Qua 20 năm đổi mới, sự phát triển KT-XH đất nước ta đạt được những thành tựu
rực rỡ, kinh tế luôn đạt mức tăng trưởng cao, năm sau cao hơn năm trước và phát triển
tương đối toàn diện; vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá nhanh; cơ cấu kinh tế cả nước tiếp tục
chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng CN và DV; nông nghiệp, nông thôn được xác
định là mục tiêu trọng tâm trước mắt và đã đạt được một số kết quả bước đầu. Tuy nhiên,
đi kèm với những thành tựu đó là những yếu kém, hạn chế như: Tăng trưởng kinh tế chưa
tương xứng với khả năng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm; “khoảng cách về thu
nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng doãng ra” [6,
tr.63] và đang đặt ra hàng loạt vấn đề cần giải quyết, trong đó “đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông
thôn và nông dân” [6, tr.68] là vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách.
Nhìn chung các huyện ở nước ta hiện nay, nông nghiệp vẫn chiếm phần chủ yếu
trong cơ cấu kinh tế. CN, DV tuy đã có những bước đi tạo nên những chuyển biến tích
cực, nhưng so với yêu cầu phát triển chung vẫn còn rất xa. Trong khi đó, các công cụ đòn
bẩy kinh tế như thuế, tài chính, tiền tệ, tín dụng ngân hàng. chưa đủ mạnh để phát huy hết
vai trò của mình đối với sự phát triển KT-XH khu vực nông nghiệp nông thôn. Tại nhiều
địa phương cơ chế chính sách đôi khi chưa thật sự tương thích với hoạt động của các công
cụ này, vai trò của tín dụng ngân hàng đôi khi bị bỏ qua hoặc xem nhẹ.
Đại Lộc (Quảng Nam) là một huyện trung du, có đến 3/4 diện tích tự nhiên là đất
rừng, núi. Qua 2 cuộc chiến tranh, vùng đất này bị tàn phá dữ dội, để lại di chứng nặng nề
cả về mặt thiên nhiên, đất đai, con người, xã hội. Qua 20 năm đổi mới, Đảng bộ và nhân
dân huyện Đại Lộc đã vượt lên trên những khó khăn mất mát để biến nơi đây thành một
vùng đất đầy sôi động với nhiều chương trình dự án đã và đang xúc tiến mạnh mẽ thu hút
đầu tư. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIX đã xác định phấn đấu xây
dựng huyện cơ bản trở thành huyện công nghiệp vào những năm 2010 – 2015. Để đạt được
mục tiêu đó trước hết phải phát huy các nguồn nội lực ở huyện, kết hợp nội lực với ngoại
lực để tạo ra hợp lực của sự phát triển KT-XH.
89 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1755 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tín dụng ở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với phát triển kinh tế - Xã hội ở Đại Lộc, Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn đối với phát triển kinh tế - xã
hội ở Đại Lộc, Quảng Nam
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua 20 năm đổi mới, sự phát triển KT-XH đất nước ta đạt được những thành tựu
rực rỡ, kinh tế luôn đạt mức tăng trưởng cao, năm sau cao hơn năm trước và phát triển
tương đối toàn diện; vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá nhanh; cơ cấu kinh tế cả nước tiếp tục
chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng CN và DV; nông nghiệp, nông thôn được xác
định là mục tiêu trọng tâm trước mắt và đã đạt được một số kết quả bước đầu. Tuy nhiên,
đi kèm với những thành tựu đó là những yếu kém, hạn chế như: Tăng trưởng kinh tế chưa
tương xứng với khả năng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm; “khoảng cách về thu
nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng doãng ra” [6,
tr.63] và đang đặt ra hàng loạt vấn đề cần giải quyết, trong đó “đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông
thôn và nông dân” [6, tr.68] là vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách.
Nhìn chung các huyện ở nước ta hiện nay, nông nghiệp vẫn chiếm phần chủ yếu
trong cơ cấu kinh tế. CN, DV tuy đã có những bước đi tạo nên những chuyển biến tích
cực, nhưng so với yêu cầu phát triển chung vẫn còn rất xa. Trong khi đó, các công cụ đòn
bẩy kinh tế như thuế, tài chính, tiền tệ, tín dụng ngân hàng... chưa đủ mạnh để phát huy hết
vai trò của mình đối với sự phát triển KT-XH khu vực nông nghiệp nông thôn. Tại nhiều
địa phương cơ chế chính sách đôi khi chưa thật sự tương thích với hoạt động của các công
cụ này, vai trò của tín dụng ngân hàng đôi khi bị bỏ qua hoặc xem nhẹ...
Đại Lộc (Quảng Nam) là một huyện trung du, có đến 3/4 diện tích tự nhiên là đất
rừng, núi. Qua 2 cuộc chiến tranh, vùng đất này bị tàn phá dữ dội, để lại di chứng nặng nề
cả về mặt thiên nhiên, đất đai, con người, xã hội. Qua 20 năm đổi mới, Đảng bộ và nhân
dân huyện Đại Lộc đã vượt lên trên những khó khăn mất mát để biến nơi đây thành một
vùng đất đầy sôi động với nhiều chương trình dự án đã và đang xúc tiến mạnh mẽ thu hút
đầu tư. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIX đã xác định phấn đấu xây
dựng huyện cơ bản trở thành huyện công nghiệp vào những năm 2010 – 2015. Để đạt được
mục tiêu đó trước hết phải phát huy các nguồn nội lực ở huyện, kết hợp nội lực với ngoại
lực để tạo ra hợp lực của sự phát triển KT-XH.
Một trong những nguồn lực cần huy động cho sự phát triển KT-XH ở huyện Đại
Lộc là nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi trong dân cư trên địa bàn thông qua hệ thống tín dụng
ngân hàng, kết hợp với nguồn vốn huy động được trong huyện với ngoài huyện, ngoài tỉnh,
ngoài nước…Tuy vậy, trên thực tế ở nước ta nói chung, Đại Lộc nói riêng, việc nhận thức
đúng đắn vị trí, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với phát triển KT-XH huyện đang còn
nhiều bất cập. Là người nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, gắn bó với địa bàn
nông nghiệp, nông thôn, tác giả luận văn nhận thấy, trong giai đoạn hiện nay việc nghiên
cứu để nhận thức đúng vị trí, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với phát triển KT-XH
đang là vấn đề nóng, không chỉ của riêng ngành Ngân hàng, mà còn là của xã hội. Từ
những lý do trên, tác giả chọn “Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn đối với phát triển kinh tế - xó hội ở Đại Lộc, Quảng Nam” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp Cao học Kinh tế chính trị, với lòng mong muốn góp phần làm rõ vị trí, vai trò
của tín dụng ngân hàng đối với chiến lược phát triển KT-XH, đề xuất những quan điểm,
giải pháp đúng đắn sử dụng công cụ tín dụng ngân hàng và nâng cao vai trò của nó để tác
động vào quá trình phát triển KT-XH, không chỉ trên địa bàn huyện Đại Lộc mà còn có thể
áp dụng cho các huyện trung du, đồng bằng có điều kiện tương tự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về hoạt động tín dụng, vai trò của tín dụng cho phát triển KT-XH đã có nhiều công
trình, bài viết được công bố và đăng tải. Tiêu biểu như:
- Đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp,
nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Luận văn Thạc sỹ Kinh tế (Chuyên ngành Quản
lý kinh tế), Võ Văn Lâm, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1999.
- Tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn nhằm phát triển ngành
nông nghiệp tại tỉnh Thanh Hoá. Luận văn Thạc sỹ kinh tế (Chuyên ngành Kinh tế phát
triển), Đặng Ngọc Ba, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
- Giải pháp tín dụng ngân hàng góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn
trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Luận văn Thạc sỹ Kinh tế (Chuyên ngành Kinh tế tài chính – ngân
hàng), Phan Xuân Sinh, Học viện Ngân hàng, 2006.
- Đẩy mạnh tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. PGS-TS
Đỗ Tất Ngọc, Tạp chí Tài chính tiền tệ ( Số 1), 4.2005
Tuy nhiên, những công trình, tác phẩm đó được tiếp cận từ nhiều giác độ và mục
đích khác nhau: đổi mới tín dụng để phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tín dụng cho
kinh tế nông nghiệp nông thôn; tín dụng cho phát triển làng nghề; tín dụng với kinh tế tư
nhân v.v.. Nhưng vấn đề tín dụng của NHNo&PTNT đối với phát triển KT-XH trên địa
bàn huyện Đại Lộc thì chưa có công trình nào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ vị trí, vai trò tín dụng của NHNo&PTNT đối với phát triển KT-XH trên địa
bàn huyện. Đánh giá đúng đắn thực trạng quan hệ tín dụng giữa NHNo&PTNT với các chủ
thể trên địa bàn để đề xuất các giải pháp tín dụng thúc đẩy phát triển KT-XH ở huyện Đại
Lộc.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ về mặt lý luận vai trò tín dụng của NHNo&PTNT đối với phát triển KT-
XH trên địa bàn huyện.
- Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT đối với phát
triển KT-XH ở Đại Lộc, Quảng Nam.
- Đề xuất các quan điểm sử dụng công cụ tín dụng và một số giải pháp phát huy vai
trò tín dụng của NHNo&PTNT đối với phát triển KT-XH ở Đại Lộc, Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quan hệ tín dụng giữa NHNo&PTNT với các chủ thể khác trong quá
trình phát triển KT-XH ở Đại Lộc, Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn chủ yếu nghiên cứu quan hệ tín dụng giữa NHNo&PTNT
với các chủ thể kinh tế trên địa bàn Đại Lộc, Quảng Nam.
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng từ 2001 đến 2005 và đề xuất các giải pháp
cho giai đoạn 2006 - 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác Lênin vào
nghiên cứu đề tài dưới góc độ kinh tế - chính trị thông qua phương pháp trừu tượng hoá.
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp: điều tra
khảo sát, thu thập số liệu, tư liệu, phân tổ, phân tích để rút ra các kết luận cần thiết.
6. Đóng góp của đề tài nghiên cứu
- Luận giải vai trò của tín dụng NHNo&PTNT đối với phát triển KT-XH trên địa
bàn huyện.
- Phân tích đánh giá đúng thực trạng hoạt động và vai trò của tín dụng NHNo&PTNT đối
với sự phát triển KT-XH trên địa bàn Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của tín dụng
NHNo&PTNT đối với sự phát triển KT-XH ở Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu
gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Tín dụng và vai trò của tín dụng
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
đối với phát triển kinh tế - xã hội ở huyện
1.1. Tín dụng trên địa bàn huyện
1.1.1. Khái niệm và bản chất tín dụng
Tín dụng có nguồn gốc từ thuật ngữ la tinh “Credittum”, có nghĩa gốc là sự tin
tưởng, tín nhiệm, theo nghĩa thông thường được hiểu là tin tưởng và sử dụng. Trong KTCT
học, tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá, là hình thức vận động của vốn vay, nó
biểu thị mối quan hệ dựa trên nền tảng của lòng tin giữa một bên là sở hữu tài sản và một
bên là có nhu cầu sử dụng tài sản đó.
Theo Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác - Lênin, “Tín dụng phản ánh quan hệ kinh tế
giữa chủ thể sở hữu và các chủ thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế trên nguyên
tắc hoàn trả có kỳ hạn cả gốc lẫn lợi tức” [9, tr.594].
Như vậy, về bản chất, tín dụng bao gồm các nội dung sau:
- Nhượng quyền sử dụng tài sản (bằng tiền hay tài sản có giá trị bằng tiền) chứ
không nhượng quyền sở hữu tài sản.
- Phải hoàn trả theo thời hạn nhất định.
- Phải trả cả lợi tức (lãi).
C.Mác viết: “Tín dụng là hình thức xã hội của của cải” [17, tr.327]. Quan hệ tín
dụng là một bộ phận của quan hệ sản xuất xã hội, do đó nó lệ thuộc vào bản chất cuả xã
hội.
Dưới chế độ phong kiến, quan hệ giữa người cho vay với người đi vay phổ biến là
cho vay nặng lãi. Lợi tức cho vay là rất cao, người cho vay thu toàn bộ sản phẩm thặng dư
và có khi còn lấy vào phần sản phẩm tất yếu của người đi vay. Tư bản cho vay nặng lãi
dựa trên quan hệ người cho vay bắt bí, bắt chẹt người đi vay, nhất là những người sản xuất
nhỏ mỗi khi xảy ra thiên tai địch hoạ.
Trong nền sản xuất TBCN, tín dụng là hình thức vận động của tư bản cho vay, đảm
bảo lợi ích của người đi vay, lợi tức chỉ là một bộ phận của lợi nhuận bình quân mà người
đi vay đem trả cho người cho vay, nhằm mục đích phân phối lại tư bản, đưa tư bản nhàn
rỗi vào hoạt động để tạo ra giá trị thặng dư đem lại lợi ích cho người đi vay và người cho
vay.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN “Nhà nước quản lý tín dụng nhằm
đảm bảo hài hoà lợi ích của chủ thể cho vay và đi vay với lợi ích chung của toàn xã hội”
[36, tr.113]. Đặc điểm chung của quan hệ tín dụng hiện nay ở nước ta là có nhiều chủ thể
cùng có quan hệ tín dụng với nhau nhằm thực hiện những mục tiêu kinh doanh với những
nguồn lợi tức khác nhau. Do đó, các tổ chức tín dụng luôn có mối quan hệ vừa hợp tác vừa
cạnh tranh, dưới sự bảo đảm của pháp luật. Trong môi trường đó, các tổ chức tín dụng của
Nhà nước phải không ngừng lớn mạnh để nắm giữ và làm tốt vai trò chủ đạo đối với thị
trường tài chính tiền tệ và tín dụng, đảm bảo định hướng XHCN trong quan hệ tín dụng
toàn xã hội.
1.1.2. Đặc điểm và mối quan hệ của các hình thức tín dụng trên địa bàn huyện
1.1.2.1. Đặc điểm của các hình thức tín dụng trên địa bàn huyện
Địa bàn huyện ở nước ta hiện nay tuy là cùng cấp hành chính với quận thuộc thành
phố, thị xã thuộc tỉnh, song về mặt kinh tế, huyện thuộc khu vực nông nghiệp, nông thôn,
không có tính tập trung đông dân cư và có CN, DV phát triển như thị xã và quận.
Do kinh tế trên địa bàn huyện còn kém phát triển, nên hiện nay tín dụng cho vay
nặng lãi vẫn tồn tại bên cạnh các hình tức khác là tín dụng thương mại, tín dụng ngân
hàng, tín dụng nhà nước và tín dụng tập thể.
- Tín dụng cho vay nặng lãi:
Là hình thức tín dụng xuất hiện từ giai đoạn của chế độ nô lệ và phát triển mạnh
vào giai đoạn chế độ phong kiến. Tuy nhiên, ngày nay tín dụng nặng lãi vẫn còn tồn tại dai
dẵng ở nhiều nước. ở nước ta, trong điều kiện tín dụng ngân hàng chưa đến với người dân
kịp thời thì tín dụng cho vay nặng lãi vẫn tồn tại dưới nhiều hình thức như: “bốc nóng”,
“biêu”, “hụi”, “họ”... Chính các hình thức này là nguyên nhân của rất nhiều vấn đề bức xúc
của xã hội.
Đặc điểm của tín dụng cho vay nặng lãi:
Có lãi suất rất cao so với các loại tín dụng khác, thường vượt xa quá mức sản phẩm
thặng dư;
Sự tồn tại của hình thức tín dụng cho vay nặng lãi là do nhu cầu sản xuất và tiêu dùng;
gia đình gặp thiên tai địch hoạ hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh.
Hình thức cho vay gồm cả tiền, hiện vật, dịch vụ, việc trả nợ cũng có thể là tiền,
hiện vật, dịch vụ.
Tác hại của tín dụng nặng lãi đã được C.Mác đánh giá:
Nó không làm cho phương thức sản xuất thay đổi, nhưng bám chặt các vòi
của nó vào phương thức sản xuất này như giống ký sinh trùng và làm cho nền
sản xuất trở nên bần cùng. Nó làm cho sản xuất trở nên khánh kiệt, rút hết sức
lực của nền sản xuất và khiến cho việc tái sản xuất phải tiến hành trong những
điều kiện ngày càng thảm hại [17, tr.357].
- Tín dụng thương mại:
Tín dụng thương mại là việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ của một bên cho bên còn
lại, theo cách không trả tiền ngay mà được chịu nợ với kỳ hạn và lợi tức nhất định. Tín
dụng thương mại có mặt ở tất cả các quy mô lớn nhỏ của quan hệ mua bán, từ những hợp
đồng mua bán lớn giữa các doanh nghiệp với nhau, đến các hợp đồng cung ứng hàng hoá, dịch
vụ phục vụ cho tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình. Từ lý do đó, tín dụng thương mại là hình
thức tín dụng phổ biến và không thể thiếu trên mọi địa bàn trong nền kinh tế thị trường.
Tín dụng thương mại có đặc điểm:
Số vốn tiền tệ cho vay là giá trị hàng hoá bán được, tính thêm cả lãi suất của người
sản xuất, kinh doanh, thực hiện trong quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
Giá trị hàng hoá cho vay là một bộ phận trong vốn lưu động của người vay;
Quan hệ tín dụng thương mại dựa trên cơ sở của sự tín nhiệm giữa các nhà sản xuất
kinh doanh với nhau, giữa các nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Hình thức thực hiện tín dụng thương mại là giấy biên nhận cam kết nghĩa vụ trả nợ
của bên mua cho bên bán theo kỳ hạn cụ thể. Những giấy biên nhận đó được gọi là hối
phiếu thương mại hay thương phiếu.
- Tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua vai trò trung
tâm của ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng rất quan trọng trên địa bàn huyện, đáp ứng
được phần lớn các nhu cầu về tín dụng cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân. Tín
dụng ngân hàng gắn liền với trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường, do vậy quy mô và
chất lượng phát triển của tín dụng ngân hàng chứng tỏ được trình độ phát triển của thị trường
và nền kinh tế.
Tuỳ theo tiêu chí khảo sát, tín dụng ngân hàng được phân chia thành nhiều loại
khác nhau. Nếu xét theo thời hạn thì có tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Xét theo
đối tượng đầu tư thì có tín dụng vốn lưu động và tín dụng vốn cố định. Nhưng nếu xét theo
loại hình sở hữu thì tín dụng ngân hàng gồm có tín dụng NHTMNN, tín dụng ngân hàng
chính sách, tín dụng ngân hàng phát triển; Theo lĩnh vực kinh doanh có tín dụng của
NHCT, NHNT, NHĐT&PT, NHNo&PTNT, NHTMCP, ngân hàng nước ngoài...
Hiện nay ở nước ta, với nhiều mức độ và hình thức thâm nhập khác nhau, trên địa
bàn huyện hầu như đều có mặt tất cả các loại hình tín dụng ngân hàng nêu trên. Tuy nhiên,
ở đại bộ phận huyện, kinh tế nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế,
tín dụng của NHNo&PTNT vẫn luôn chiếm phần chủ yếu, đại diện cho NHTMNN, có vai
trò chủ đạo, chủ lực đối với thị trường tài chính, tiền tệ, tín dụng và sự phát triển KT-XH ở
khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện có những đặc thù riêng, đó là:
Một là, đối tượng của tín dụng NHNo&PTNT trên địa bàn huyện chủ yếu là phục
vụ cho nông nghiệp, nông thôn, phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên, tính rũi ro cao,
vòng quay tín dụng thấp, thời hạn cho vay dài (chủ yếu là trung và dài hạn).
Địa bàn huyện có kinh tế nông nghiệp chiếm phần chủ yếu, do vậy tín dụng của
NHNo&PTNT trên địa bàn huyện, dù là dưới hình thức nào, đa phần cũng xuất phát chủ
yếu từ nhu cầu sản xuất nông nghiệp, phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn hoặc tiêu dùng.
Từ đó, sự vận động của tín dụng phụ thuộc rất lớn vào tính mùa vụ, điều kiện tự nhiên,
thời hạn luân chuyển của vốn vì thế mà bị kéo dài, tính rủi ro cao.
Hai là, quy trình kỹ thuật tín dụng áp dụng phức tạp, chi phí lớn.
Đối tượng phục vụ của tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện chủ yếu là
những đối tượng sinh học (cây, con) phục vụ cho nông nghiệp, có vòng đời sinh trưởng
khác nhau. Yêu cầu của việc đầu tư tín dụng là phải nắm bắt được quá trình phát triển của
cây trồng, con vật nuôi. Do vậy, công tác thẩm định để đầu tư đòi hỏi quy trình kỹ thuật
phức tạp, áp dụng riêng cho từng loại đối tượng vay vốn. Chi phí thẩm định vì thế mà có
thể rất cao.
Ba là, ý thức chấp hành kỷ cương pháp luật, trình độ sản xuất kinh doanh và năng
lực hạch toán kinh tế của người vay trong quan hệ tín dụng trên địa bàn huyện là thấp.
Phần lớn chủ thể vay vốn trong quan hệ tín dụng trên địa bàn huyện chủ yếu là
nông dân, đầu tư vào lĩnh vực chính là nông nghiệp, nông thôn. Trình độ hạch toán kinh tế
của người vay, ý thức chấp hành kỷ cương pháp luật nói chung là thấp. Người vay vốn
không ý thức được đầy đủ việc chấp hành các quy trình tín dụng, kỷ cương pháp luật, thiếu
khả năng hạch toán kinh tế và trình độ kỹ thuật để có thể tự xây dựng được những dự án
đầu tư hiệu quả, chỉ làm theo kinh nghiệm là chính. Từ đó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả
và rũi ro tín dụng.
Bốn là, tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện có tính đảm bảo bằng tài
sản thấp, chủ yếu dựa trên chữ tín.
Do tín dụng của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện có tính rũi ro cao nên muốn đảm
bảo tính an toàn các chi nhánh NHNo&PTNT đều phải lấy thế chấp tài sản làm điều kiện
quyết định để cho vay. Tuy nhiên, điều nghịch lý là tài sản thế chấp ở nông thôn thì thường
có giá trị thấp, khó thanh lý khi quan hệ tín dụng bị phá vỡ. Từ lý do đó, thực chất quan hệ
tín dụng trên địa bàn huyện đều phải chủ yếu dựa trên chữ tín để quyết định cho vay.
Trong nhiều trường hợp có tài sản làm đảm bảo nhưng đó cũng chỉ là điều kiện chủ thể
cho vay ràng buộc người vay tôn trọng hợp đồng, tìm nguồn khác trả nợ khi việc làm ăn
thất bại, chứ không phải với mục đích thanh lý tài sản thế chấp để thu nợ. Thực tế cho thấy
tỷ lệ thanh lý, phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi vốn vay thành công đạt được là rất thấp.
Đây là một tính chất rất đặc thù của các hình thức tín dụng trên địa bàn huyện hiện nay.
- Tín dụng nhà nước:
Tín dụng nhà nước là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi theo thời hạn nhất
định, giữa nhà nước với các tổ chức kinh tế, với các tầng lớp dân cư, với nước ngoài...
Trong hình thức này, nhà nước là người đi vay bằng cách phát hành công trái, trái
phiếu có mục đích, tín phiếu kho bạc... nhằm bổ sung vào khoản ngân sách bị thiếu hụt,
thực hiện các chương trình dự án lớn có tầm cỡ quốc gia. Mặt khác, nhà nước cũng có thể
là người cho vay, trong các chương trình tài trợ vốn có mục đích – thông qua các trung
gian tài chính, tín dụng của nhà nước – nhằm khắc phục thiên tai, xoá đói giảm nghèo...
ở nước ta tín dụng nhà nước do Chính phủ thực hiện huy động vốn hoặc Chính phủ
cho phép chính quyền nhà nước cấp tỉnh, thành phố huy động vốn qua phát hành trái phiếu
có sự bảo lãnh của Chính phủ. Chính quyền nhà nước cấp huyện trở xuống không được
phép phát hành trái phiếu. Song chính quyền nhà nước cấp huyện và cấp xã lại có vai trò
rất quan trọng trong việc huy động và sử dụng vốn tín dụng nhà nước trên địa bàn.
- Tín dụng tập thể:
Là hình thức tín dụng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, hợp tác, giữa các tổ chức, cá
nhân và hộ gia đình, thành lập để cho vay giữa tổ chức và thành viên, kinh doanh tiền tệ và
làm dịch vụ ngân hàng, theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và Luật Hợp tác xã.
Mục đích chủ yếu của hình thức tín dụng tập thể là tương trợ để phát triển sản xuất kinh
doanh và đời sống.
ở nước ta, hình thức tín dụng tập thể từng được hình thành với các tên gọi: hợp tác
xã tín dụng, quỹ tín dụng, quỹ tín dụng nhân dân... Tuy nhiên, qua quá trình biến động, đổ
vỡ hàng loạt các quỹ tín dụng vào những năm 1988, 1989, theo Chỉ thị số 57/CT-TW,
ngày 10/10/2000 của Bộ Chính trị và Nghị định số 48/2001/NĐ-CP, ngày 13/8/2001 của
Chính Phủ, loại hình tín dụng tập thể đã được củng cố và hoàn thiện lại, chỉ với tên gọi là
Quỹ tín dụng nhân dân. Hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân hiện nay gồm Quỹ tín dụng nhân
dân trung ương với 24 chi nhánh và 898 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở [31, tr.105]. Thị phần
hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân hiện nay còn tương đối nhỏ (dưới 2%), nhưng nó có
vai trò rất quan trọng đối với n