Trong nền kinh tế xã hội nói chung và nền kinh tế tư bản nói riêng, không phải 
lúc nào cũng tiến hành một cách trôi chảy. Giữa các ngành mà trong quá trình cạnh 
tranh khốc liệt với nhau thì trong phạm vi xã hội làm sao đảm bảo được sự cân bằng. 
Trong những điều kiện như vậy tỉ lệ chỉ có thể hình thành lên một cách tự phát, qua 
việc chuyển từ ngành nọ sang ngành kia theo tỷ suất lợi nhuận cho lên hiện tượng tỉ 
lệ giữa các ngành chỉ là hiện tượng ngẫu nhiên, tạm thời. Còn mất tỉ lệ mới là hiện 
tượng thường xuyên, mới là quy tắc chung của tái sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong 
đời sống thực tế của xã hội tư bản, những hiện tượng mất tỷ lệ: khi thì sản phẩm này 
ứ đọng, không bán chạy; khi sản phẩm kia khan hiếm; khi xí nghiệp này đóng cửa vì 
thiếu nguyên liệu; khi xí nghiệp kia phá sản vì sản xuất quá nhiều 
Không phải tái sản xuất tư bản chủ nghĩa vấp phải những hiện tượng mất cân 
đối cục bộ, thường xuyên xảy ra như trên mà cứ khoảng trên dưới 10 năm. Giống 
như có một sức mạnh nào xui khiến toàn bộ sản xuất tư bản chủ nghĩa lại bỗng nhiên 
dừng lại: hiệu buôn phá sản, ngân hàng vỡ nợ, nhà máy đóng cửa, sản xuất thụt lùi 
sản xuất hàng hoá quá thừa, hiện tượng đổ vỡ này gọi là khủng hoảng kinh tế.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 11 trang
11 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 3078 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu về kinh tế chính trị Mác - Lênin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
kinh tế chính trị Mác Lênin 
Lời mở đầu 
Trong nền kinh tế xã hội nói chung và nền kinh tế tư bản nói riêng, không phải 
lúc nào cũng tiến hành một cách trôi chảy. Giữa các ngành mà trong quá trình cạnh 
tranh khốc liệt với nhau thì trong phạm vi xã hội làm sao đảm bảo được sự cân bằng. 
Trong những điều kiện như vậy tỉ lệ chỉ có thể hình thành lên một cách tự phát, qua 
việc chuyển từ ngành nọ sang ngành kia theo tỷ suất lợi nhuận cho lên hiện tượng tỉ 
lệ giữa các ngành chỉ là hiện tượng ngẫu nhiên, tạm thời. Còn mất tỉ lệ mới là hiện 
tượng thường xuyên, mới là quy tắc chung của tái sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong 
đời sống thực tế của xã hội tư bản, những hiện tượng mất tỷ lệ: khi thì sản phẩm này 
ứ đọng, không bán chạy; khi sản phẩm kia khan hiếm; khi xí nghiệp này đóng cửa vì 
thiếu nguyên liệu; khi xí nghiệp kia phá sản vì sản xuất quá nhiều… 
Không phải tái sản xuất tư bản chủ nghĩa vấp phải những hiện tượng mất cân 
đối cục bộ, thường xuyên xảy ra như trên mà cứ khoảng trên dưới 10 năm. Giống 
như có một sức mạnh nào xui khiến toàn bộ sản xuất tư bản chủ nghĩa lại bỗng nhiên 
dừng lại: hiệu buôn phá sản, ngân hàng vỡ nợ, nhà máy đóng cửa, sản xuất thụt lùi… 
sản xuất hàng hoá quá thừa, hiện tượng đổ vỡ này gọi là khủng hoảng kinh tế. 
Bài viết của em được chia ra làm 5 phần chính: khủng hoảng kinh tế chu kì là 
điều tất yếu gây ra những hậu quả nghiêm trọng, nguyên nhân, hậu quả, cách khắc 
phục và thực tiễn ở Việt Nam. Với hiểu biết còn hạn hẹp, chưa tìm hiều sâu về kinh 
tế chính trị Mác Lênin 
I) Trong CNTB khủng hoảng kinh tế chu kì là điều tất yếu gây ra những 
hậu quả nghiêm trọng: 
Khủng hoảng kinh tế là khái niệm dùng để chỉ những hiện tượng kinh tế mất ổn 
định kéo dài mà không điều chỉnh được của quá trình tái sản xuất trong nền kinh tế 
gây ra những trấn động và hậu quả kinh tế xã hội trong quy mô rộng hoặc hẹp. 
Khủng hoảng kinh tế diễn ra trong mọi lĩnh vực của nền sản xuất xã hội trong 
tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất 
Khủng hoảng kinh tế chu kỳ gồm có 4 giai đoạn 
 Khủng hoảng: đây là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ kinh tế. Xuất hiện 
trước hết là khủng hoảng tiêu thụ, dự trữ hàng hoá trong kho của các xí nghiệp tăng 
lên, giá cả hàng hoá giảm xuống do cung lớn hơn cầu có khả năng thanh toán cuộc 
cạnh tranh để tiêu thụ hàng hoá trở lên gay gắt, các nhà tư bản buộc phải thu hẹp, 
thậm chí đình chỉ sản xuất. Do các xí nghiệp không có khả năng thanh toán các 
khoản nợ, tâm lý hoảng loạn, việc rút tiền khỏi ngân hàng, bán các cổ phiếu, trái 
phiếu làm giá trị thị trường giảm mạnh. Tín dụng thương mại và ngân hàng bị thu 
hẹp trong khi nhu cầu tín dụng tăng lên làm cho tỷ xuất lợi tức tăng lên rất cao. 
Khủng hoảng công nghiệp và thương nghiệp đưa đến cả khủng hoảng tiền tệ tín 
dụng. Khủng hoảng đã phá huỷ nghiêm trọng lực lượng sản xuất, người lao động 
thất nghiệp đông đảo, đời sống hết sức khó khăn. Nghiêm trọng hơn đó lại là điều 
kiện để nhà tư bản tăng cường bóc lột công nhân. Do đó công nhân buộc phải chấp 
nhận những điều kiện lao động nặng nhọc, hoặc tiền lương thấp. Trong khi đó cường 
độ lao động lại tăng. 
 Tiêu điều: là giai đoạn tiếp sau khủng hoảng. Đặc điểm của giai đoạn 
này, sản xuất không tiếp tục giảm sút nữa nhưng cũng không tăng lên, nền sản xuất ở 
trạng thái trì trệ. Để thoát khỏi tình trạng này, các nhà tư bản tìm cách tăng cường 
bóc lột lao động bằng cách hạ thấp tiền lương, tăng cường độ và thời gian lao động, 
để giảm chi phí sản xuất và đổi mới tư bản cố định, cải tiến kỹ thuật. Việc đổi mới tư 
bản cố định đã làm tăng về nhu cầu tư liệu sản xuất làm cho kinh tế dần dần thoát 
khỏi trạng thái khủng hoảng có bước chuyển biến khỏi trạng thái trì trệ, chuyển sang 
giai đoạn phục hồi. 
 Phục hồi: là giai đoạn tiếp nối với giai đoạn tiêu điều. Từ tiêu điều chuyển 
sang phục hồi và bắt đầu mở rộng sản xuất nhờ đổi mới tư bản cố định. Sản xuất 
được mở rộng đạt mức trước khủng hoảng. Số người làm việc tăng lên, giá cả hàng 
hoá cũng tăng lên, lợi nhuận thu được cũng tăng, nền kinh tế bước sang giai đoạn 
mới, giai đoạn hưng thịnh. 
Hưng thịnh: là giai đoạn phát triển cao nhất của chu kỳ kinh tế. ở giai đoạn này 
cung cầu về hàng hoá tăng lên, sản xuất mở rộng và phát triển vượt mức cao nhất 
của chu kỳ trước. Thế là lại tạo điều kiện chuẩn bị cho một cuộc khủng hoảng mới, 
bắt đầu và chín muồi. 
II) Nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế: 
Trong phương thức trước chủ nghĩa tư bản vẫn thường xảy ra những biến động 
trong đời sống kinh tế. Những biến động này là do thiên tai, dịch tễ, hoặc chiến tranh 
gây lên làm cho sản xuất bị tàn phá, nhân dân bị đói là do thiếu thốn về sản phẩm. 
Các nhà kinh tế học tư sản đã giải thích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh 
tế là do mất cân đối “ngẫu nhiên” giữa các ngành sản xuất hoặc do tiêu dùng “tạm 
thời” không theo kịp sản xuất. Dựa trên kết luận vu vơ ấy họ bày ra trăm phương 
nghìn kế “cứu chữa” cho chủ nghĩa tư bản thoát khỏi cái tai hoạ ghê gớm. Nào là 
thực hiện “kinh tế chỉ huy”, nào là “công quỹ đặc biệt” cho hàng hoá xuất khẩu, nào 
là đi xâm chiếm thị trường nước ngoài, hàng hoá bán chịu… 
Mặc dù có thay đổi phương thuốc chủ nghĩa tư bản, từ hơn một thế kỷ nay, nó 
vẫn cứ định kỳ, không những không thuyên giảm mà ngày một trầm trọng thêm lên. 
Từ 1925 là năm nổ ra cuộc khủng hoảng sản xuất thừa đầu tiên trong lịch sử của chủ 
nghĩa tư bản cho đến nay. It nhất chủ nghĩa tư bản trải qua 16 lần khủng hoảng. 
Những cuộc khủng hoảng này bao trùm toàn bộ thế giới tư bản hoặc xảy ra ở một số 
nước tư bản. 
ở Anh năm 1925 nổ ra cuộc khủng hoảng có tính chất toàn quốc đầu tiên thì 
11năm sau tức là năm 1936 nổ ra cuộc khủng hoảng thứ hai. Năm1947-1948 nổ ra 
cuộc khủng hoảng thứ ba. Về cơ bản là khủng hoảng thế giới đầu tiên trong nền kinh 
tế tư bản chủ nghĩa. Năm 1957 nổ ra cuộc khủng hoảng thứ 4 bao trùm các nước chủ 
yếu của lục địa Châu Âu có cả Anh và Châu Mĩ. Các cuộc khủng hoảng tiếp sau là: 
1866, 1873, 1882, 1890, 1920-1921, 1929-1933: là thảm hoạ của chủ nghĩa tư bản, 
1957,1948-1949…liên tiếp nổ ra ở các nước tư bản chủ nghĩa. 
Khủng hoảng kinh tế là hiện tượng riêng chủ nghĩa tư bản mới có và đã là cố tật 
thì không thể nào cứu chữa được thì nguyên nhân không thể đi tìm ở những nhân tố 
bên ngoài, ngẫu nhiên. Nguyên nhân của nó chỉ có thể là mâu thuẫn đối kháng mà 
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ngay từ khi ra đời vốn đã mang trong lòng nó. 
Trước hết phaỉ kể đến mâu thuẫn giữa tính tổ chức của sản xuất ở trong từng xí 
nghiệp riêng rẽ và tình trạng vô chính phủ của sản xuất trong phạm vi toàn xã hội. 
Mâu thuẫn này tạo ra tình trạng vô chính phủ cực kỳ nghiêm trọng, mọi người đều 
biết không chỉ riêng chủ nghĩa tư bản mới có tình trạng sản xuất vô chính phủ. Bất cứ 
hàng hoá nào dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đều có chung đặc 
điểm này. Ơ đây người sản xuất đều sản xuất theo ý mình không ai biết thị trường 
cần đến loại hàng hoá nào và cần bao nhiêu. Chỉ đến khi mang ra thị truờng thì số 
phận của hàng hoá mới được định đoat, hàng hoá có thể bán được hoặc không bán 
được, nếu nó không đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Như vậy tình trạng vô chính 
phủ của sản xuất hàng hoá đã ấp ủ sẵn khả năng khủng hoảng. Vì vậy, những gián 
đoạn về tiêu thụ do tình trạng vô chính phủ của sản xuất hàng hoá gây ra chưa thể 
dẫn tới một sự đổ vỡ bao trùm toàn bộ nền sản xuất. Tình thế luôn luôn bị đảo lộn. 
Tình trạng mất cân đối giữa các ngành sản xuất với tiêu dùng. Mâu thuẫn giữa sản 
xuất và tiêu dùng sản sinh ra từ bản chất của chủ nghĩa tư bản. 
Sản xuất vô chính phủ không phải là nguồn gốc duy nhất của cuộc khủng hoảng. 
Chỉ khi nào khối lượng sản xuất vượt xa sức mua của người tiêu dùng thì khi đó tình 
trạng mất cân đối do sản xuất vô chính phủ gây ra mới dẫn đến sự bùng nổ của cuộc 
khủng hoảng, do tác dụng của mâu thuẫn giữa khuynh hứơng mở rộng sản xuất một 
cách vô hạn của chủ nghĩa tư bản và sức mua giới hạn của người tiêu dùng. 
Vì lòng thèm khát lợi nhuận vô hạn mỗi nhà tư bản đều ra sức tích luỹ để mở rộng 
sản xuất cải tiến kỹ thuật nhằm tung ra thị truờng những khối lượng hàng hoá ngày 
càng lớn. Trong khi đó thì chính sự tích luỹ của tư bản không những gây ra hậu quả 
bần cùng hoá nhân dân lao động và tạo ra một đám nhân khẩu thừa tương đối ngày 
càng đông. Vì vậy sức mua của quần chúng lao động, những người tiêu dùng chủ yếu 
trong xã hội ngày càng giảm đi, thiếu người tiêu dùng. 
Hàng hoá không phải thừa tuyệt đối bởi vì nó còn xa mới đáp ứng nhu cầu tiêu 
dùng của xã hội. Hàng hoá chỉ thừa tương đối, thừa so với sức mua còn thấp kém của 
xã hội. 
Như vậy khủng hoảng sản xuất thừa còn gắn liền với mâu thuẫn đối kháng giữa 
lao động và tư bản. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản có nghĩa là sự tước đoạt tư liệu 
sản xuất từ tay những người sản xuất và biến họ thành vô sản, suốt đời đi làm thuê. 
Đó là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản. Sự tách rời giữa hai nhân tố của quá trình sản 
xuất (tư liệu sản xuất và người tiêu dùng) là sự đối lập giữa tư bản và lao động. Như 
vậy khủng hoảng sản xuất thừa bắt nguồn từ những mâu thuẫn đối kháng của tái sản 
xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này đều sản sinh ra trên cơ sở của chế độ chiếm 
hưu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghiã tư 
bản: mâu thuẫn giữa sản xuất và tính chất xã hội và chiếm hữu có tính chất tư bản 
chủ nghĩa. 
Chủ nghĩa tư bản ra đời đã tập trung tư liệu sản xuất vào tay những nhà tư bản và 
biến tư liệu sản xuất cá nhân nhỏ mọn âý thành những tư liệu sản xuất xã hội. Khủng 
hoảng nổ ra vào lúc sản xuất đạt tới mức điểm cao nhất, lúc mà tình trạng mất cân đối 
giữa sản xuất và tiêu dùng đã tích luỹ đến độ nghiêm trọng. Một khi mà dòng lưu 
thông đã đầy ứ hàng hoá thì nó có thể bị phá tung ra ở bất cứ chỗ nào một cách vô 
cùng đột ngột 
III) Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 
Hậu quả của cuộc kinh tế chu kỳ làm phá hoại lực lượng sản xuất và làm rối loạn 
lĩnh vực lưu thông. Mỗi lần khủng hoảng đều làm cho sản xuất và lưu thông của các 
nước tư bản bị giảm sút. Xí nghiệp bị đình đốn đóng cửa quy mô sản xuất bị thu hẹp 
lại ,giá cả thị trường bị giảm sút mạnh, khối lượng mậu dịch trong và ngoài nước bị 
thu hẹp lại, nhiêu ngân hàng phải đóng cửa, giá cổ phiếu hạ thấp. 
Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản là điều dẫn tới độc quyền. Tích tụ 
là yêu cầu căn bản của việc mở rộng sản xuất ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Sự tăng lên 
của khối lượng giá trị thặng dư trong quá trình phát triển sản xuất của tư bản chủ 
nghĩa tạo khả năng hiện thực cho tích tụ tư bản tập trung. 
Các nhà tư bản hình thành trong xã hội có vai trò to lớn trong sự phát triển sản 
xuất . 
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng do đó nền sản xuất xã hội hoá 
cao làm cho hâụ quả tư bản chủ nghĩa càng sâu sắc. Khoảng cách giàu nghèo ngày 
càng lớn, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động ngày càng gay gắt. Trong khi quần 
chúng lao động lâm vào cảnh đói nghèo thì các nhà tư bản tiêu huỷ hàng đống của cải 
khổng lồ bao gồm cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. 
Ví dụ: cuộc khủng hoảng 1929-1933 người ta đã phá huỷ 92 lò nấu sắt ở Mỹ, 72 
lò ở Anh, 28 lò ở Đức, 10 lò ở Pháp. Trọng tải ở biển bị phá huỷ với 6,5 triệu tấn. 
Trong khi đó mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, sự bóc lột và đè nén tổ chức độc 
quyền làm cho giai cấp công nhân vô cùng điêu đứng. Chiến tranh và khủng hoảng 
kinh tế lại không ngừng reo tai hoạ lên đầu họ. Vì vậy giai cấp công nhân ngày càng 
giác ngộ, đoàn kết đấu tranh chống lại chế độ tư bản chủ nghĩa. 
Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt. Đó là mâu thuẫn giữa 
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất đã vượt quá khuôn khổ 
của quan hệ sản xuất, đó là sự nổi dậy của lực lượng sản xuất chống lại quan hệ sản 
xuất. 
IV) Cách khắc phục: 
Trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất quyết định tính chất của quan 
hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động ngược trở lại lực lượng sản xuất, khi nó phù 
hợp với tính chất của lực lượng sản xuất thì nó giúp cho lực lượng sản xuất phát triển 
mạnh mẽ, khi nó không phù hợp thì nó biến thành trở ngại của lực lượng sản xuất. 
Trong quá trình sản xuất con người không ngừng thu thêm kinh nghiệm sản xuất, 
không ngừng cải tiến công cụ, cải tiến kĩ thuật. Lực luợng sản xuất phát triển đến một 
trình độ nào đó vượt ra ngoài khuôn khổ của quan hệ sản xuất cho nên quan hệ sản 
xuất phải phù hợp với tính chất lượng sản xuất. 
Quan hệ cung cầu là quan hệ giữa người bán và người mua, những người sản xuất 
và những người tiêu dùng là những quan hệ có vai trò quan trọng trong kinh tế hàng 
hoá. Không phải chỉ ở giá cả ảnh hưởng tới cung cầu, mà ảnh hưởng tới việc xác định 
giá cả trên thị trường. Khi cung lớn hơn cầu người bán phải giảm giá cả, giá cả có thể 
thấp hơn giá trị. 
Giữa cung và cầu về hàng hoá phải có sự thích ứng cần thiết khách quan về hình 
thái hiện vật và hình thái giá trị. Do vậy quan hệ cung cầu điều tiết được sự chênh 
lệch giữa giá cả thị truờng và giá trị thị trường. Sự lên xuống của giá cả thị trường lại 
điều tiết quan hệ cung cầu, làm cho nền sản xuất có được những tỉ lệ tương đối. 
Trước khi đạt tới sự tương đối thì xã hội lãng phi rất nhiều sức lực và của cải. Vì vậy 
xã hội đòi hỏi phải có sự kiểm tra, điều tiết ,định hướng, một cách có ý thức đối với 
sự vận động của cơ chế thị trường. 
Các nhà tư bản ra sức tìm lối thoát băng cách giảm bớt chi phí sản xuất dù có bán 
hàng hoá với giá thấp vẫn thu được lợi nhuận. Họ ra sức tăng cường bóc lột công 
nhân lợi dụng tình hình thất nghiệp để hạ thấp tiền lương, kéo dài ngày lao động nâng 
cao cường độ lao động. Biện pháp quan trọng là áp dụng kỹ thuật để cải tiến bằng 
cách đổi mới hàng loạt mày móc thiết bị. 
V)Thực tiễn ở Việt Nam 
 Việt Nam là một nước định hướng xã hội chủ nghĩa, may mắn không xảy ra cuộc 
khủng khoảng kinh tế chu kì như các nước phát triển trên thế giới. Nhưng do nước ta 
đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nặng nề của cuộc chiến tranh. Nền 
kinh tế còn mang nặng tính tự cấp, tự túc, công nghiệp nhỏ bé và lạc hậu, các ngành 
dịch vụ chưa phát triển. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nứơc ta đã phát huy vốn 
đầu tư nước ngoài, công nghiệp hoá hiện đại hoá, khuyến khích pháp triển các doanh 
nghiệp vừa và nhỏ khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, xây dựng 
cơ sở vật chất –kỹ thuật. Khi thay đổi cũng đạt một số thành tựu như : Việt Nam từ 
một nước nhập khẩu gạo đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới, cả 
nước có gần 5300 công trình thuỷ lợi, trong đó có khoảng 3000 trạm bơm. Các công 
trình đã góp phần vào việc tưới cho 4,8triệu ha. Trong công nghiệp cả nước có 2821 
xí nghiểp trung ương, địa phương, 590.246 cơ sở xản xuất ngoài quốc doanh. Bên 
cạnh đó nhà nuớc cũng quan tâm đến mạng lưới giao thông đi nhiều nơi từ Bắc tới 
Nam, từ đồng bằng lên trung du và miền núi. 
Kết Luận 
 Khủng hoảng kinh tế chỉ riêng chủ nghỉa tư bản mới có, nó tồn tại một cách khách 
quan. Quan niệm khách quan về triết học xét đến phạm trù nguyên nhân và kết quả 
để giải thích sự khủng hoảng. Nguyên nhân là do sự mâu thuẫn ngày càng gay gắt 
giữa tư bản và người lao động, sản xuất hàng hoá ngày càng nhiều, sản xuất quá mức 
người tiêu dùng, xung đột giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, các xí 
nghiệp cạnh tranh nhau dẫn đến sản phẩm ngày càng dư thừa. Kết quả là khủng 
hoảng kinh tế bùng nổ. 
 Để khắc phục được tình trạng khủng hoảng này thì quan hệ sản xuất phù hợp với 
tính chất lực lượng sản xuất, giữa cung và cầu về hàng hoá phải có sự thích ứng cần 
thiết khách quan về hình thái hiện vật và về hình thái giá trị. Do vậy quan hệ cung 
cầu điều tiết được sự chênh lệch giữa gia cả thị trường và giá trị thị trường, sự lên 
xuống điều tiết cung cầu ,làm cho nền sản xuất được cân đối 
Mục lục tiểu luận 
A. Lời mở đầu 
B. Nội dung chính 
I) Lý luận kinh tế chính trị về khủng hoảng kinh tế 
1. Khủng hoảng kinh tế là gì? 
2. Giai đoạn của cuộc khủng hoảng 
 II) Nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng 
2. Khách quan 
3. Chủ quan 
 III) Hậu quả 
1. Phá hoại lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm rối loạn lĩnh vực 
lưu thông 
2. Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung là điều kiện dẫn tới độc quyền 
 IV) Cách khắc phục 
 1. Điều tiết được sự cân đối 
2. Giải quyết được sự mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, 
giữa tư bản và người lao động. 
C. Kết luận 
D. Tài liệu tham khảo 
- Giáo trình kinh tế chính trị Mác lênin 
 - Giáo trình kinh tế học phổ thông