Việt Nam có hơn 3200km bờ biển, nước ta là một quốc gia ven biển, chịu tác động mạnh mẽ, trực tiếp từ các chiến lược khai thác biển của các nước trên thế giới và nhất là của các nước trong khu vực. Trong thế kỷ 21 - thế kỷ của Biển. Các dân tộc đua nhau ra biển, giành giật lợi ích từ biển. Các quốc gia có biển đều xây dựng chiến lược khai thác biển cho mình.
Biển Đông liên hệ đến sự sống còn của dân ta. Các nguồn tài nguyên và môi trường biển và vùng bờ của đất nước có tầm quan trọng trực tiếp đối với hàng chục triệu người dân nông thôn, đặc biệt đối với hơn 17 triệu dân sống ở các huyện ven biển và các đảo ven bờ. Cho nên, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực bảo vệ và quản lý vùng bờ theo hướng hiệu quả và bền vững, với quan điểm là "nguồn lợi biển và tài nguyên bờ phải được sử dụng dài lâu " vừa thoả mãn được nhu cầu kinh tế trước mắt trong sức chống chịu của các hệ sinh thái, vừa duy trì được nguồn tài nguyên cho các thế hệ mai sau.
13 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 4926 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu vấn đề khai thác tài nguyên khoáng sản ở biển Đông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………………………………..…2
PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………………...….3
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN………………………………………………...….3
KHOÁNG SẢN…………………………………………………………….3
Khái niệm khoáng sản……………………………………………...….. 3
Phân loại khoáng sản……………………………………………………3
KHÁI QUÁT BIỂN ĐÔNG………………………………………………..4
TIỀM NĂNG KHOÁNG SẢN BIỂN ĐÔNG……………………………..4
Các nhân tố hình thành khoáng sản biển Đông…………………………4
Tiềm năng khoáng sản biển Đông……………………………………....5
CHƯƠNG II. HIỆN TRẠNG KHAI THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN…....9
Khai thác tài nguyên rắn………………………………………………….....9
Khai thác tài nguyên dầu khí…………………………………………….….9
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP KHAI THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN….…11
PHẦN KẾT LUẬN……………………………………………………………….13
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam có hơn 3200km bờ biển, nước ta là một quốc gia ven biển, chịu tác động mạnh mẽ, trực tiếp từ các chiến lược khai thác biển của các nước trên thế giới và nhất là của các nước trong khu vực. Trong thế kỷ 21 - thế kỷ của Biển. Các dân tộc đua nhau ra biển, giành giật lợi ích từ biển. Các quốc gia có biển đều xây dựng chiến lược khai thác biển cho mình.
Biển Đông liên hệ đến sự sống còn của dân ta. Các nguồn tài nguyên và môi trường biển và vùng bờ của đất nước có tầm quan trọng trực tiếp đối với hàng chục triệu người dân nông thôn, đặc biệt đối với hơn 17 triệu dân sống ở các huyện ven biển và các đảo ven bờ. Cho nên, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực bảo vệ và quản lý vùng bờ theo hướng hiệu quả và bền vững, với quan điểm là "nguồn lợi biển và tài nguyên bờ phải được sử dụng dài lâu " vừa thoả mãn được nhu cầu kinh tế trước mắt trong sức chống chịu của các hệ sinh thái, vừa duy trì được nguồn tài nguyên cho các thế hệ mai sau.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
KHOÁNG SẢN
Khái niệm:
- Khoáng sản là thành tạo khoáng vật của lớp vỏ Trái Đất, mà thành phần hóa học và các tính chất vật lý của chúng cho phép sử dụng chúng có hiệu quả và lợi ích trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất của nền kinh tế quốc dân
- Tài nguyên khoáng sản là tích tụ vật chất dưới dạng hợp chất hoặc đơn chất trong vỏ trái đất, mà ở điều kiện hiện tại con người có đủ khả năng lấy ra các nguyên tố có ích hoặc sử dụng trực tiếp chúng trong đời sống hàng ngày.
2. Phân loại khoáng sản:
2.1 .Theo dạng tồn tại: Rắn, khí (khí đốt, Acgon, He), lỏng (Hg, dầu, nước khoáng). 2.2. Theo nguồn gốc: Nội sinh (sinh ra trong lòng trái đất), ngoại sinh (sinh ra trên bề mặt trái đất).
2.3. Theo thành phần hoá học: Khoáng sản kim loại (kim loại đen, kim loại màu, kim loại quý hiếm), khoáng sản phi kim (vật liệu khoáng, đá quý, vật liệu xây dựng), khoáng sản cháy (than, dầu, khí đốt, đá cháy).
2.4. Theo mục đích và công dụng: Khoáng sản nhiên liệu hay nhiên liệu hóa thạch ,khoáng sản phi kim:, khoáng sản kim loại hay quặng, nguyên liệu đá màu, thủy khoáng, nguyên liệu khoáng-hóa.
II. KHÁI QUÁT VỀ BIỂN ĐÔNG
Biển Đông là biển ven lục địa, ở trung tâm Đông Nam Á, thuộc bờ Tây Thái Bình Dương.Phía Bắc giáp Hoa Nam và Đông Hải của TQ; phía Tây là bờ lục địa ĐNÁ, bao gồm lãnh thổ các nước VN, CPC, Thái Lan, Malaysia, Singapore
Biển Đông được bao bọc bởi lục địa Trung Quốc, bán đảo Đông Dương,
lục địa Thái Lan và các quần đảo Malaysia, Indonesia, Philippines nên được xem như một biển kín với hai vịnh lớn là vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan
Biển Đông là một trong những biển rìa lớn nhất của Thái Bình Dương có các số đo như sau:
- Diện tích khoảng 3,4 triệu km2,
- Thể tích 3,928 triệu km3,
- Độ sâu trung bình 1.140 m, vực sâu nhất 5.016 m thuộc rìa lục địa Philippines. Ranh giới phía Đông Bắc là đường nối điểm cực Bắc đảo Đài Loan kéo vào bờ Trung Quốc, ranh giới phía Nam là khối nâng giữa các đảo Sumantra và Calimantan ở khoảng 3o05'S (theo Phòng Thuỷ đạc quốc tế).
III. TIỀM NĂNG KHOÁNG SẢN BIỂN ĐÔNG
Các nhân tố hình thành khoáng sản ở biển Đông:
1.1. Vị trí địa lí : Biển Đông nằm trên 2 vành đai sinh khoáng châu Á Thái Bình Dường và Địa Trung Hải (do lắng động trầm tích + vận động kiến tạo) => Tài nguyên khoáng sản phong phú.
1.2. Đặc điểm cấu tạo địa chất của biển Đông: do lịch sử phát triển, kiến tạo lâu dài => cấu trúc nham thạch của biển Đông đa dạng (vùng bờ, thềm khác vùng đáy biển sâu).Vùng thềm lục địa, các đảo và quần đảo có nền móng Cổ sinh và Trung sinh với các đá trầm tích và phun trào đa dạng của các địa tầng trên lục địa kéo dài ra. (Hệ thống đảo ven bờ Việt Nam có cấu tạo bởi các loại đá có nguồn gốc và tuổi khác nhau, từ Cổ sinh đến Đệ tứ:
- Hệ thống đảo ven bờ biển Bắc Bộ chủ yếu là đá cacbonat có tuổi Carbon.
- Hệ thống đảo ven bờ Trung Bộ cấu tạo chủ yếu bởi đá macma xâm nhập và phun trào, ngoài ra còn có đá trầm tích.
- Hệ thống đảo ven bờ Nam Bộ có nguồn gốc và thành phần đa dạng.
1.3. Về chế độ kiến tạo của hệ thống đảo ven bờ Việt Nam: nằm trên thềm lục địa, trong các đới cấu trúc có hoạt động kiến tạo phức tạp thuộc các đới uốn nếp từ Calêđôni, Hecxini, Kimeri đến Anpơ-Himalaia. Trong Kainozoi, các hoạt động đứt gãy, phá huỷ và lún chìm phân dị xảy ra mạnh trên thềm lục địa đã tạo ra nhiều bồn trũng sâu, nơi có khả năng chứa dầu nên cung cấp nguồn lợi TNTN
1.4. Vùng biển VN giàu tài nguyên khoáng sản: rất phong phú và đa dạng. Đáng chú ý nhất là tài nguyên dầu khí, các khoáng sản rắn cho đến thời điểm hiện tại phát hiện chủ yếu ở dải ven biển, còn ở các vùng nước sâu, xa bờ chưa có điều kiện điều tra nên chỉ có những tài liệu ban đầu. Khai thác các mỏ đã biết và tiếp tục tìm kiếm các mỏ khoáng sản mới ở vùng ven biển, biển và thềm lục địa luôn là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam. Vai trò và lợi ích quốc gia thu được từ khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên khoáng sản biển là rất to lớn
2. Tiềm năng khoáng sản ở biển Đông:
2.1. Khoáng sản rắn
Khoáng sản rắn ở biển Việt Nam phân bố trong trầm tích Đệ tứ, trong các đá gốc ven bờ thềm lục địa và biển sâu. Trong trầm tích Đệ tứ đã phát hiện các tích tụ công nghiệp và một loạt các khoáng vật quặng, phi quặng (sa khoáng), phôtphorit và các biểu hiện của glauconit, pirit, thạch cao, kết hạch sắt – mangan,...
*Khoáng sản đới ven biển
- Sa khoáng ven biển của các nguyên tố hiếm quý: Khá phong phú và đa dạng. Một số mỏ sa khoáng có ý nghĩa kinh tế như các mỏ có chứa Inmenit,Rutin,Monazit, Ziacon và các biểu hiện Manhêtit, Caxiterit, Vàng, Crôm, Corindon, Topa, Spiner,...Những mỏ đang khai thác là Quảng Xương, Thanh Hóa (trừ lượng Ti: 80.198 tấn, Zn: 2.298 tấn), mỏ Cẩm Hoà (trữ lượng Ti: 2.500.000 tấn, Zn: 85.995 tấn), mỏ Kẻ Ninh (trữ lượng Ti: 443.475 tấn, Zn: 35.126 tấn), mỏ Kẻ Sung (trữ lượng Ti:3.370.000 tấn, Zn: 100.000 tấn), mỏ Đề Gi (trữ lượng Ti:1.749.599 tấn, Zr:78.978 tấn), mỏ Hàm Tân (Ti: 1.300.000 tấn, Zn:442.198 tấn).
Những tài liệu thống kê cho thấy các mỏ sa khoáng Titan, Ziacon, đất hiểm ven biển Việt Nam, có 2 mỏ lớn, 7 mỏ trung bình, 6 mỏ nhỏ và hàng chục điểm quặng (dưới 25.000 tấn). Các mỏ sa khoáng chủ yếu là Titan, Ziacon, còn các quặng đất hiếm chưa đạt giá trị công nghiệp của mỏ nên chỉ xem là những quặng đi kèm khi khai thác.
- Cát thủy tinh: Cát thủy tinh là một trong những khoáng sản chính ven biển Việt Nam, phân bố rải rác dọc bờ biển từ Bắc đến Nam.Có mỏ ở ngoài đảo như Vân Hải (Quảng Ninh). Hầu hết các mỏ cỡ lớn tập trung ở ven biển, đoạn từ Cam Ranh đến Bình Châu. Ước chừng có 20 mỏ đã được tìm kiếm, thăm dò với tổng trữ lượng khoáng 584 triệu tấn. Đa số các mỏ là cát thủy tinh. Một số mỏ cát có chất lượng tốt như Vân Hải, Cam Ranh có chất lượng cao để sản xuất pha lê dụng cụ quang học.
- Các khoáng sản khác ở ven biển: Ngoài quặng Titan cùng kim loại hiếm đi kèm và cát thủy tinh, các khoáng sản kim loại khác chỉ là những biểu hiện Vàng, Thiếc (Sầm Sơn, vùng Nam Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị - Huế, Quảng Nam- Quảng Ngãi, Quy Nhơn- Phú Yên, Bình Thuận – Vũng Tàu). Cần lưu ý tìm kiếm chúng trong các lòng sông cổ
* Các biểu hiện khoáng sản vùng quần đảo Trường Sa- Hoàng Sa
- Pyrit; Khoáng vật tự sinh này gặp cả ở 3 vùng biển theo độ sâu (thềm, sườn lục địa và biển sâu) nhưng chủ yếu ở rìa ngoài thềm lục địa tới chân lục địa độ sâu khoảng 200- 2.800m. Phía Nam đảo Trường Sa pirit có hàm lượng khá cao, đạt 5,5- 7,5% vât liệu trầm tích, dải phía Đông quần đảo ở độ sâu 1.000 – 2.000m hàm lượng pirit khoảng 1-5% vật liệu trầm tích.
- Thạch cao: Khoáng vật tự sinh này gặp trong các trầm tích tầng mặt ở rìa quần đảo, thường đi cùng pirit, hàm lượng thay đổi từ 2,9% đến 6,5%.
- Sắt- mangan: Bao quanh quần đảo Trường Sa hàm lượng mangan tăng dần theo độ sâu từ 500m-3.000m (khoảng 1,5%), kết hạch sắt-mangan tập trung chủ yếu ở chân lục địa độ sâu 2.000 – 4.000m.
- Phôtphorit: Ở quần đảo Hoàng sa và Trường sa phôtphorit là loại guano thành tạo từ phân chim ý nghĩa kinh tế không lớn.
2.2. Tài nguyên dầu khí
Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney - Saba, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng, cửa sông Châu Giang. Hiện nay, hầu hết các nước trong khu vực đều là những nước khai thác và sản xuất dầu khí từ biển như Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái Lan … trong đó Indonesia là thành viên của OPEC.
Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí, trong đó các bể trầm tích Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất, điều kiện khai thác tương đối thuận lợi. Tổng trữ lượng dự báo địa chất về dầu khí của toàn thềm lục địa Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu qui đổi, trữ lượng khai thác khoảng 02 tỷ tấn và trữ lượng dự báo của khí khoảng 1.000 tỷ mét khối.
Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được trong vòng 15 - 20 năm tới. Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính. Trữ lượng và sản lượng dầu khí của Việt Nam đứng vào hạng trung bình trong khu vực, tương đương Thái Lan và Malaysia. Ngoài ra, theo các chuyên gia Nga thì khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa còn chứa đựng tài nguyên khí đốt đóng băng, trữ lượng loại tài nguyên này trên thế giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng thay thế dầu khí trong tương lai gần. Chính tiềm năng dầu khí chưa được khai thác được coi là một nhân tố quan trọng làm tăng thêm các yêu sách chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quanh hai quần đảo.
CHƯƠNG II . HIỆN TRẠNG KHAI THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN
1. Khai thác tài nguyên rắn
Hiện nay tốc độ khai thác các mỏ sa khoáng inmenit ven biển rất cao. Hầu như các mỏ lớn đều được khai thác và chế biến, chủ yếu là tuyển Tian và Ziacon sạch để xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu, công nghiệp trong nước chưa sử dụng nhiều. Không ít mỏ khi khai thác và sau khi khai thác xong không chú trọng đến vấn đề môi trường nên gây ra những tác động xấu.
- Cát thủy tinh đã được khai thác phục vụ cho sản xuất trong nước nhưng một lượng lớn phục vụ xuất khẩu. Với trữ lượng rất lớn, việc khai thác hiện nay chưa đáng bao nhiêu.
- Cát san lấp gần đây một số tỉnh miền Tây Nam bộ đã tiến hành thăm dò và khai thác xuất khẩu. Nhiều nhà khoa học quan tâm và tỏ ra băn khoăn vì sợ chưa tính toán kỹ vì khai thác cát ở vùng biển nước nông có thể làm thiếu hút trầm tích và làm gia tăng nạn sạt lở bờ biển vốn đã nghiêm trọng hiện nay. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu đầy đủ về tác động của việc khai thác cát tới môi trường thực sự nghiêm túc.
2. Tài nguyên dầu khí Biển Đông
- Dầu khí là tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa nước ta có tầm chiến lượcquan trọng. Đến nay, chúng ta đã xác định được tổng tiềm năng dầu khí tại các bể trầm tích: Sông Hồng, Phú Khánh, Nam Côn Sơn, Cửu Long, Malay - Thổ Chu, Vũng Tư Chính - Vũng Mây… đã được xác định tiềm năng và trữ lượng đến thời điểm này là từ 0,9 đến 1,2 tỷ m3 dầu và từ 2.100 đến 2.800 tỷ m3 khí.Trữ lượng đã được xác minh là gần 550 triệu tấn dầu và trên 610 tỷ m3 khí. Trữ lượng khí đã được thẩm lượng, đang được khai thác và sẵn sàng để phát triển trong thời gian tới vào khoảng 400 tỷ m3.
- Với các biện pháp đồng bộ, đẩy mạnh công tác tìm kiếm - thăm dò, khoảng từ 40 đến 60% trữ lượng nguồn khí thiên nhiên của nước ta sẽ được phát hiện đến năm 2010. Hiện nay, ngành Dầu khí nước ta đang khai thác dầu khí chủ yếu tại sáu khu mỏ bao gồm: Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Bunga Kekwa - Cái Nước và chuẩn bị chính thức đưa vào khai thác mỏ khí Lan Tây. Tính chung, hai năm đầu thế kỷ mới, ngành Dầu khí nước ta đã thăm dò phát hiện gia tăng thêm trữ lượng hơn 70 triệu tấn dầu thô và hàng chục tỷ m3 khí để tăng sản lượng khai thác trong những năm tiếp theo.
- Năm 2006, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam bố trí kế hoạch khai thác 20,86 triệu tấn dầu thô quy đổi (tăng 1,5 triệu tấn so với mức đã thực hiện trong năm 2002). Đây là năm đầu tiên nước ta khai thác hơn 20 triệu tấn dầu thô quy đổi.
Trong đó có 17,6 triệu tấn dầu thô và 3,7 tỷ m3 khí thiên nhiên. Dự kiến đến năm 2010, ngành Dầu khí nước ta sẽ khai thác từ hơn 30 đến 32 triệu tấn dầu thô quy đổi, nhằm đáp ứng các ngành năng lượng và sản xuất công nghiệp của cả nước.
- Riêng quý I/2009, công tác khai thác dầu khí của ta đã đạt được như sau:
Tổng sản lượng khai thác quy dầu đạt 6,43 triệu tấn, bằng 101% kế hoạch quý I/2009, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó:
+ Sản lượng khai thác dầu thô là 4,42 triệu tấn, bằng 101,4% kế hoạch quý I/2009, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2008;
CHƯƠNG III . GIẢI PHÁP KHAI THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN
- Bước đầu một số tài nguyên khoáng sản cơ bản đã được đầu tư khai thác song việc sử dụng lại chưa hợp lý làm lãng phí tài nguyên quốc gia. Việc nghiên cứu đầu tư khoa học kỉ thuật để nâng cao giá trị các tài nguyên là rất cần thiết, tránh việc khai thác xuất khẩu thô với giá trị thấp, tránh các lãng phí khi khai thác các tài nguyên.
- Phát triển tổng hợp kinh tế biển là một chiến lược đúng đắn song việc kết hợp một cách hợp lý các hướng trong chiến lược phát triển tổng hợp kinh tế biển là điều hết sức cần thiết. Tránh việc phát triển ngành này làm ảnh hưởng tiêu cực đến các ngành khác.
- Gia tăng giá trị nguồn tài nguyên khoáng sản biển (đặc biệt là dầu khí) không chỉ xuất khẩu thô. Đẩy mạnh tiến độ điều tra khảo sát, tìm kiếm, thăm dò tài nguyên khoáng sản biển phục vụ cho phát triển đất nước cần có một chiến lược đảm bảo rút ngắn thời gian từ khâu điều tra đến khai thác và đảm bảo sản lượng khai thác tăng trưởng bền vững và phục vụ có hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội.
- Nhà nước cần có chiến lược xây dựng các nhà máy lọc dầu khác.
- Nguồn tài nguyên khí mới sử dụng 50% sản lượng còn phải đốt cũng là điều cần suy nghĩ.Nên cần phải tăng cường tìm kiếm thị trường đê đẩy mạnh sử dụng nguồn khí.
- Khai thác tài nguyên khoáng sản biển là ngành kinh tế mạo hiểm đòi hỏi vốn lớn và có nhiều rủi ro nên cần có cơ chế thích hợp để thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là lĩnh vực khoáng sản rắn còn chưa được chú ý như đối với ngành dầu khí.
KẾT LUẬN
Lợi thế của một quốc gia biển và một vùng thềm lục địa rộng lớn tiếp nối với hai đồng bằng ven biển (châu thổ sông Hồng và Cửu Long) rộng lớn, đã tạo ra cho Việt Nam những triển vọng và tiềm năng đa dạng về khoáng sản biển, đặc biệt là dầu khí ở thềm lục địa. Việc khai thác dầu khí vừa qua đã đóng góp to lớn cho nền kinh tế quốc dân với GDP xuất khẩu đứng đầu trong nhiều năm, nên luôn được xem là một ngành kinh tế mũi nhọn. Cùng với dầu khí, các dạng khoáng sản rắn cũng đã được phát hiện ở vùng ven biển và biển nông ven bờ (0-50m nước), trong đó một số mỏ sa khoáng đã khai thác,...Tiếp tục tìm kiếm các mỏ khoáng sản mới ở vùng ven biển, biển và thềm lục địa luôn là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam.
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã xem dầu khí vẫn là ngành ưu tiên phát triển cao trong số 4 ngành kinh tế biển quan trọng đến năm 2020: dầu khí, hàng hải, thủy sản và du lịch. Tuy nhiên, tài nguyên khoáng sản biển nói chung và dầu khí nói riêng thuộc nhóm tài nguyên không tái tạo, dùng bao nhiêu hết bấy nhiêu, nên cần chú ý trong quá trình thực hiện chiến lược biển để bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.