Tín ngưỡng, tôn giáo đã xuất hiện từ  xa xưa trong lịch sử  loài người. Nó tồn tại, 
phát triển và có  ảnh hưởng mạnh mẽ  tới mọi mặt của đời sống xã hội.  Với hình thức 
manh nha là tín ngưỡng nguyên thủy như thờ  thần, thờ  cây, muông thú tới những hình 
thức tôn giáo có giáo lý, tổ  chức chặt chẽ... Tín ngưỡng, tôn giáo đã trở  thành một thành 
tố  quan trọng của nền văn hóa, là nhu cầu tinh thần của một bộ  phận người, đang và sẽ
tồn tại lâu dài cùng tiến trình phát triển của xã hội loài người.
Trong một vài thập kỷ  gần đây, vấn đề  tín ngưỡng, tôn giáo trên thế  giới có xu 
hướng phát triển và có những diễn biến phức tạp liên quan đến vấn đề  xung đột dân tộc, 
sắc tộc  ở  nhiều quốc gia dân tộc đã và  đang thu hút sự  quan tâm, nghiên cứu của nhiều 
người, đặc biệt là các nhà nghiên cứu, các nhà chính trị, các nhà hoạch định chính sách...
Trong giai đoạn hiện nay, xu thế  khu vực hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, 
tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, môi trường, giáo dục, 
y tế, quan hệ  ngoại giao, vấn đề  nghèo đói, vấn đề  nhân quyền... của các nước trên thế
giới. Đặc biệt, đối với văn hóa, quá trình toàn cầu hóa đã và  đang gây ra nguy cơ suy
thoái văn hóa, bị nô dịch về  văn hóa ở một số  quốc gia, mà trước hết là các nước chậm và 
đang phát triển. Chính vì vậy, việc bảo tồn và phát triển văn hóa bản địa là một nhu cầu 
cấp thiết nhằm giữ  gìn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. 
Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo với sáu tôn giáo lớn hiện nay đã 
được công nhận tư cách pháp nhân. Năm 1990, Bộ  Chính trị  ra Nghị  quyết 24, xác định 
“Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một 
bộ  phận nhân dân...”. Tiếp theo, ngày 12 tháng 03 năm 2003, tại Hội nghị  lần thứ  bảy 
Ban chấp hành Trung ương khóa IX đã ra nghị  quyết số  25-NQ/TW, xác định: “Tín 
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ  phận nhân dân, đang và sẽ  tồn tại cùng 
dân tộc trong quá trình xây dựng chủ  nghĩa xã hội  ở  nước ta”. Các hình thức tín ngưỡng 
dân gian ở  Việt Nam rất phong phú và đa dạng, trong đó có các hình thức tín ngưỡng phổ
biến như: thờ  cúng tổ  tiên, thờ  thần, thờ  mẫu, thờ  các vị  anh hùng dân tộc, những người 
có công với nhân dân, có công lập  ấp, truyền nghề... Những hình thức tín ngưỡng này có 
lịch sử lâu đời, tồn tại cùng với quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 82 trang
82 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 4358 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tín ngưỡng Thành hoàng ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 LUẬN VĂN: 
Tín ngưỡng Thành hoàng 
ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay 
Mở đầu 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Tín ngưỡng, tôn giáo đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử loài người. Nó tồn tại, 
phát triển và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã hội. Với hình thức 
manh nha là tín ngưỡng nguyên thủy như thờ thần, thờ cây, muông thú tới những hình 
thức tôn giáo có giáo lý, tổ chức chặt chẽ... Tín ngưỡng, tôn giáo đã trở thành một thành 
tố quan trọng của nền văn hóa, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận người, đang và sẽ 
tồn tại lâu dài cùng tiến trình phát triển của xã hội loài người. 
Trong một vài thập kỷ gần đây, vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trên thế giới có xu 
hướng phát triển và có những diễn biến phức tạp liên quan đến vấn đề xung đột dân tộc, 
sắc tộc ở nhiều quốc gia dân tộc đã và đang thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều 
người, đặc biệt là các nhà nghiên cứu, các nhà chính trị, các nhà hoạch định chính sách... 
Trong giai đoạn hiện nay, xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, 
tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, môi trường, giáo dục, 
y tế, quan hệ ngoại giao, vấn đề nghèo đói, vấn đề nhân quyền... của các nước trên thế 
giới. Đặc biệt, đối với văn hóa, quá trình toàn cầu hóa đã và đang gây ra nguy cơ suy 
thoái văn hóa, bị nô dịch về văn hóa ở một số quốc gia, mà trước hết là các nước chậm và 
đang phát triển. Chính vì vậy, việc bảo tồn và phát triển văn hóa bản địa là một nhu cầu 
cấp thiết nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. 
Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo với sáu tôn giáo lớn hiện nay đã 
được công nhận tư cách pháp nhân. Năm 1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 24, xác định 
“Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một 
bộ phận nhân dân...”. Tiếp theo, ngày 12 tháng 03 năm 2003, tại Hội nghị lần thứ bảy 
Ban chấp hành Trung ương khóa IX đã ra nghị quyết số 25-NQ/TW, xác định: “Tín 
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng 
dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Các hình thức tín ngưỡng 
dân gian ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng, trong đó có các hình thức tín ngưỡng phổ 
biến như: thờ cúng tổ tiên, thờ thần, thờ mẫu, thờ các vị anh hùng dân tộc, những người 
có công với nhân dân, có công lập ấp, truyền nghề... Những hình thức tín ngưỡng này có 
lịch sử lâu đời, tồn tại cùng với quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta. 
Công cuộc đổi mới đất nước trong hai mươi năm qua đã đạt được rất nhiều thành 
tựu quan trọng trên mọi mặt của đời sống xã hội. Trên lĩnh vực tôn giáo, sau Nghị quyết 
24/NQ-TW của Bộ chính trị về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”. 
Ngày 21/03/1991 Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định 69/NĐ/HĐBT, quy định về các hoạt 
động tôn giáo, thể hiện chủ trương đổi mới chính sách đối với các hoạt động tôn giáo, tín 
ngưỡng. 
Thờ cúng tổ tiên, tôn vinh các anh hùng có công với dân với nước vừa là tín ngưỡng 
vừa là đạo lý làm người, đồng thời cũng là nét đẹp của văn hóa dân tộc. Kế thừa tư tưởng 
của Hồ Chủ tịch và nguyện vọng của đa số nhân dân, Văn kiện Hội nghị Trung ương lần 
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX nêu quan điểm: “Giữ gìn và phát huy những 
giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ 
quốc và nhân dân”. 
Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam là một tín ngưỡng phổ biến trong cả nước. ở các 
làng, xã nông thôn Việt Nam, Thành hoàng là một niềm tin thiêng liêng, là một chỗ dựa 
tinh thần cho cộng đồng từ bao đời nay. Theo quan niệm của người dân, đối với cộng 
đồng làng xã, Thành hoàng có chức năng giám sát việc làm, hành vi của mỗi thành viên 
của cộng đồng, hướng họ tới cái thiện. Sự trách phạt của Thành hoàng, thực chất là sự 
trừng phạt của bản thân mình, ở đây Thành hoàng đại diện như một Đấng phán xét uy 
linh. Đối với bên ngoài, Thành hoàng khống chế tất cả những tác động gây thiệt hại cho 
cộng đồng như: thiên tai, bệnh dịch, cướp bóc ... Đối với cộng đồng, Thành hoàng góp 
phần giáo dục, lưu giữ truyền thống về làng; “Thành hoàng và ngôi đình là một biểu 
tượng, một thành tố tạo nên cái truyền thống làng, tâm lý làng không thể thiếu được trong 
đời sống con người Việt Nam” [50, tr.10]. 
Bắc Ninh là một trong những cái nôi văn hóa của đồng bằng Bắc bộ. Hầu hết các 
làng, xã ở Bắc Ninh đều có đình, đền, miếu làng cùng với các lễ hội truyền thống diễn ra 
hàng năm. Trên mảnh đất Bắc Ninh – Kinh bắc vẫn còn lưu giữ được kho tàng di sản văn 
hóa vô cùng phong phú và đặc sắc trong đó có hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa và 
sinh hoạt lễ hội truyền thống, sinh hoạt văn hóa dân gian. Đó là tài sản vật chất và tinh 
thần vô giá cần phải được duy trì và phát huy. Trong những năm gần đây, các lễ hội liên 
quan đến Thành hoàng làng đã và đang có xu hướng phát triển và có những diễn biến mới 
ở các làng xã trên địa bàn tỉnh. Hoạt động lễ hội đã có những đóng góp tích cực đối với 
đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trong tỉnh nói riêng và với công cuộc duy trì và 
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng, Nhà nước 
và nhân dân ta nói chung. Tuy nhiên, nó cũng có những mặt hạn chế nhất định cần được 
nghiên cứu, xem xét để giúp các cấp chính quyền có những điều chỉnh nhất định nhằm 
định hướng cho các hoạt động của tín ngưỡng Thành hoàng trên địa bàn tỉnh, góp phần 
giáo dục truyền thống làng xã đùm bọc lẫn nhau, uống nước nhớ nguồn từ hàng nghìn 
năm nay của dân tộc ta cũng như của nhân dân tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Chính vì vậy, tác 
giả chọn đề tài nghiên cứu về “Tín ngưỡng Thành hoàng ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay” 
làm luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Tôn giáo học. 
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 
Đã có một số công trình của các cá nhân và tập thể nghiên cứu về Thành hoàng 
Việt Nam và một số vùng miền. Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu: “Thờ thần ở Việt 
Nam” của tác giả Lê Xuân Quang, Nxb. Hải Phòng, năm 1996; “Từ điển lễ tục Việt 
Nam”, Nxb Văn hóa - Thông tin, năm 1996; “Thành hoàng Việt Nam” của nhóm tác giả 
Phạm Minh Thảo, Trần Thị An và Bùi Xuân Mỹ, Nxb Văn hóa - Thông tin, năm 1997; 
“Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả Chu 
Quang Trứ (2000); “Tín ngưỡng dân gian Việt Nam” của tác giả Vũ Ngọc Khánh, năm 
2001, đã nêu rõ được lịch sử một số tín ngưỡng dân gian Việt Nam, lễ thức gia đình (bàn 
thờ gia tiên, ngày giỗ, văn khấn, thần tài, tiền chủ...) và một số thần linh được thờ cúng 
(Thành hoàng, tứ pháp...); “Văn hóa dân gian Việt Nam – Những phác thảo” của tác giả 
Nguyễn Chí Bền, Nxb. Văn hóa - Thông tin, năm 2003; “Tìm hiểu tín ngưỡng truyền 
thống Việt Nam”, 2005, tác giả Mai Thanh Hải;... 
Tác giả Nguyễn Duy Hinh, trong “Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam”, Nxb 
Khoa học xã hội, năm 1996, đã nêu một cách khá hoàn chỉnh khái niệm, lịch sử hình 
thành và các hình thức thờ Thành hoàng, điện thờ cũng như các bản kê khai Thần phả, 
Sắc phong của các thời phong kiến đang được lưu giữ tại viện Hán Nôm; “Tín ngưỡng 
Thành hoàng và thờ vua Hùng ở Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Đức Lữ, Tạp chí Sinh 
hoạt lý luận xuân Tân tị, 2001; nghiên cứu các thần tích và phong tục thờ Thành hoàng 
làng của Thăng Long - Hà Nội đồng thời tìm hiểu đặc trưng của tín ngưỡng dân gian của 
người Hà Nội có “Thần tích Hà Nội và tín ngưỡng thị dân”, Nxb Hà Nội, 2004, của các 
tác giả Nguyễn Vĩnh Phúc, Nguyễn Duy Hinh; trong "Thần tích Hà Nam", Nxb Khoa học 
xã hội, 2004, các tác giả Lại Văn Toàn và Trần Thị Băng Thanh (chủ biên) đã sưu tập và 
thống kê được khá đầy đủ các thần tích về các vị thần thành hoàng làng là các anh hùng 
trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, là các vị có công che chở cho dân, dạy dân làm 
ruộng, trồng dâu, nuôi tằm, dạy chữ; nghiên cứu về nguồn gốc, dạng thức tinh thần, thần 
điện và nghi lễ thờ cúng Thành hoàng ở Việt Nam và Shinto ở Nhật Bản đồng thời so 
sánh sự giống nhau và khác nhau giữa hai tín ngưỡng này có “Thành hoàng ở Việt Nam 
và Shinto ở Nhật Bản” của Trịnh Cao Tưởng, Nxb Văn Hóa Thông tin, Viện Văn hóa, 
2005; có công trình nghiên cứu riêng về Thành hoàng là các nhân vật lịch sử trong một 
họ ở Việt Nam, tiêu biểu là “Thành hoàng họ Đặng ở Việt Nam”, Nxb, Văn hóa dân tộc, 
2005 của các tác giả Đặng Văn Lộc (chủ biên), Đặng Đức Thư và Đặng Ngọc Thanh... 
Nghiên cứu về địa lý hành chính và văn hóa Bắc Ninh có các công trình tiêu biểu: 
“Địa lý hành chính Kinh Bắc”, Sở Văn hóa Thông tin Bắc Giang, 1997, của các tác giả 
Nguyễn Văn Huyên và Nguyễn Khắc Đạm dịch từ nguyên bản tiếng Pháp “Tableau de 
Geographie Administrative d”une Anciene Province Vietnamienne: Le Bắc Ninh (ou 
Kinh Bắc)”; giới thiệu về văn hóa truyền thống và các di tích lịch sử của vùng đất Bắc 
Ninh xưa và nay có “Bắc Ninh làng cũ - quê xưa - Chiếc nôi của văn hóa Việt Nam”, 
Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2000, của tác giả Ngô Thế Thịnh, đã được dịch 
giả Việt Tân dịch sang tiếng Anh; “Chuyện kể ở đền Đô”, Nxb. Văn hóa dân tộc, 2003 
của các tác giả Nguyễn Đức Thìn, Phạm Thuận Thành đã tập hợp những câu chuyện kể 
dân gian có tính chất dã sử về đền Đô, về nhà Lý, về những phong tục tập quán của người 
Đình Bảng, quê hương đã hun đúc nên vương triều thịnh trị trong lịch sử. Giới thiệu về 
các danh nhân lịch sử xuất thân ở Kinh Bắc như: Lạc Long Quân, Âu Cơ, Phù Đổng Thiên 
Vương, Trương Chi, Cao Lỗ... có “Danh nhân lịch sử Kinh Bắc”, Nxb. Lao động, 2004, của 
tác giả Trần Quốc Thịnh. 
Năm 1941, tác giả Nguyễn Văn Huyên có công trình nghiên cứu “Về 
một bản đồ phân bố các Thành hoàng trong tỉnh Bắc Ninh” (à propos d’une 
carte de répartitiondes génies tutélaires dans la province de Bắc Ninh, Hà Nội 
1941). Trong công trình này, tác giả đã thống kê các Thành hoàng các Thành 
hoàng trong tỉnh Bắc Ninh bao gồm: 
- Các thần Thành hoàng thời đại Hùng Vương có 105 vị. 
- Các thần Thành hoàng thời Bắc thuộc (thế kỷ thứ II trước Công nguyên 
đến thế kỷ thứ X Công nguyên) có 116 vị thần. 
- Các thần Thành hoàng thời nhà Đinh, nhà Lý (thế kỷ thứ X đến XIII) có 
127 vị thần. 
- Các thần Thành hoàng thời kỳ nhà Trần, thời Minh thuộc, nhà Lê từ thế 
kỷ XIII đến thế kỷ XVIII gồm có 77 vị thần, trong đó thời nhà Trần có 40, nhà 
Lê có 30, thời Minh thuộc có 4. nhà Mạc có 3, nhà Nguyễn không có vị thần 
nào [20, tr.9-10]. 
Nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian và Thành hoàng ở Bắc Ninh đã còn có “Văn 
hiến Kinh Bắc T1,2”, năm 2002, Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh. Nghiên cứu về tục thờ 
thần tự nhiên liên quan tới đời sống nông nghiệp trồng lúa nước ở Việt Nam, đặc biệt là 
vùng Bắc Ninh - Kinh Bắc, có “Chùa Dâu và Nghệ thuật tứ pháp”, Nxb. Mỹ thuật, 2002, 
của tác giả Phan Cẩm Thượng. Trong “Các di tích lịch sử văn hóa Bắc Ninh”, năm 2004, 
Bảo tàng Bắc Ninh đã giúp người đọc có những thông tin về đa số các cơ sở thờ tự: đình, 
miếu, nghè.., Tác giả Nguyễn Quang Khải, “Vấn đề quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở 
Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn tốt nghiệp Cao cấp chính trị, năm 2004... 
Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống “Tín 
ngưỡng Thành hoàng ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay”. 
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 
3.1. Mục đích 
- Đưa ra khái niệm, nguồn gốc về Thành hoàng và sơ lược phân loại các Thành 
hoàng ở Việt Nam. 
- Nghiên cứu, giới thiệu về tín ngưỡng Thành hoàng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh; 
đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực và giữ 
gìn, phát huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng Thành hoàng ở Bắc Ninh. 
3.2. Nhiệm vụ 
- Làm rõ khái niệm, nguồn gốc, vai trò của tín ngưỡng Thành hoàng ở Việt Nam. 
- Khảo sát, nghiên cứu, phân loại để làm rõ những vai trò cơ bản của tín ngưỡng 
Thành hoàng ở Bắc Ninh. 
- Nêu được các giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực và phát huy 
những giá trị tích cực của tín ngưỡng Thành hoàng ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. 
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 
4.1. Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tín ngưỡng Thành hoàng và các vấn đề liên 
quan như: điện thờ, các hình thức thờ Thành hoàng, lễ hội và những ảnh hưởng tích cực 
cũng như tiêu cực của nó tới đời sống văn hóa truyền thống của nhân dân trong tỉnh Bắc 
Ninh. 
4.2. Phạm vi nghiên cứu 
Đề tài nghiên cứu tín ngưỡng Thành hoàng trong phạm vi tỉnh Bắc Ninh, đặc biệt là 
Thị xã Bắc Ninh và các huyện: Từ Sơn, Tiên Du, Thuận Thành, Yên Phong, Quế Võ... 
Đề tài tập trung nghiên cứu những đặc điểm của tín ngưỡng thờ Thành hoàng ở địa bàn 
tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay. 
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
5.1. Cơ sở lý luận 
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, quán triệt những nguyên tắc của 
Chủ nghĩa duy vật biện chứng Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín 
ngưỡng, tôn giáo cũng như các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta để nghiên cứu các tài 
liệu và sự kiện thực tế. 
5.2. Phương pháp nghiên cứu 
+ Sử dụng phương pháp khảo sát, nghiên cứu các sự kiện, gặp gỡ các nhân chứng ở 
các địa bàn nghiên cứu nhằm thu thập tư liệu và giám định. 
+ Phân tích tổng hợp và hệ thống hóa các tư liệu, dùng phương pháp so sánh, đối 
chiếu với các tài liệu điền dã thực địa, rút ra những kết luận chính xác. 
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn 
Vận dụng cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về 
tín ngưỡng, tôn giáo và các phương pháp khoa học đã nêu trên, tiếp thu có bổ sung sáng 
tạo các tài liệu tra cứu, tiếp cận một cách tổng thể tín ngưỡng Thành hoàng ở địa bàn Bắc 
Ninh, luân văn đã cung cấp nhiều thông tin chính xác, cụ thể và chi tiết cho các nhà khoa 
học, những người làm công tác văn hoá, giảng dạy quan tâm tới lĩnh vực này. 
7. ý nghĩa của luận văn 
Thông qua nội dung của luận văn, người đọc sẽ tìm hiểu được hiện trạng của tín 
ngưỡng Thành hoàng và các nghi thức liên quan tới Thành hoàng cũng như nét sinh hoạt 
văn hoá truyền thống của cộng đồng dân cư các làng xã của tỉnh Bắc Ninh. Luận văn sẽ 
cung cấp các tư liệu giúp các nhà chuyên môn, nhà quản lý, các nhà hoạch định chính 
sách, công tác văn hoá nói chung và tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng có thêm cơ sở lý 
luận và thực tiễn trong công tác chuyên môn, nhằm bảo lưu, phát huy các giá trị văn hoá, 
đạo đức, truyền thống của tín ngưỡng Thành hoàng nói chung và tín ngưỡng Thành 
hoàng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng. 
8. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, kết cấu luận 
văn gồm 2 chương, 7 tiết: 
Chương 1: Tín ngưỡng Thành hoàng ở Việt Nam 
1.1. Khái niệm, nguồn gốc của tín ngưỡng Thành hoàng ở Việt Nam 
1.2. Quan hệ giữa tín ngưỡng Thành hoàng với một số tín ngưỡng dân gian ở Việt 
Nam 
1.3. Các loại Thành hoàng và vai trò của tín ngưỡng Thành hoàng ở Việt Nam 
Chương 2: Tín ngưỡng Thành hoàng ở tỉnh Bắc Ninh 
2.1. Đặc điểm tỉnh Bắc Ninh 
2.2. Thực trạng tín ngưỡng Thành hoàng ở tỉnh Bắc Ninh 
2.3. Đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng Thành hoàng ở tỉnh Bắc Ninh 
2.4. Xu hướng biến đổi và những vấn đề đặt ra đối với tín ngưỡng Thành hoàng ở 
tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay 
Chương 1 
tín ngưỡng Thành hoàng ở việt nam 
1.1. Khái niệm, nguồn gốc của tín ngưỡng Thành hoàng ở Việt Nam 
1.1.1. Khái niệm Thành hoàng, tín ngưỡng Thành hoàng 
Thuật ngữ Thành hoàng là một từ Hán Việt; “Thành hoàng có nghĩa là thành hào, 
hào có nước gọi là trì, không có nước gọi là hoàng. Đắp đất làm "thành", đào hào làm 
"hoàng" [20, tr.23-24]. Thành hoàng xuất hiện ở Trung Quốc thời cổ đại và đã được thờ 
như là vị thần bảo hộ cho một thành trì, một phủ, châu hay một huyện. Xã hội cổ đại 
Trung Quốc được phân chia thành hai cấp: Vương và Hầu; vua nhà Chu là Vương cai 
quản chư Hầu, mỗi chư Hầu như là một vương quốc nhỏ có một toà thành và một số ấp 
nông thôn vây quanh. Do vậy, để bảo vệ thành có Thành hoàng, bảo vệ ấp có Thổ địa. 
Việc thờ Thành hoàng phổ biến khắp đất nước Trung Quốc thời cổ đại; ở đâu xây thành, 
đào hào là ở đó có Thành hoàng. Thành hoàng thường được vua ban biển miếu hoặc 
phong tước. Chính quyền phong kiến Trung Quốc đã lấy việc thờ phụng Thành hoàng 
làm việc giáo hoá dân chúng. Thông qua việc tế tự thần giữ thành giúp trừng phạt kẻ ác 
và biểu dương kẻ thiện. 
Do vậy, có thể hiểu một cách khái quát: “Thành hoàng là một phạm trù thần linh 
bảo hộ thành trì của phong kiến Trung Quốc, được du nhập vào nước ta từ thời Đường rồi 
tiếp tục phát triển trong các triều đại độc lập của nước ta” [20, tr.60]. “Thành hoàng là 
một phạm trù ngoại lai, nhưng lại mang một nội hàm bản địa Việt không hoàn toàn giống 
nguyên bản. Đó là một đặc điểm vay mượn ngôn từ và khái niệm ngoại quốc một cách 
sáng tạo của người Việt” [20, tr.22]. 
Thành hoàng là khái niệm chung để chỉ Thành hoàng làng. Tuy nhiên, 
trong các sắc phong thường dùng các từ như Đương Cảnh Thành hoàng, Bản 
Cảnh Thành hoàng... “Đương cảnh, Bản Cảnh Thành hoàng, Bản Thổ Thành 
hoàng là những khái niệm dùng để chỉ một vị thần vốn có của một địa phương, 
một vị thần sở tại chứ không phải vua phái đến. Thường “âm phù” vua đánh 
giặc khi vua hành quân đi qua địa phương cho nên vua công nhận là Thành 
hoàng...[ 20, tr.60-61] 
Nói chung, các cụm từ Đương cảnh Thành hoàng, Bản cảnh Thành hoàng, Bản thổ 
Thành hoàng, Bản đôn Thành hoàng, Bản viện Thành hoàng, Thành hoàng... “xét ra đều 
không phải là một loại hỉnh hay cấp bậc Thành hoàng mà vẫn là ngôn ngữ dân gian được 
các chức sắc khai lên triều đình” [20, tr.70-71]. 
Tóm lại, Thành hoàng làng là một vị thần làng được quan chức hoá, thường phong 
là đại vương. 
 Thần làng là một hiện tượng tự phát, sau được nhà nước phong kiến 
tuyển chọn bao phong để trở thành quan lại thiêng của triều đình trấn giữ làng. 
Cho nên nói chung họ đều được phong đại vương và thỉnh thoảng được thăng 
cấp bằng cách tặng thêm mỹ tự hay đề bạt từ cấp Hạ lên Trung, hay từ Trung 
lên Thượng đẳng thần [20, tr.93]. 
Tín ngưỡng, hiểu một cách khái quát, là niềm tin của con người vào những điều 
thiêng liêng, huyền bí vượt khỏi thế giới tự nhiên. 
Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm 
và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh, 
biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu 
biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hoá, đạo đức xã hội [13, tr.12]. 
Tín ngưỡng Thành hoàng thực chất là tín ngưỡng phúc thần đóng vai trò 
liên kết cộng đồng người trong một cộng đồng lãnh thổ nông nghiệp hữu hạn, 
làm nơi quy y tâm linh cho cư dân. Tín ngưỡng Thành hoàng mang màu sắc 
Việt trong bản chất dù đã tiếp thu bao nhiêu yếu tố tôn giáo và văn hoá khác 
[20, tr.410-411]. 
1.1.2. Nguồn gốc tín ngưỡng Thành hoàng ở Việt Nam 
ở nước ta vào khoảng thế kỷ IX, ở Trung Quốc là thời kỳ nhà Đường, Lý Nguyên 
Gia đã cho xây La thành và dựng đền thờ Tô Lịch làm Thành hoàng. “Sau đó vào khoảng 
năm 866 Cao Biền cho mở rộng thành, lại phong Tô Lịch làm Đô Phủ Thành hoàng Thần 
Quân” [20, tr.31]. Từ đây ra đời thuật ngữ Thành hoàng, Thành hoàng ban đầu ở nước ta 
là Thành hoàng Đại La, đây là vị thần bảo vệ cho thành Đại La, tên của ngài là Tô Lịch. 
Có một số tư liệu cho rằng Tô Lịch là thuỷ thần sông Tô Lịch, luôn chống đối với Cao 
Biền trong việc mở rộng thành Đại La. Trong “Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam” tác 
giả Nguyễn Duy Hinh cho rằng, Tô Lịch là một nhân vật lịch sử có thật: 
Theo Giao Châu Ký và Báo Cực Truyện thì Tô Lịch làm quan lệnh ở 
Long Độ (Long Đỗ), đời Tấn đã được khen là người có hiếu, đặt tên làng là Tô 
Lịch. Lý Nguyên Gia cho xây dựng phủ lỵ trên nền nhà cũ của Tô Lịch, ngài 
ứng mộng khuyên Nguyên Gia dạy dân: "Tôi được sứ quân uỷ cho làm Thành 
hoàng ở đây. Nếu sứ quân biết giáo hoá cư dân trong thành hết lòng tận trung 
thì mới đáng là chức mục thú, xứng với trách nhiệm của người làm quan tốt" 
[20, tr.31]. 
Sau này nă