điều luật nhắm chủ yếu vào việc đấu tranh chống tệ nạn cưới ép, gả ép trong các gia đình Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của các hủ tục phong kiến trong hôn nhân, cũng như của chế độ hôn nhân xếp đặt. Cần lưu ý rằng trong thực tiễn xét xử, thông thường cưỡng ép kết hôn được hiểu là hành vi của một người thứ ba chứ không phải của một hai trong bên kết hôn ( Theo Nghị quyết số 02 đã dẫn, người thứ ba có thể cưỡng ép một trong hai bên hoặc cả hai bên tiến hành kết hôn trái với nguyện vọng của họ. Ví dụ: bố mẹ của người nữ do nợ của người nam một khoản tiền nên cưỡng ép người nữ phải kết hôn với người nam để trừ nợ; bố mẹ của hai bên có hứa hẹn với nhau nên cưỡng ép con của họ phải kết hôn với nhau;...). Trong Nghị quyết số 02 đã dẫn còn có các ví dụ về ép buộc kết hôn bằng cách đe doạ dùng vũ lực, dùng vật chất. - Lừa dối để kết hôn: Luật hiện hành chỉ có định nghĩa chung về sự lừa dối, ghi nhận tại BLDS 2005 Điều 132 khoản 1và được áp dụng cho tất cả các giao dịch dân sự, không có định nghĩa riêng về sự lừa dối trong hôn nhân. Ta nói rằng lừa dối trong hôn nhân là việc một bên cố ý làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch để bên kia chấp nhận xác lập giao dịch kết hôn (Luật Việt Nam thời kỳ thuộc địa, chịu ảnh hưởng luật của Pháp, không thừa nhận lừa dối như là một trong những lý do để yêu cầu tuyên bố hôn nhân vô hiệu) là một trong hai người kết hôn đã nói sai sự thật về ngưới đó làm cho người kia tưởng lầm mà kết hôn hoặc một trong hai người kết hôn đã hứa hẹn sẽ làm việc có ích cho người kia làm người kia đồng ý kết hôn. Theo hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì có thể coi là hành vi lừa dối kết hôn khi một bên hứa là nếu kết hôn sẽ xin việc làm phù hợp, bảo lãnh ra nước ngoài, một bên không có khả năng sinh lý hoặc bị nhiễm HIV nhưng cố tình dấu… Cần phân biệt hành vi lừa dối để kết hôn với sự nhầm lẫn. Nếu một người chỉ nhầm lẫn về một yếu tố về người kia như: nhầm lẫn về nghề nghiệp, về địa vị công tác, về hoàn cảnh gia đình… thì không coi là thiếu sự tự nguyện khi kết hôn. Khác với luật của nhiều nước, luật Việt Nam hiện hành không coi sự nhầm lẫn như là một trong những lý do để yêu cầu tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Nếu do nhầm lẫn mà chấp nhận kết hôn, thì người nhầm lẫn có thể xin ly hôn. Nếu sự nhầm lẫn là do hệ quả của sự lừa dối, thì có thể yêu cầu huỷ hôn nhân trái pháp luật do có sự lừa dối. Sự tự nguyện của hai bên nam nữ kết hôn là nguyên tắc cơ bản xuyên suốt của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986 và 2000 nhằm xóa bỏ hoàn toàn chế độ hôn nhân cưỡng ép, lừa dối. Kết hôn là một quyền chứ không phải là nghĩa vụ. Vì vậy, về nguyên tắc phải đảm bảo không có hôn nhân ngoài ý muốn của người kết hôn. Đây là điều kiện hết sức quan trọng được pháp luật hầu hết các nước phát triền, văn minh trên thế giới ghi nhận để đảm bảo giá trị đích thực của hôn nhân. “Không có hôn nhân thì không có tự nguyện” (Điều 146, Bộ luật dân sự nước Cộng hòa Pháp) và cuộc sống gia đình chỉ thực sự có hạnh phúc khi được xây dựng trên cơ sở sự hòa hợp và tự nguyện của hai bên nam nữ. Và hơn hết, quy định về điều kiện kết hôn tại khoản 2 Điều 9 Bộ luật hôn nhân và gia đình năm 2000 phù hợp với tinh thần của Công ước Cedaw: “Quyền tự do như nhau được lựa chọn người kết hôn và chỉ kết hôn khi mình được tự do quyết định và hoàn toàn tự nguyện”. c. Người đang có vợ (có chồng) lại kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác Trên cơ sở Hiến pháp 1992 (Điều 64), Điều 1 Luật hôn nhân và gia đình 1959, 1986 và Điều 2 Luật hôn nhân và gia đình 2000, căn cứ trên là sự kế thừa và cụ thể hóa các nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình – nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Đó là quy định hết sức cần thiết, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ của Luật hôn nhân và gia đình là xóa bỏ chế độ hôn nhân phong kiến, xóa bỏ sự đối xử bất bình đẳng đối với người phụ nữ, xây dựng chế độ hôn nhân tiến bộ Xã hội chủ nghĩa. Theo quy định thì một người đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp thì không có quyền kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác. Nếu việc kết hôn vi phạm quy định này thì có căn cứ để Tòa án nhân dân xử hủy việc kết hôn đó. Cơ sở pháp lý để xác định một người đang có vợ, có chồng là dựa vào giấy chứng nhận kết hôn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp và giấy chứng nhận kết hôn đó phải đang có hiệu lực. Trong trường hợp nam nữ sống như vợ chồng tuy không có giấy chứng nhận kết hôn nhưng được công nhận là “Hôn nhân thực tế” thì các bên nam nữ cũng được coi là có vợ có chồng, do đó nếu một trong hai bên lại kết hôn với người khác thì việc kết hôn của họ được coi là vi phạm pháp luật. Tòa án có quyền hủy việc kết hôn trái pháp luật đó khi có yêu cầu. d. Người mất năng lực hành vi dân sự mà vẫn kết hôn Trước đây Luật hôn nhân và gia đình 1959 cấm kết hôn với người mắc bệnh “loạn óc” mà chưa chữa khỏi (Điều 10) và Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định cấm kết hôn đối với người đang mắc bệnh “tâm thần không có khả năng nhận thức hành vi của mình”, tuy nhiên đến Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã được sửa thành “cấm người mất năng lực hành vi dân sự” kết hôn. Sự thay đổi về thuật ngữ này phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự về năng lực hành vi dân sự của cá nhân nhưng nó lại thiếu tính thực tế. Bởi khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì không phải tất cả những người có quyền, lợi ích liên quan đều yêu cầu Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Song, điều đó không có nghĩa rằng luật thừa nhận quyền kết hôn cho người không nhận thức được hành vi của mình. Có thể suy nghĩ trong lôgic của sự việc: 1. Nếu người không nhận thức được hành vi của mình quyết định việc kết hôn trong lúc không nhận thức được hành vi của mình, thì việc kết hôn không có giá trị do sự ưng thuận không tồn tại. Thời điểm quyết định việc kết hôn hẳn cũng là thời điểm tiến hành lễ kết hôn trước viên chức hộ tịch. 2. Nếu người không nhận thức được hành vi của mình quyết định việc kết hôn trong lúc đang tỉnh táo, thì việc kết hôn có giá trị, dù, có thể sau đó, người này bị đặt trong tình trạng mất năng lực hành vi theo một quyết định của Toà án (nếu Toà án quyết định đặt người này trong tình trạng mất năng lực hành vi, thì vợ (chồng) trở thành giám hộ đương nhiên) Bên cạnh các bổ sung trên thì chúng ta không còn tìm thấy trong đạo luật mới quy định cấm người đang mắc bệnh hoa liễu. Về trường hợp bỏ cấm đoán kết hôn đối với người đang mắc bệnh hoa liễu (và chúng ta liên tưởng đến cả người nhiễm HIV-AIDS) có lẽ mang nhiều ý nghĩa nhân đạo. Bởi lẽ, những căn bệnh trên không thể là lý do để tước bỏ quyền kết hôn của công dân khi họ có tình yêu thương và thật sự tự nguyện chấp nhận cuộc sống lứa đôi trong hoàn cảnh bệnh tật khó khăn đó. Mặt khác, đối với y học ngày nay thì việc ngăn ngừa sự lây lan và chữa trị bệnh hoa liễu không còn là nan giải nữa e. Những người cùng dòng máu và trực hệ, những người có họ trong phạm vi ba đời hoặc từng có quan hệ thích thuộc kết hôn với nhau Về các trường hợp cấm kết hôn thì ngoài việc làm rõ thêm các quy định đã có, trong điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 còn thể hiện một sự điều chỉnh và bổ sung rất đáng kể so với luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986. Như tại khoản 4 Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, trong khi cụ thể hóa trường hợp cấm kết hôn giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi thì đã bổ sung thêm việc cấm kết hôn giữa “bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng”. Đây là bổ sung sáng suốt góp phần bảo vệ nền tảng đạo đức, sự trong sáng, lành mạnh và tôn ti trật tự trong quan hệ gia đình mang bản sắc luân lý đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Trong luật không có quy định trực tiếp cấm kết hôn giữa hai người là anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha cần được hiểu như thế nào? Những người này có liên hệ về huyết thống, do đó căn cứ đoạn 2, mục 3 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì họ thuộc diện có họ trong phạm vi ba đời, không được kết hôn với nhau. Hiểu như vậy là theo đúng lô-gíc: giữa những người có họ trong phạm vi ba đời (bao gồm trực hệ và bàng hệ) đều bị cấm kết hôn, trong đó anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha thuộc trường hợp không thể cho kết hôn với nhau được! Vấn đề kết hôn giữa con riêng của chồng và con riêng của vợ, giữa những người con nuôi hoặc giữa con đẻ với con nuôi trong một gia đình chưa từng được dự liệu trong các đạo luật hôn nhân và gia đình của chúng ta nhưng là một thực tế cần quan tâm. Các chủ thể trên là anh chị em trong gia đình, nhưng giữa họ lại không có quan hệ huyết thống và không có quan hệ họ hàng, vậy nếu phát sinh việc kết hôn với nhau thì giải quyết ra sao? Về mặt đạo đức chúng ta không thể hoặc khó chấp nhận con riêng của vợ với con riêng của chồng, các người con nuôi của cùng cha mẹ nuôi hoặc con đẻ với con nuôi kết hôn với nhau, mặc dù về huyết thống không có ảnh hưởng tiêu cực cho nòi giống. g. Hai người cùng giới kết hôn với nhau Đối với một vấn đề gây tranh cãi và đang có những cách giải quyết khác nhau trên thế giới việc kết hôn của những người cùng giới tính thì thái độ của các nhà lập pháp Việt Nam thể hiện trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 là dứt khoát: cấm kết hôn giữa hai người cùng giới kết hôn (khoản 5, Điều 10).Việc cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính chỉ được chính thức ghi nhận trong luật viết từ khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên, trong tục lệ truyền thống, hôn nhân giữa những người cùng giới tính không bao giờ được thừa nhận ở Việt Nam. Trong điều kiện các luật hôn nhân và gia đình trước đây quy định chưa chặt chẽ ở điểm này, tục lệ thường xuyên can thiệp thông qua dư luận để ngăn chặn các quan hệ như vợ chồng giữa những người cùng giới tính hoặc để tạo sức ép đối với những người cùng giới tính nhằm chấm dứt việc duy trì quan hệ như vợ chồng giữa họ. Ở nước ta quan hệ đồng giới tính là một hiện tượng không mới nhưng hiện nay lại đang nổi lên khá công khai, nhất là trong cư dân đô thị. Về lâu dài, thiết tưởng cần có sự tìm hiểu, thống kê và nghiên cứu đầy đủ với thái độ tôn trọng và cảm thông để áp dụng những giải pháp, pháp luật thỏa đáng hơn cho vấn đề hôn nhân đồng giới. 3. Người có quyền yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “1. Bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu tòa án hoặc đề nghị viện kiểm sát yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 9 của Luật này. 2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này. 3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu tòa án hoặc đề nghị viện kiểm sát yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này: a. Vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn; b. Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; c. Hội liên hiệp phụ nữ. 4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị viện kiểm sát xem xét, yêu”. Các cá nhân có quyền yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật là: bên bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối kết hôn; vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn. Đây là những người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ trực tiếp bị xâm phạm do việc kết hôn trái pháp luật. Do đó, pháp luật quy định họ có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật. Quyền yêu cầu của các cơ quan, tổ chức nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong việc đấu tranh bảo vệ pháp luật và bảo vệ quyền lợi các thành viên của tổ chức mình. Pháp luật quy định cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật còn nhằm bảo đảm việc xét xử đối với việc kết hôn trái pháp luật vẫn được tiến hành khi các cá nhân không yêu cầu. Tòa án nhân dân sau khi nhận được đơn khởi kiện yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật phải tiến hành điều tra, xác minh làm rõ hành vi vi phạm các điều kiện kết hôn của nam nữ và xem xét mối quan hệ tình cảm giữa họ. Theo quy định tại Điều 181 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì khi giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, tòa án không được tiến hành hòa giải. Khi tòa án nhân dân xét xử, các nhân, cơ quan, tổ chức đã yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật phải có mặt tại phiên tòa (khoản 1 Điều 199 Bộ luật tố tụng dân sự 2004) để cung cấp những chứng cứ cần thiết giúp tòa án làm sáng tỏ vụ việc và có quyết định chính xác. Đồng thời, các cơ quan, đoàn thể này cũng có quyền kháng cáo, kháng nghị đối với bản án hay quyết định của tòa án nhân dân. Nếu các cá nhân, cơ quan, tổ chức này vắng mặt lần thứ hai thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án thì cá nhân, cơ quan, tổ chức đã khởi kiện có quyền khởi kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn. 4. Đường lồi xử lý cụ thể các trường