Trong công cuộc đổi mới đất nước một cách toàn diện, Đảng và Nhà nước ta
đã nhất quán thực hiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà
nước. Trong điều kiện một đất nước nông nghiệp, 80% dân số là nông dân, muốn
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước trong những năm trước mắt phải hướng về nông nghiệp, nông dân và
nông thôn. Chính vì thế Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Đặc biệt coi trọng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn” [26; tr 24].
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong cả nước nói
chung và ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng là một việc làm hết sức khó khăn,
phức tạp, một mặt do điều kiện kinh tế - xã hội, mặt khác do tâm lý sản xuất nhỏ của
người nông dân quy định.
Việc khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ, tác phong, nếp sống, nếp nghĩ lạc hậu gắn
liền với nền sản xuất nhỏ là rất cần thiết và là việc làm cực kỳ khó khăn, gian khổ.
Nhưng chính việc ấy lại đưa lại hiệu quả to lớn cho việc xây dựng xã hội mới. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nói: Những thói quen, nếp nghĩ, truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to,
nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ, nên cần cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất
chịu khó, lâu dài [19; tr 25].
Vì vậy, việc tìm hiểu tâm lý của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long là
nhiệm vụ cấp thiết, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.
71 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2106 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu tâm lý của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
tìm hiểu tâm lý của người nông dân đồng
bằng sông Cửu Long
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới đất nước một cách toàn diện, Đảng và Nhà nước ta
đã nhất quán thực hiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà
nước. Trong điều kiện một đất nước nông nghiệp, 80% dân số là nông dân, muốn
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước trong những năm trước mắt phải hướng về nông nghiệp, nông dân và
nông thôn. Chính vì thế Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Đặc biệt coi trọng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn” [26; tr 24].
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong cả nước nói
chung và ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng là một việc làm hết sức khó khăn,
phức tạp, một mặt do điều kiện kinh tế - xã hội, mặt khác do tâm lý sản xuất nhỏ của
người nông dân quy định.
Việc khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ, tác phong, nếp sống, nếp nghĩ lạc hậu gắn
liền với nền sản xuất nhỏ là rất cần thiết và là việc làm cực kỳ khó khăn, gian khổ.
Nhưng chính việc ấy lại đưa lại hiệu quả to lớn cho việc xây dựng xã hội mới. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nói: Những thói quen, nếp nghĩ, truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to,
nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ, nên cần cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất
chịu khó, lâu dài [19; tr 25].
Vì vậy, việc tìm hiểu tâm lý của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long là
nhiệm vụ cấp thiết, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu vấn đề tâm
lý sản xuất nhỏ. Nhưng mới dừng lại ở từng khía cạnh tâm lý người nông dân nông
thôn miền Bắc, miền Trung. Việc tìm hiểu tâm lý người nông dân đồng bằng sông
Cửu Long thì chưa có công trình nào đề cập tới, có chăng chỉ là những bài viết mang
tính khái quát ở một mặt nào đó của tâm lý người nông dân vùng đất mới.
3. Giới hạn của luận văn
Luận văn nghiên cứu tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long với tư
cách là một bộ phận của ý thức xã hội, nhưng chủ yếu tập trung nghiên cứu, tìm ra
những biểu hiện đặc thù của tâm lý, trên cơ sở khảo sát ở một số tỉnh thuộc đồng bằng
sông Cửu Long (chủ yếu trên địa bàn tỉnh Kiên Giang).
4. Mục đích và nhiệm vụ.
- Xác định những đặc điểm của tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu
Long qua khảo sát ở Kiên Giang và nêu một số giải pháp chủ yếu để phát huy tính
tích cực, khắc phục biểu hiện tâm lý tiêu cực của người nông dân đồng bằng sông
Cửu Long.
- Để thực hiện mục đích trên luận văn thực hiện những nhiệm vụ dưới đây:
+ Phân tích những điều kiện hình thành tâm lý người nông dân đồng bằng
sông Cửu Long.
+ Tìm hiểu đặc điểm tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long và sự
biến đổi của nó qua các thời kỳ lịch sử.
+ Nêu lên một số biện pháp nhằm phát huy những tâm lý tích cực và hạn chế
tâm lý tiêu cực của tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận:
+ Luận văn dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các văn kiện của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực tư tưởng, ý thức xã hội.
+ Luận văn có tham khảo các công trình trong và ngoài nước có liên quan
đến đề tài.
- Phương pháp: Trong luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp, phân
tích tổng hợp, lịch sử, logíc, phương pháp điều tra xã hội học ở một số địa phương
huyện, thị trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
6. Cái mới của luận văn
- Nêu lên sự biến đổi của tâm lý nông dân đồng bằng sông Cửu Long qua các
thời kỳ lịch sử.
- Chỉ ra những mặt tích cực và những biểu hiện tiêu cực mang tính đặc thù
của tâm lý nông dân đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.
- Nêu lên một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế mặt
tiêu cực của tâm lý nông dân đồng bằng sông Cửu Long.
7. ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu giảng dạy
những vấn đề ý thức xã hội nói chung và các vấn đề về tâm lý của người nông dân
nói riêng.
- Giúp cấp ủy địa phương góp phần hoạch định chính sách đối với nông dân
trong vùng. Mặt khác cũng giúp Đảng, chính quyền Nhà nước tìm ra những phương
thức giáo dục nhằm hạn chế những biểu hiện tiêu cực đối với một bộ phận cán bộ
chủ chốt ở cơ sở có nguồn gốc xuất thân từ nông dân.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
Vấn đề tâm lý và những yếu tố tác động
đến việc hình thành tâm lý người nông dân
đồng bằng sông Cửu Long
1.1. Tâm lý nông dân
1.1.1. Tâm lý cộng đồng và đời sống tinh thần của xã hội
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác, đời sống xã hội được
chia thành đời sống vật chất và đời sống tinh thần, trong đó đời sống tinh thần được
nảy sinh trên cơ sở đời sống vật chất, và là sự phản ánh đời sống vật chất. Mác viết:
không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của nó, trái lại, chính tồn tại xã
hội của họ quyết định ý thức của họ [16; tr 78]. Trong ý thức xã hội, tâm lý xã hội và
hệ tư tưởng là hai bộ phận chủ yếu cấu thành nội dung của nó. Cả tâm lý xã hội và hệ
tư tưởng đều do tồn tại xã hội quyết định, đều là sự phản ánh tồn tại xã hội nhưng sự
phản ánh đó ở những trình độ khác nhau. Tâm lý xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội
ở trình độ thấp, ở dạng ý thức thông thường còn hệ tư tưởng là sự phản ánh trình độ
cao, ở dạng ý thức lý luận.
So với tâm lý xã hội, hệ tư tưởng ở trình độ cao hơn nhưng không phải nảy
sinh tự phát từ tâm lý xã hội. Nó là kết quả phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật
chất, những quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp trong xã hội bằng khái quát lý luận
trên cơ sở những tư liệu đã có từ trước. Nó chính là những tư tưởng, quan điểm đã
được hệ thống hóa thành lý luận, thành các học thuyết khác nhau về chính trị xã hội,
đại diện cho lợi ích của các giai cấp nhất định.
Giữa hệ tư tưởng và tâm lý xã hội có sự khác nhau về sự hình thành, hệ tư
tưởng hình thành một cách tự giác, còn tâm lý xã hội là toàn bộ những tình cảm,
những tâm trạng, xúc cảm... của con người được hình thành tự phát dưới ảnh hưởng
trực tiếp của những điều kiện sinh sống hàng ngày.
Trong xã hội có giai cấp, tâm lý xã hội mang tính giai cấp, những giai cấp
khác nhau có sự khác nhau về tâm lý. Sự khác nhau đó xuất phát từ sự khác biệt về
lợi ích của họ. Chủ nghĩa Mác không phủ nhận tính chất phổ biến của tâm lý xã hội,
bởi vì, tính phổ biến ấy không những không xóa bỏ tính giai cấp mà nhiều lúc còn
tồn tại như tầng sâu của tính giai cấp.
Tâm lý xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội. Do đó, khi tồn tại xã hội thay
đổi, tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi của nó. Song, thực tế đã chứng minh rằng tâm lý
xã hội có sức bền vững, tính ỳ rất lớn. Nó có thể tồn tại ngay khi cơ sở kinh tế - xã
hội đã bị thay đổi. Để khắc phục những nét tâm lý cũ, lạc hậu, Lênin đã chỉ rõ:
“nhiệm vụ cơ bản của các cán bộ làm công tác giáo dục và của Đảng cộng sản - đội
tiền phong trong cuộc đấu tranh là phải giúp đỡ việc rèn luyện và giáo dục quần
chúng lao động để khắc phục những thói quen cũ, những tập quán cũ do chế độ cũ để
lại" [9; tr 474].
Tâm lý cộng đồng là một bộ phận của đời sống tinh thần cộng đồng và thuộc
lĩnh vực ý thức xã hội. Với tư cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, tâm lý con người trở
thành yếu tố cơ bản và biểu thị cho sự tiến bộ xã hội. Hơn nữa, bản chất con người là
tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Thông qua giao tiếp, thông qua tiếp thu các giá trị
văn hóa tinh thần của cộng đồng mà mỗi cá nhân hình thành cho mình một hệ ý thức
về quan hệ.
Thông qua giao tiếp, con người tiếp thu và sáng tạo ra các giá trị văn hóa.
Nghiên cứu sự giao tiếp giữa con người với con người trong cộng đồng, chúng ta
thấy có hai yếu tố tác động vào sự phát triển của văn hóa; tính khép kín và tính mở
rộng. Con người có thể giao tiếp trong phạm vi một cộng đồng khép kín nào đó hoặc
cũng có thể sự giao tiếp được mở rộng sang cộng đồng khác. Hoạt động giao tiếp
không chỉ nhằm tái sản xuất ra cá nhân con người mà còn hình thành nên tâm lý và
lối sống của họ.
Phương thức giao tiếp, cách thức hoạt động trong cộng đồng bị chi phối bởi
những yếu tố “vật chất” tức là các điều kiện kinh tế - xã hội, địa lý, khí hậu của từng
vùng mà cộng đồng đó tồn tại [13; tr 20]. Vì vậy, phương thức giao tiếp, cũng như
cách thức hoạt động đã để lại những dấu ấn tâm lý chung cho mỗi cộng đồng người.
Từ đó cho chúng ta thấy, tâm lý cộng đồng như một tấm gương phản ánh những điều
kiện sống mà con người đang tồn tại và phát triển. Việc nghiên cứu điều kiện địa lý
tự nhiên, kinh tế - xã hội cũng cho ta thấy những yếu tố đặc trưng trong tâm lý của
mọi cộng đồng. Nói một cách khác, tâm lý cộng đồng được hình thành trong lịch sử
như một bộ phận của ý thức xã hội và tâm lý đó bị chi phối bởi cả những yếu tố bên
trong và bên ngoài cộng đồng.
Tâm lý cộng đồng của nông dân đồng bằng sông Cửu Long cũng như các
vùng dân cư khác đều vận động và phát triển theo một số quy luật chủ yếu dưới đây:
Thứ nhất, Tâm lý cộng đồng phát triển trong sự phụ thuộc và tác động tích
cực đến đời sống vật chất của xã hội.
Tâm lý cộng đồng được hình thành trong đời sống tinh thần của con người và
bị tác động của cả những yếu tố bên ngoài, song sự tác động về kinh tế là tác động
mạnh nhất và quyết định nhất. Con người là chủ thể sáng tạo ra các giá trị văn hóa
trong đó có tâm lý cộng đồng. Những con người hiện thực đang hành động theo các
quy luật kinh tế và chịu sự chi phối bởi sự phát triển nhất định của một trình độ lực
lượng sản xuất. Sự giao tiếp giữa các cá nhân trong cộng đồng phải phù hợp với sự
phát triển ấy, với quá trình sản sinh ra các giá trị vật chất và các giá trị tinh thần để
thỏa mãn các nhu cầu của mình. Sản xuất ra các giá trị tinh thần chỉ có thể được nhờ
các phương tiện vật chất. Con người giao tiếp với nhau trước hết để trao đổi các giá
trị vật chất và thông qua đó con người sáng tạo ra các giá trị tinh thần. Vì vậy,
phương thức sản xuất và đời sống vật chất quyết định quá trình sáng tạo ra các giá trị
văn hóa tinh thần. Tuy nhiên tâm lý cộng đồng với tư cách là một hệ thống mở và
nhạy cảm không hoàn toàn phụ thuộc vào các phương thức sản xuất; nó có sự vận
động và phát triển nội sinh, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của yếu tố ngoại sinh.
Mặt khác, đến lượt nó, tâm lý cộng đồng lại có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của
lực lượng sản xuất.
Thứ hai, Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác đã chứng minh và kiểm nghiệm
mối quan hệ phụ thuộc của tâm lý cộng đồng và đời sống tinh thần của xã hội, thông
qua việc khẳng định sự kế thừa có chọn lọc các giá trị truyền thống.
Kế thừa những mặt tích cực và loại bỏ những mặt tiêu cực trong các giá trị
văn hóa truyền thống là nét đặc trưng nhất trong quá trình hình thành và phát triển
tâm lý cộng đồng. Quá trình chuyển tiếp từ xã hội này sang xã hội khác làm thay
đổi lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và cả hệ thống chính trị, nhưng những yếu
tố tâm lý lại tỏ ra bền vững hơn vì nó có sự kế thừa tâm lý cộng đồng và bao hàm cả
việc phê phán các yếu tố tinh thần đã lạc hậu, đồng thời khắc phục những mặt hạn
chế tồn tại của nó. Sự giao lưu giữa cá nhân trong cộng đồng người mang bản chất
xã hội - lịch sử đã tạo ra những nếp nghĩ, những tình cảm, thói quen. Chính những
hiện tượng tâm lý đó khi ăn sâu vào tiềm thức con người, nó có thể biến thành một
sức mạnh vật chất. Vì vậy, những biểu hiện tâm lý bên cạnh sự di truyền sinh học
còn có di sản xã hội, tức là khả năng chuyển tâm lý cộng đồng vào mỗi cá nhân. Di
sản này bao giờ cũng phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội.
Thứ ba, Cùng với những quy luật trên, tâm lý cộng đồng phát triển trong sự
tác động qua lại giữa các cá nhân, các lĩnh vực của đời sống xã hội và sự giao lưu
giữa các nền văn hóa [14; tr 14].
Sự phát triển của tâm lý cộng đồng bị ảnh hưởng bởi sự tác động qua lại lẫn
nhau giữa các lĩnh vực trong đời sống xã hội [23; tr 11].
Sự giao lưu giữa các vùng lãnh thổ, các miền, các nền văn hóa cũng ảnh
hưởng rất lớn đến yếu tố tâm lý. Chẳng hạn, khi được tiếp xúc với một nền văn hóa
mới, khác lạ, con người có điều kiện so sánh và từ đó đánh giá lại những giá trị văn
hóa của mình để thấy được những khác biệt và tương đồng giữa văn hóa của mình và
văn hóa thế giới, cũng như văn hóa của vùng này với văn hóa của vùng khác. Sự
tương tác giữa các lĩnh vực và những ảnh hưởng của bên ngoài không phải lúc nào
cũng có thể làm thay đổi bản sắc tâm lý cộng đồng, song nó có thể giúp con người có
một tấm gương để nhìn kỹ lại mình, từ đó thấy rõ mình hơn.
Như vậy, tâm lý cá nhân hay tâm lý cộng đồng cũng đều là sự phản ánh hiện
thực khách quan, đặc biệt là sự giao tiếp giữa con người với con người. Đồng thời nó
chịu sự chi phối của hàng loạt các yếu tố bên ngoài mà trước hết là đời sống lao động
của mỗi người và cộng đồng.
1.1.2. Tâm lý nông dân
Tâm lý là sản phẩm của sự tác động qua lại bằng tín hiệu của hệ thống hữu
sinh. Khi nói đến bản chất của tâm lý, cần phân biệt khái niệm triết học của nó với
khái niệm khoa học cụ thể của nó. Khái niệm triết học của tâm lý gắn với vấn đề cơ
bản của triết học. Về mặt này khái niệm tâm lý cùng loại với khái niệm nhận thức
luận, “ý thức”, “tư duy”, “nhận thức”, “lý tính”, “ý niệm”, tinh thần [23; tr 518] và
được chủ nghĩa duy vật biện chứng coi như là thuộc tính đặc biệt của vật chất có tổ
chức cao. Đó là sự phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, tâm lý xã hội phản ánh tồn tại
xã hội. Tồn tại xã hội bao gồm ba yếu tố cấu thành (phương thức sản xuất, hoàn cảnh
địa lý, dân số) trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất. Do đó, ở một
khía cạnh cụ thể, có thể nói tâm lý xã hội là sự phản ánh trực tiếp những đặc điểm
của nền sản xuất xã hội ở giai đoạn lịch sử nhất định. Với những nước mà ở đó, nền
sản xuất nhỏ giữ vai trò chủ đạo thì tất yếu sẽ hình thành tâm lý sản xuất nhỏ - một
dạng tâm lý xã hội được nảy sinh, hình thành từ sự phản ánh những đặc điểm của
nền sản xuất nhỏ đó.
Khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội loài người, là lịch sử phát triển
của các phương thức sản xuất, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề
cập đến loại hình sản xuất nhỏ, đặc biệt khi các ông phân tích sản xuất Châu á và xã
hội tiền tư bản. Trong các tác phẩm kinh điển, khái niệm “sản xuất nhỏ” nhiều khi
được thay thế bởi các khái niệm “kinh tế tự nhiên”, "kinh tế gia trưởng”, "sản xuất
hàng hóa giản đơn”, “kinh tế tiểu nông”, “sản xuất hàng hóa nhỏ”...
Theo Mác: “Tiền đề của phương thức sản xuất của những người sản xuất nhỏ
độc lập, làm việc cho bản thân, là ruộng đất thì chia manh mún, các tư liệu sản xuất
thì phân tán [15; tr 287].
Trong tác phẩm Chống Đuy Rinh, khi bàn về các nền sản xuất có trước chủ
nghĩa tư bản, Ăngghen viết: “Trước khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện, tức
là trong thời trung cổ, ở đâu người ta cũng chỉ thấy toàn là nền sản xuất nhỏ, dựa
trên cơ sở quyền tư hữu của những người lao động về tư liệu sản xuất của mình như:
nông nghiệp của người tiểu nông tự do hay nông nô, thủ công nghiệp ở thành thị. Các
tư liệu lao động - như ruộng đất, nông cụ, xưởng thợ, dụng cụ của người thợ thủ công
- đều là những tư liệu lao động của cá nhân, chỉ tính toán cho vừa với việc sử dụng
cá nhân. Cho nên, những tư liệu ấy tất nhiên là vụn vặt, rất nhỏ bé và có hạn [18; tr
448, 449].
Từ ý kiến của Mác và Ăngghen như đã nêu trên, chúng ta thấy cơ sở của nền
sản xuất nhỏ là quyền chiếm hữu những tư liệu sản xuất nhỏ bé, vụn vặt. Về điểm này,
Mác đã nêu trong bộ Tư bản: “Quyền tư hữu của người lao động đối với những tư liệu
dùng vào hoạt động sản xuất của mình là cơ sở của nền kinh doanh nông nghiệp nhỏ
hoặc thủ công nghiệp nhỏ" [15; tr 286].
Lênin cũng chú ý đến đặc trưng của sản xuất nhỏ, Người viết: “Quyền tư hữu
của nông dân đối với ruộng đất mà anh ta cày cấy là cơ sở của sản xuất nhỏ, là điều
kiện cho nền sản xuất nhỏ ấy được phồn thịnh và đạt tới một hình thái điển hình” [11;
tr 34].
Như vậy theo quan niệm của Mác, Ăngghen và Lênin, tâm lý sản xuất nhỏ
bao gồm tâm lý nông dân. Hơn nữa, tâm lý xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội mà
tồn tại xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử cơ bản là nền sản xuất của xã hội đó. Trong
điều kiện của nền sản xuất đó, người nông dân muốn tồn tại phải tiến hành sản xuất
để tạo ra những sản phẩm cho nhu cầu tiêu dùng của mình. Quá trình đó, đã nảy sinh
những biểu hiện tâm lý tốt đẹp, nhưng mặt khác, từ nền sản xuất nhỏ cũng làm nảy
sinh những mặt tâm lý tiêu cực của người nông dân làm cản trở quá trình xây dựng
xã hội mới. Do vậy, xét về nguyên tắc, trong quá trình xây dựng xã hội mới, chúng ta
phải luôn luôn kế thừa và phát triển những yếu tố tích cực của cái đã qua, đồng thời
phải xóa bỏ và khắc phục những yếu tố tiêu cực đang cản trở sự ra đời của xã hội
mới.
Như trên ta đã khẳng định sản xuất nhỏ đồng thời cũng là cơ sở để từ đó hình
thành tâm lý nông dân, tâm lý tiểu tư sản. Tuy vậy, tâm lý sản xuất nhỏ và tâm lý
nông dân không hoàn toàn thống nhất, mà giữa chúng chỉ có những điểm tương đồng.
Khi ta nói tâm lý nông dân, tâm lý tiểu tư sản là ta chủ yếu đi vào xét ở khía cạnh giai
cấp, nhấn mạnh mặt giai cấp của vấn đề. Chẳng hạn, khi ta nói tâm lý nông dân là nói
tâm lý của một giai cấp gắn liền với những điều kiện lao động sản xuất nông
nghiệp, nông thôn. Sản xuất nông nghiệp ở nước ta mang tính chất của một nền sản
xuất nhỏ, những tính chất sản xuất nhỏ ấy cũng thể hiện ở sản xuất tiểu thủ công
nghiệp.
Tâm lý sản xuất nhỏ được chú ý ở các biểu hiện đặc trưng gắn với những
điều kiện lao động của nền sản xuất nhỏ nói chung.
ở nước ta hiện nay, nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ. Những biểu hiện đó
có thể thấy được rất rõ trong những thói quen, suy nghĩ, tình cảm, hành động, trong
lối sống của các cá nhân, trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội... Tuy
nhiên, trong phạm vi của luận văn này chúng tôi chỉ tập trung phân tích những biểu
hiện đặc thù của tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long, qua việc khảo sát
tại tỉnh Kiên Giang, một tỉnh có thế mạnh nông nghiệp vào loại hàng đầu của khu
vực.
1.2. Cơ sở hình thành tâm lý của người nông dân đồng bằng sông Cửu
Long
1.2.1. Tác động của những yếu tố địa lý, khí hậu
Chủ nghĩa Mác cho rằng cơ cấu tâm lý của một cộng đồng xã hội phụ thuộc
vào cơ cấu kinh tế, là sự phản ánh kinh tế. Song không thể nhìn đơn giản, máy móc,
suy diễn tâm lý một cách phiến diện, bắt nguồn một cách trực tiếp từ kinh tế. Tâm lý
phản ánh kinh tế qua rất nhiều khâu trung gian như điều kiện địa lý, hệ thống chính
trị, đạo đức xã hội, tôn giáo, văn hóa.. [23; tr 26]. Tâm lý sản xuất nhỏ vừa là tàn dư
của quá khứ do xã hội cũ để lại, vừa là sản phẩm hiện tại của tồn tại xã hội, vì vậy
muốn hiểu rõ tâm lý người nông dân đồng bằng sông Cửu Long trước hết phải xem
xét những điều kiện cơ bản ảnh hưởng của nó.
Điều kiện địa lý tự nhiên đồng bằng sông Cửu Long có những nét đặc thù.
Do lịch sử kiến tạo về cấu trúc, đồng bằng sông Cửu Long gồm ba bộ phận chính, rìa
phía đông là dãy phù sa giáp với miền cao đông Nam bộ, ở giữa là một bộ phận phù
sa mới nổi lên giữa sông Tiền và sông Hậu. Đất đai ở đây nhiều màu mỡ, có thể trồng
trọt quanh năm. Phía sau là miền đất trũng Đồng Tháp Mười với độ chua mặn trung
bình và nay đang trong quá trình được cải tạo. Khí hậu đồng bằng sông Cửu Long
mang tính chất cận xích đạo và thể hiện rõ ảnh hưởng của hệ thống hoàn lưu Tây
Nam từ ấn Độ Dương tới. Nhiệt độ trung bình hàng tháng ở khu vực đồng bằng sông
Cửu Long vừ