Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải nói chung, nước thải công nghiệp nói riêng là một trong những công cụ kinh tế chủ yếu được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường. Giống như các loại thuế hay phí môi trường khác, phí nước thải hoạt động theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (Polutter-Pay-Principle), qua đó tạo động lực để các đơn vị giảm ô nhiễm, đồng thời tạo nguồn thu để chi trả cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Phí nước thải đã được áp dụng từ khá lâu ở nhiều nước phát triển, chẳng hạn từ năm 1961 ở Phần Lan, từ năm 1970 ở Thuỵ Điển, từ năm 1980 ở Đức. (OECD, 2005) và đã mang lại những kết quả đáng ghi nhận trong việc quản lý ô nhiễm do nước thải gây ra ở các nước này. Tuy nhiên phí nước thải chỉ mới được áp dụng ở các nước đang phát triển trong thời gian gần đây: từ năm 1978 ở Trung Quốc và Malaysia, từ năm 1996 ở Philippines (Laplante, 2006).
23 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2055 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu việc phí nước thải, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI DUNG
-----------oOo----------
Chương 1. Giới thiệu chung
Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải nói chung, nước thải công nghiệp nói riêng là một trong những công cụ kinh tế chủ yếu được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường. Giống như các loại thuế hay phí môi trường khác, phí nước thải hoạt động theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (Polutter-Pay-Principle), qua đó tạo động lực để các đơn vị giảm ô nhiễm, đồng thời tạo nguồn thu để chi trả cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Phí nước thải đã được áp dụng từ khá lâu ở nhiều nước phát triển, chẳng hạn từ năm 1961 ở Phần Lan, từ năm 1970 ở Thuỵ Điển, từ năm 1980 ở Đức... (OECD, 2005) và đã mang lại những kết quả đáng ghi nhận trong việc quản lý ô nhiễm do nước thải gây ra ở các nước này. Tuy nhiên phí nước thải chỉ mới được áp dụng ở các nước đang phát triển trong thời gian gần đây: từ năm 1978 ở Trung Quốc và Malaysia, từ năm 1996 ở Philippines (Laplante, 2006).
Ở Việt Nam, ngày 13/06/2003, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 67/2003/NĐ-CP quy định về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Nghị định này chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2004. Có thể nói đây là công cụ kinh tế đầu tiên được áp dụng ở Việt Nam theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” và thể hiện một bước tiến hết sức quan trọng trong công tác quản lý môi trường ở Việt Nam. Sau 5 năm thực hiện nghị định 67/2003/NĐ-CP, mặc dù đã đạt được những kết quả khá tích cực nhưng quá trình thu và nộp phí nước thải ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều vấn đề khó khăn. Số phí thu được thấp hơn nhiều so với số phí ước tính ban đầu; nhiều doanh nghiệp không chấp hành các quy định quản lý môi trường và nộp phí nước thải, tình trạng ô nhiễm môi trường do nước thải gây ra ngày càng trầm trọng... Làm thế nào để nâng cao kết quả và hiệu quả công tác thu, nộp phí nước thải, qua đó giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường đang là câu hỏi được đặt ra đối với cơ quan quản lý môi trường của Việt Nam.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định thu phí nước thải công nghiệp ở Việt Nam và một nước đang phát triển có những thành công nhất định trong việc triển khai công tác thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải trong những năm qua, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc thiết kế và triển khai hệ thống thu phí nước thải nhằm nâng cao kết quả, hiệu quả công tác thu phí nước thải công nghiệp, góp phần giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường của Việt Nam.
Vậy cơ sở lý luận cho việc thực hiện việc tính chi phí nước thải sẽ phải dựa vào đâu, chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn trong mục tiếp theo.
Cơ sở lý luận
Một số khái niệm cơ bản:
Thuế pigou
Pigou là người đầu tiên có sáng kiến áp dụng cách tiếp cận kinh tế và việc giải quyết ngoại ứng do ô nhiễm môi trường. Ông đã đưa ra ý tưởng về việc đánh thuế với những người gây ô nhiễm. Đây là loại thuế thay vì đánh vào đầu ra sản phẩm, người ta đánh cho mỗi đơn vị phát thải ô nhiễm đầu vào.
Phí
Một dạng của thuế pigou, là loại phí đánh vào lượng chất thải thực tế người sản xuất. để xác định mức phí người ta căn cứ vào chi phí cần thiết để làm giảm một đơn vị ô nhiễm.
Pháp lệnh về phí và lệ phí của Uỷ Ban thường Vụ Quốc hội khoá 10 (số 38/2001 PL-UBTVQH 10 ngay 28/8/2001) qui định: “phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ được qui định trong danh mục phí”.
Danh mục phí thuộc lĩnh vực môi trường gồm 11 khoản trong đó các loại phí liên quan tới môi trường như sau:
- Phí bảo vệ môi trường
- Phí thẩm định báo cáo tác động môi trường
- Phí vệ sinh.
- Phí phòng chống thiên tai.
- Phí sử dụng an toàn bức xạ.
- Phí thẩm định an toàn bức .
Riêng phí bảo vệ môi trường được tại nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 3/6/2002 của chính phủ qui định chi tiết thi hành pháp lệnh phí và lệ phí qui định thành 6 loại như sau.
- Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải.
- Phí bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, khí thải từ việc sử dụng than đá và các nguyên liệu khác.
- Phí bảo vệ môi trường với chất thải rắn.
- Phí bảo vệ môi trường tiếng ồn.
- Phí bảo vệ môi trường đối với sân bay, nhà ga bến cảng, phí bảo vệ môi trường với viêc khai thác dầu mỏ, khí đốt và khoảng sản khác.
Như vậy phí bảo vệ môi trường nói chung và phí nước thải nói riêng có thể được hiểu là một khoản nghĩa vụ tài chính mà các tổ chức, cá nhân phải trả khi được hưởng một dịch vụ về môi trường. Có thể nói đây là một công cụ quản lí cần thiết cho các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà quản lí nhằm đạt được các mục tiêu môi trường. Và đây cũng là nghĩa vụ của các doanh nghiệp, các tổ chức và là một nhu cầu tất yếu của xã hội nhằm đảm bảo vệ môi trường.
Sự cần thiết của việc tính phí nước thải.
Việc sử dụng phí nước thải là cần thiết và phù hợp với thực tế chung của thế giới cũng như tình hình phát triển kinh tế của nước ta trong những năm trở lại đây. Xuất phát từ thực tế cuộc sống của con người gắn liền với môi trường tự nhiên mà trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ảnh hưởng tới những khu vực có người dân sống quanh khu vực ô nhiễm.
Kinh ngiệm thực tế của của các nước trên thế giới cho thấy việc nhà nước dùng các công cụ kinh tế mà cụ thể ở đây là phí nuớc thải là một biện pháp hữu hiệu trong việc bảo vệ môi trường. Những nước này thu được nhiều thành công cải thiện môi trường hiện tại, bảo vệ môi trường hiện có.
Từ kinh nghiệm, cũng như thực tế của các quốc gia đã làm trước chúng ta có thể thấy rằng, phí bảo vệ ô nhiễm môi trường nói chung và phí nước thải nói riêng được áp dụng là một thực tế khách quan và cũng là xu hướng chung và tất yếu của thế giới.
Với nước ta phí bảo vệ môi trường có mục đích khuyến khích các nhà sản xuất, kinh doanh đầu tư giảm thiểu ô nhiễm, thay đổi hành vi ô nhiễm theo hướng tích cực cho môi trường, có lợi cho môi trường. Ngoài ra phí bảo vệ môi trường còn có mục đích khác là tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước để đầu tư khắc phục và cai thiện môi trường. Với mục đích này, phí bảo vệ môi trường là công cụ kinh tế được xây dựng trên nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền đóng góp tài chính để khắc phục ô nhiễm môi trường và cải thiện môi trường” và ai hưởng lợi từ việc môi trường trong lành phải đóng phí khắc phục ô nhiễm.
Nguyên tắc của việc tính phí nước thải.
Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP).
Nguyên tắc này bắt nguồn từ sáng kiến do tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đề ra vào các năm 1972 và 1974. PPP qui định năm 1972 có quan điểm những tác nhân gây ô nhiễm phải trả mọi chi phí cho hoạt động kiểm soát và phòng chống ô nhiễm. PPP năm 1974 chủ trương rằng, các tác nhân gây ô nhiễm thì ngoài việc tuân thủ theo các chỉ tiêu đối với việc gây ô nhiễm thì còn phải bồi thường thiệt hại cho những người bị thiệt hại do ô nhiễm này gây ra. Nói tóm lại, theo nguyên tắc PPP thì người gây ô nhiễm phải chịu mọi khoản chi phí để thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do chính quyền thục hiện, nhằm đảm bảo môi trương ở mức chấp nhận được.
Nguyên tắc người hưởng lợi phải trả tiền(BPP)
Nguyên tắc BPP chủ trương rằng việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường cần được bảo trợ bởi những người muốn thay đổi hoặc những người không phải trả giá cho việc gây ô nhiễm. Nguyên tắc BPP cũng tạo ra một khoản thu cho nhà nước, mức phí tính theo đầu người càng cao và càng nhiều người nộp thì số tiền thu được càng nhiều. Số tiền thu được từ BPP được thu theo nguyên tắc các cá nhân muốn bảo vệ môi trường và những cá nhân không phải trả cho việc gây ô nhiễm nhưng khi môi trường được cải thiện họ là những người được hưởng lợi cần đóng góp. Tuy nhiên số tiền này không trực tiếp do người hưởng lợi tự giác trả mà phải một chính sách do nhà nước ban hành qua thuế hoặc phí buộc những người hưởng lời phải đóng góp, nên ngưyên tắc BPP chỉ khuyến khích việc bảo vệ môi trường một cách gián tiếp.
Đây là nguyên tắc có thể được sử dụng như một định hướng hỗ trợ nhằm đạt được mục tieu môi trường, dù đó là bảo vệ hay phục hồi môi trường. Tuy nhiên hiệu quả môi trường có thể đạt được hay không, trên thực tế phụ thuộc vào mức lệ phí, số người đóng góp và khả năng sử dụng tiền hợp lí.
Chương 2 Tìm hiểu tính phí nước thải thế giới
Phí BVMT đối với nước thải nói chung, nước thải công nghiệp nói riêng là một trong những công cụ kinh tế chủ yếu được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường. Giống như các loại thuế hay phí môi trường khác, phí nước thải dựa trên nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (Polutter Pays Principle), qua đó tạo động lực để các doanh nghiệp giảm ô nhiễm, đồng thời tạo nguồn thu để chi trả cho các hoạt động BVMT. Phí nước thải đã được áp dụng từ khá lâu ở nhiều nước phát triển (từ năm 1961 ở Phần Lan, năm 1970 ở Thụy Điển, năm 1980 ở Đức) và đã mang lại những kết quả đáng ghi nhận trong việc quản lý ô nhiễm do nước thải gây ra. Phí nước thải cũng được áp dụng ở các nước đang phát triển trong thời gian gần đây: Năm 1978 ở Trung Quốc và Malaixia, năm 1996 ở Philipin. Ở các nước ASEAN, hiện chỉ có Malaixia và Philipin áp dụng phí nước thải ở quy mô cả nước. Thái Lan bắt đầu áp dụng ở quy mô thành phố từ 2000 và đang trong quá trình nghiên cứu nhằm áp dụng ở quy mô cả nước
PHÍ NƯỚC THẢI ĐƯỢC TÍNH THEO NỒNG ĐỘ XẢ THẢI HAY HÀM LƯỢNG CHẤT Ô NHIỄM:
Số phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp được tính cho từng chất gây ô nhiễm theo công thức sau
Trong đó TF là tổng phí nước thải mà cơ sở SXKD phải nộp trong quý;
TFi là số phí nước thải phải nộp đối với chất gây ô nhiễm i (BOD, COD, TSS...) trong quý;
Qt là tổng lượng nước thải thải ra (m3/quý),
Ci là hàm lượng chất gây ô nhiễm i có trong nước thải (mg/l);
Ri là mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp của chất gây ô nhiễm i thải ra môi trường tiếp nhận tương ứng (đơn vị tiền tệ/kg).
Cách tính phí nước thải công nghiệp ở Philippines:
Phí nước thải công nghiệp đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh theo nghị quyết số 26 của Ban quản lý hồ Laguna ở Philipines bao gồm 2 phần là phí cố định và phí biến đổi:
Phí cố định hàng năm: Mục đích của thu phí cố định là nhằm trang trải các chi phí quản lý của Ban quản lý hồ Laguna. Phí cố định được xác định dựa vào lượng nước thải tính bình quân/ngày của cơ sở sản xuất và chất gây ô nhiễm. Đối với chất gây ô nhiễm thông thường nếu lượng nước thải của cơ sở sản xuất không quá 30m3/ngày thì mức thu phí cố định là 5.000 Peso/năm; nếu lượng nước thải của cơ sở sản xuất nằm trong khoảng từ 30-150m3/ngày thì mức phí cố định là 10.000Peso/năm; nếu lượng nước thải của cơ sở lớn hơn 150m3/ngày thì mức phí cố định là 15.000 Peso/năm (Laplante 2006).
- Phí biến đổi: Phí biến đổi trong một quý của cơ sở sản xuất được tính theo tổng lượng ô nhiễm gây ra trong quý và mức phí tính trên một đơn vị ô nhiễm gây ra.
TF = Ln x R
R tuỳ thuộc vào nồng độ chất thải trong nước thải. Nếu nồng độ chất ô nhiễm Cf ≤ 50mg/l thì mức phí R = 5 Peso/kg; nếu nồng độ chất ô nhiễm Cf > 50mg/l thì mức phí R = 30 Peso/kg chất ô nhiễm thải ra
Tổng lượng ô nhiễm gây ra trong quý (Ln) của các cơ sở sản xuất được tính theo công thức sau:
Ln = Cf x Qf x Nf x 0.001
Trong đó: Cf là nồng độ trung bình của chất gây ô nhiễm có trong nước thải của cơ sở sản xuất kinh doanh (mg/l hoặc g/m3);
Qf là khối lượng nước thải tính bình quân trong 1 ngày mà doanh nghiệp có thải nước thải vào môi trường (m3);
Nf là số ngày mà doanh nghiệp thải nước thải vào môi trường trong quý.
Phí nước thải biến đổi của một cơ sở sản xuất chỉ được tính dựa trên lượng phát thải của một chất gây ô nhiễm có trong nước thải của cơ sở sản xuất đó theo quy định (hoặc là BOD5, hoặc là TSS).
Đối với các cơ sở sản xuất nước giải khát, các sản phẩm sữa, thuộc da, giết mổ và chế biến sản phẩm chăn nuôi, thuỷ sản, chế biến hoa quả, sản xuất mía đường, sản xuất giấy.... thì chất gây ô nhiễm được lựa chọn để tính phí nước thải là BOD5.
Đối với các cơ sở sản xuất hoạt động trong ngành sản xuất xi măng, phân hoá học, sản xuất kim loại, khai khoáng... thì chất gây ô nhiễm được lựa chọn để tính phí nước thải là TSS.1400 đồng/kg vào năm 2004 hoặc 1800 đồng vào năm 2008
PHÍ NƯỚC THẢI TÍNH THEO LƯU LƯỢNG SẢ THẢI: Phí nước thải dựa trên lượng nước sử dụng hàng tháng
Trong đó:
T: phí sử dụng tối thiểu trong thời gian nhất định (đơn vị tiền/m3 nước sử dụng);
O: chi phí vận hành và bảo trì trong thời gian cố định (triệu “đơn vị tiền”) như lao động, điện, hóa chất, loại bỏ bùn, bảo trì thiết bị, lấy mẫu, phân tích nước, nước sử dụng, an toàn thiết bị,…;
A: quản lý chi phí trong thời gian nhất định (triệu “đơn vị tiền”) bao gồm thay mới thiết bị, dịch vụ như thanh toán, quản lý thu phí, điện thoại,cung cấp văn phòng, kế toán, giấy phép;
K: chi phí phục hồi trong thời gian cố định (triệu “đơn vị tiền”);
Q: tổng lượng nước thải trong thời gian cố định ( triệu m3)
R: tỷ lệ sử dụng nước thải
C: hiệu quả thu phí trong thời gia cố định,
Một số nước đã áp dụng tính phí nước thải:
Trung quốc: tính theo điều 18 luật bảo vệ môi trường 1979
a) Trước năm 2003:Trước hết, tất cả các thông số ô nhiễm trong nước thải đều được đo kiểm. Sau đó, các thông số ô nhiễm được xếp theo thứ tự từ mức ô nhiễm cao nhất đến thấp nhất. Việc tính phí dựa trên thông số có mức ô nhiễm cao nhất. Với thông số có mức ô nhiễm cao nhất này, phí được tính dựa trên phần nồng độ vượt quá tiêu chuẩn. Ví dụ như nếu như tiêu chuẩn cho phép (TCCP) là 50 mg/l và nồng độ của chất ô nhiễm là 70mg/l thì chỉ tính phí đối với phần 20 mg/l vượt tiêu chuẩn.
b) Sau năm 2003:
Việc tính phí được dựa trên tải lượng chứ không chỉ dựa trên nồng độ; Phí được tính với tất cả các đơn vị ô nhiễm (cả đơn vị trên và dưới TCCP); Phí được tính với hơn 100 thông số ô nhiễm trong nước thải. Các tiêu chuẩn do Bộ Môi trường quy định thay đổi tùy thuộc vào từng ngành công nghiệp và mức phí thay đổi tùy theo loại chất gây ô nhiễm. Ngoài ra, các địa phương có thể đưa ra các tiêu chuẩn chặt chẽ hơn tiêu chuẩn quốc gia và có thể đưa ra mức phí cao hơn mức phí do Bộ Môi trường quy định.
2) Đức
Theo số liệu từ Hiệp hội Đức cho nước, nước thải và chất thải (DWA) và Hiệp hội Liên bang của nước Đức và khí công nghiệp (DVGW), chi phí xử lý nước thải, mà vẫn gần như không đổi trong những năm qua, khoảng 117 € / năm trên đầu người (2001).
Trong khi đó chi phí xử lý nước thải trung bình của các các quốc gia trên mỗi m3 là 2,18 € vào năm 2001.
Áo
Các hộ gia đình ở Áo phải trả phí sử dụng của nước và quản lý nước thải bao gồm khoảng một nửa các chi phí cung cấp nước và xử lý nước thải. Cách tính thường dựa trên khối lượng nước tiêu thụ. Ngoài ra, có thể tính phí thông qua máy đo nước (đồng hồ nước). Và giá nước dao động từ 0,22 EUR để 1.82 EUR trên một mét khối.
Mỹ:
Các hộ gia đình ở các thành phố của Mỹ chịu mức phí xử lý nước thải phải trả lên đến 15 lần nhiều hơn vào các hóa đơn thoát nước của họ so với các thành phố với hệ thống xử lý nước thải cũ, theo một khảo sát của Blue giá nước thải khu dân cư trong 30 thành phố lớn của Mỹ
Theo một cuôc khảo sát của khoảng 30 thanh phố ở mỹ, cứ một gia đình 4 người sử dung khoảng 400l/ngày, thì một tháng lệ phí phải trả là 55,68$, vậy trung bình 100l/người/ngày là 13,92$.
Chương 3: Tìm Hiểu Việc Tính Phí Nước Thải Tại Việt Nam.
Đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải là nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt.
Nước thải công nghiệp là nước thải ra môi trường từ:
Cơ sở sản xuất công nghiệp;
Cơ sở chế biến thực phẩm, nông sản, lâm sản, thủy sản; cơ sở hoạt động giết mổ gia súc;
Cơ sở sản xuất rượu, bia, nước giải khát; cơ sở thuộc da, tái chế da;
Cơ sở sản xuất thủ công nghiệp trong các làng nghề;
Cơ sở chăn nuôi công nghiệp tập trung;
Cơ sở cơ khí, sửa chữa ô tô, xe máy tập trung;
Cơ sở khai thác và chế biến khoáng sản;
Cơ sở nuôi tôm công nghiệp; cơ sở sản xuất và ươm tôm giống;
Nhà máy cấp nước sạch; hệ thống xứ lý nước thải tập trung.
Nước thải sinh hoạt là nước thải ra môi trường từ:
Hộ gia đình;
Cơ quan nhà nước;
Đơn vị vũ trang nhân dân;
Trụ sở điều hành, chi nhánh văn phòng của các tổ chức cá nhân;
Các cơ sở rửa ô tô; xe máy;
Bệnh viện; phòng khám chữa bệnh; nhà hàng, khách sạn; cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ khác;
Các đối tượng khác có nước thải không thuộc đối tượng quy định tại hai điểm a, b trên.
Đối tượng không chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải.
Đối tượng không chịu thuế bảo vệ môi trường đối với nước thải bao gồm:
Nước xả ra từ các nhà máy thủy điện, nước tuần hoàn trong các nhà máy, cơ sở sản xuất kinh doanh.
Nước biển dùng làm sản xuất muối xả ra;
Nước thải sinh hoạt của hộ gia đình ở địa phương đang được nhà nước thực hiện chế độ bù giá đề có giá nước phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội;
Nước thải sinh hoạt hộ gia đình ở những nơi chưa có hệ thống cấp nước sạch;
Nước thải sinh hoạt của hộ gia đình ở các xã thuộc vùng nông thôn, bao gồm:
Các xã thuộc biên giới, miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa (theo quy định Chính phủ về xã biên giới, miền núi, vùng sâu, vùng xa);
Các xã không thuộc đô thị đặc biệt, đô thị loại I, II, III, IV và V theo quy định tại Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 05/10/2001 của Chính phủ về phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị.
Đối tượng nôp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải là hộ gia đình, tổ chức có nước thải được liệt kê trên mục trên.
Tính phí bảo vệ môi trường với nước thải tại Việt Nam.
Tính phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt.
Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt được tính theo tỷ lệ phần trăm (%) trên giá bán của 1m3 (một mét khối) nước sạch, nhưng tối đa không quá 10% (mười phần trăm) của giá bán nước sạch chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng.
Đối với nước thải sinh hoạt thải ra từ các tổ chức, hộ gia đình tự khai thác nước để sử dụng (trừ hộ gia đình ở những nơi chưa có hệ thống cấp nước sạch) thì mức thu được xác định theo từng người sử dụng nước, căn cứ vào số lượng nước sử dụng bình quân của một người trong xã, phường nơi khai thác và giá bán 1m3 (một mét khối) nước sạch trung bình tại xã, phường.
Căn cứ quy định về mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt tại khoản 1 Điều 6 Nghị định 67/2003/NĐ-CP và tình hình kinh tế - xã hội, đời sống, thu nhập của nhân dân ở địa phương, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt áp dụng cho từng địa bàn, từng loại đối tượng cụ thể tại địa phương để trình Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.
Số phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt được xác định như sau:
Trường hợp mức thu phí được quy định theo tỷ lệ phần trăm trên giá bán nước sạch:
Số phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt phải nộp (đồng)
=
Số lượng nước sạch sử dụng của đối tượng nộp phí (m3)
X
Giá bán nước sạch chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng (đồng/m3)
X
Tỷ lệ thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt theo quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (%)
Trường hợp mức thu phí được quy định bằng một số tiền nhất định:
Số phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt phải nộp (đồng)
=
Số lượng nước sạch sử dụng của đối tượng nộp phí (m3)
X
Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt theo quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (đồng/m3)
Số lượng nước sạch sử dụng được xác định theo đồng hồ đo lượng nước sạch tiêu thụ của đối tượng nộp phí. Trường hợp đối tượng nộp phí chưa lắp được đồng hồ đo lượng nước sạch tiêu thụ thì áp dụng theo định mức khoán lượng nước sạch tiêu thụ đối với từng loại đối tượng sử dụng nước sạch do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định cho phù hợp với từng loại đối tượng sử dụng nước sạch.
Trường hợp tự khai thác nước thì số lượng nước sạch sử dụng được xác định căn cứ vào số người theo sổ hộ khẩu gia đình (đối với hộ gia đình) hoặc bả