Kim ngạch xuất khẩu tháng 9 đạt khoảng 1.250 triệu USD, giảm 7% so với
số thực hiện tháng 8/2002 và giảm 0,2% so với số thực hiện tháng 9 năm 2000.
Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (gồm cả dầu thô) đạt
545 triệu USD, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn trong nước đạt 705 triệu
USD. Trừ cao su và hàng thủ công mỹ nghệ có mức xuất khẩu tăng, các mặt hàng
chủ yếu khác đều giảm sút so với thực hiện tháng 9 năm 2000
- Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm đạt khoảng 11.656 triệu USD, bằng
69,5% kế hoạch cả năm, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm 2000. Trong đó, xuất
khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 5.317 triệu USD, tăng 8%
và xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn trong nước đạt 6.339 triệu USD, tăng
12,6% so với cùng kỳ năm 2000.
36 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1642 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình thực hiện kế hoạch thương mại (tháng 9-2002), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI
(tháng 9/2002)
Phần thứ nhất
TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH.
I. XUẤT KHẨU
Kim ngạch xuất khẩu tháng 9 đạt khoảng 1.250 triệu USD, giảm 7% so với
số thực hiện tháng 8/2002 và giảm 0,2% so với số thực hiện tháng 9 năm 2000.
Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (gồm cả dầu thô) đạt
545 triệu USD, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn trong nước đạt 705 triệu
USD. Trừ cao su và hàng thủ công mỹ nghệ có mức xuất khẩu tăng, các mặt hàng
chủ yếu khác đều giảm sút so với thực hiện tháng 9 năm 2000
- Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm đạt khoảng 11.656 triệu USD, bằng
69,5% kế hoạch cả năm, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm 2000. Trong đó, xuất
khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 5.317 triệu USD, tăng 8%
và xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn trong nước đạt 6.339 triệu USD, tăng
12,6% so với cùng kỳ năm 2000.
1. Nhận định tình hình
- Trừ tháng 4, từ tháng 1 đến tháng 7, kim ngạch xuất khẩu tháng sau luôn
cao hơn tháng trước và tháng 7 là đỉnh điểm của 9 tháng đầu năm; tháng 8 giảm so
với tháng 7 và ước tháng 9 giảm so với tháng 8.
- So sánh kết quả xuất khẩu các tháng đầu năm 2001 với các tháng cùng kỳ
năm 2000 cho thấy xu hướng biến động tốc độ tăng trưởng tương đối giống nhau,
cụ thể là tháng 7 đều có kim ngạch cao nhất, tháng 4 cùng tăng trưởng chậm so với
tháng 3, từ tháng 8 bắt đầu giảm tăng trưởng và đến tháng 9 cùng là mức thấp nhất
kể từ tháng 6.
Bình quân xuất khẩu 9 tháng xuất khẩu hàng hoá đạt 1.295 triệu USD/tháng,
đây là mức cao nhất từ trước đến nay (bình quân 9 tháng đầu năm 2000 đạt 1.151
triệu USD/tháng và năm 1999 đạt 910 triệu USD/tháng).
Với mục tiêu kế hoạch xuất khẩu 13%, để hoàn thành kế hoạch 2001 thì quí
IV phải phấn đấu xuất khẩu 4.694 triệu USD, tức là bình quân mỗi tháng phải đạt
1.565 triệu USD, tăng 270 triệu USD so với bình quân 9 tháng đầu năm và tăng
264 triệu USD so với cùng kỳ năm 2000, đây là mức rất cao với tình hình xuất
khẩu hiện nay (giá tất cả các mặt hàng xuất khẩu chủ lực liên tục giảm hoặc đứng ở
mức thấp, thị trường thế giới biến động không lợi với xuất khẩu của ta, nhất là sau
vụ khủng bố 11/9 ở Hoa Kỳ), đòi hỏi các nhà kinh doanh và các cơ quan quản lý
phải phấn đấu quyết liệt mới có thể hoàn thành được.
Ngược lại với quy luật hàng năm, 9 tháng đầu năm nay tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (gồm cả dầu thô) luôn thấp
hơn các doanh nghiệp 100% vốn trong nước, cụ thể là bình quân mỗi tháng năm
2000 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 3,8% và các doanh nghiệp
100% vốn trong nước tăng 1%, trong khi đó 9 tháng đầu năm các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,9% và các doanh nghiệp 100% vốn trong nước tăng
1,4 %.
Tăng trưởng xuất khẩu của thị trường chủ yếu.
So với cùng kỳ năm 2000, xuất khẩu sang một số thị trường tăng nhanh hơn
tốc độ tăng trưởng chung (10,5%) là: Ailen, Áo, Ba Lan, Bỉ, các Tiểu Vương quốc
Ả Rập Thống nhất, Hàn Quốc, Mexicô, Hoa Kỳ, Nga, Pháp, Trung Quốc, Ucraina
và một số thị trường kém hơn cùng kỳ năm 2000 là: Na Uy, New Zealand, Nhật
Bản, Úc, Phần Lan, Philippin, Séc, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Thuỵ
Điển, Thuỵ Sỹ.
Tăng trưởng xuất khẩu của các nhóm hàng chủ yếu
- Nhóm nông lâm, thuỷ sản: 9 tháng đầu năm xuất khẩu tăng 10,6% so với
cùng kỳ năm 2000 (9 tháng đầu năm 2000 tăng 7%), do khối lượng xuất khẩu tăng
30,6%, làm tăng kim ngạch khoảng 774 triệu USD và do giá giảm 15,3%, làm
giảm kim ngạch khoảng 506 triệu USD (nếu giá không bị giảm thì nhóm này tăng
trưởng 30,6%).
Mặt hàng có khối lượng xuất khẩu tăng nhanh là: hạt tiêu (51,4%), cà phê
(40,4%), gạo (16,5%), hạt điều nhân (21,5%).
Mặt hàng có giá xuất khẩu giảm mạnh là: cà phê, hạt tiêu, hạt điều nhân,
gạo, chè.
- Nhóm công nghiệp nặng và khoáng sản: 9 tháng đầu năm tăng 6,6% (9
tháng đầu năm 2000 tăng 81%), do khối lượng xuất khẩu tăng 17,8%, làm tăng kim
ngạch khoảng 455 triệu USD và do giá giảm 9,4%, làm giảm kim ngạch khoảng
286 triệu USD (nếu giá không bị giảm thì nhóm này tăng trưởng 17,8%). Nhóm
này có dầu thô tăng khối lượng xuất 17,1% và giá xuất khẩu giảm 9,5%; than đá
tăng khối lượng xuất 40,3% và giá xuất khẩu giảm 7,6%.
- Nhóm công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp: 9 tháng đầu năm tăng 0,7% (9
tháng đầu năm 2000 tăng 15,7%), do khối lượng xuất khẩu tăng 7,7%, làm tăng
kim ngạch khoảng 252 triệu USD và do giá giảm 7%, làm giảm kim ngạch khoảng
230 triệu USD (nếu giá không giảm thì nhóm này tăng trưởng 7,7%). Nhóm này có
hàng linh kiện điện tử giảm 18,8%, hàng dệt may giảm 8,7%, các mặt hàng khác có
tăng trưởng nhưng không nhiều.
Tóm lại, xuất khẩu 9 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm 2000 tăng 18% về
khối lượng, làm tăng kim ngạch khoảng 1.897 triệu USD và giá giảm 6,4% làm
giảm kim ngạch khoảng 793 triệu USD (nếu giá không bị giảm thì xuất khẩu 9
tháng đầu năm 2001 tăng 18%).
2. Nguyên nhân
2.1 Nguyên nhân chủ yếu làm tăng xuất khẩu
- Nhà nước và doanh nghiệp đã có nhiều biện pháp xúc tiến thương mại,
phát triển thị trường, tình hình biến động số lượng thị trường xuất khẩu 8 tháng đầu
năm 2000 (theo thống kê Hải quan) của nông sản chủ lực như sau:
S
T
T
Mặt hàng Số lượng thị trường xuất khẩu Tăng (+), giảm (-)
Năm 2000 8 tháng 2001
1 Thuỷ sản 31 39 +8
2 Gạo 25 37 +12
3 Cà phê 31 41 +10
4 Rau quả 28 40 +12
5 Cao su 24 33 +9
6 Hạt tiêu 33 41 +8
7 Hạt điều nhân 13 25 +12
8 Chè 22 28 +6
9 Lạc nhân 12 20 +8
- 9 tháng đầu năm đều tăng so với cùng kỳ năm 2000, nhiều thị trường tăng
trưởng nhanh về tốc độ và tỷ trọng; nhiều mặt hàng chủ lực tăng khối lượng xuất
khẩu (như đã nêu trên); về nhóm hàng khác có nhiều ý kiến đánh giá tăng cả giá và
khối lượng xuất khẩu (giá tăng khoảng 9%, khối lượng tăng khoảng 19%).
- Từ tháng 7 đến nay, tỷ giá VNĐ/USD tăng so với các tháng trước, có lợi
cho xuất khẩu. Sau ngày 11/9 đến nay, USD mất giá khoảng 0,25% đã làm các
doanh nghiệp thiệt hại không nhỏ.
- Chính phủ và các Bộ/ngành có nhiều biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu như:
tăng cường tổ chức các Đoàn đi nước ngoài đàm phán mở rộng thị trường; tổ chức
các Đoàn đi các nơi trọng điểm, giải quyết các yêu cầu của địa phương; tổ chức hội
nghị với các doanh nghiệp, tập hợp phản ảnh các khó khăn để tháo gỡ kịp thời; ban
hành nhiều chính sách, giải pháp, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp đẩy
mạnh xuất khẩu, trong đó nổi bật là:
+ Trao đổi, đàm phán Hiệp định thương mại với Chi lê, Peru, Modava,
Estoni, Bungari, Pakistan, Nigeria, Ma Rốc, Hoa Kỳ và đang xúc tiến đàm phán
Hiệp định thương mại với Bruney, NewZealand, Tanzania, Zimbabuê, Sip.
+ Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg, ngày 4/4/2001 về quản lý xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 - 2005; Nghị quyết 05/2001/NQ, ngày 24/5/2001
về bổ sung giải pháp điều hành kế hoạch kinh tế năm 2001; Thông báo số 58/TB-
VPCP về việc đẩy mạnh xuất khẩu và quản lý nhập khẩu; công bố kết quả thưởng
xuất khẩu năm 2000 và triển khai thưởng xuất khẩu năm 2001, trong đó bổ sung
thêm một số nông sản, thực phẩm...
2.2 Nguyên nhân chủ yếu hạn chế xuất khẩu
Thứ nhất, 9 tháng đầu năm giá các mặt hàng chủ lực giảm 10,4% so với
cùng kỳ năm 2000 (gồm toàn bộ nông sản xuất khẩu chủ lực, dầu thô, hàng dệt
may, giày dép, hàng điện tử, linh kiện máy tính...) đã làm kim ngạch xuất khẩu
giảm khoảng 1.023 triệu USD.
Thứ hai, từ tháng 4 đến nay nhập khẩu tăng trưởng chậm, nhiều chuyên gia
phân tích mối quan hệ xuất khẩu và nhập khẩu cho rằng đây cũng là yếu tố hạn chế
xuất khẩu.
Thứ ba, 9 tháng đầu năm kinh tế Hoa kỳ, Nhật Bản, EU và một số nền kinh
tế lớn khác tăng trưởng chậm, thậm chí có dấu hiệu suy thoái, nội tệ suy giảm, sức
mua của dân cư giảm sút... đã góp phần làm giảm khả năng xuất khẩu của ta, nhất
là với các mặt hàng chủ lực như hàng dệt may, giày dép, hàng điện tử. Sau sự kiện
11/9 tại Hoa kỳ, thị trường thế giới biến động tăng thêm bất lợi cho xuất khẩu của
ta (riêng tháng 9 giảm so với dự kiến đầu tháng khoảng 11%).
Thứ tư, hoạt động xúc tiến thương mại nhìn chung vẫn chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển của xuất, nhập khẩu, nhất là việc hỗ trợ thông tin cho sản xuất các
mặt hàng có khả năng tiêu thụ trên thị trường, giới thiệu, khuyếch trương thương
hiệu Việt Nam trên thị trường...vì vậy, tỷ trọng thị trường mặt hàng xuất khẩu chủ
yếu tăng trưởng chậm (như đã nêu trên) và thị trường mới không nhiều.
Thứ năm, Hiệp Định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ chưa được phê chuẩn.
II. NHẬP KHẨU
1. Kết quả:
- Kim ngạch nhập khẩu tháng 9 đạt khoảng 1.320 triệu USD, tăng 1,1% so
với tháng 8/2001 và tăng 0,1% so với tháng 9 năm 2000. Nhập khẩu của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 360 triệu USD và nhập khẩu của các doanh
nghiệp có vốn trong nước 960 triệu USD.
- Kim ngạch nhập khẩu 9 tháng đầu năm đạt khoảng 11.778 triệu USD,
bằng 66,2% kế hoạch cả năm, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2000. Trong đó, nhập
khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3.541 triệu USD, tăng
15,2% và nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn trong nước đạt 8.237 triệu USD,
tăng 1,4% so với cùng kỳ năm 2000.
Hầu hết các mặt hàng nhập khẩu 9 tháng tăng khá so với cùng kỳ năm 2000,
trừ phân hoá học giảm 28%, linh kiện điện tử và linh kiện máy vi tính giảm 22%.
2. Nhận định tình hình.
- Nhập khẩu 9 tháng đầu năm có chu kỳ tương tự năm 2000 và chênh lệch
giữa các tháng năm 2001 so với cùng kỳ không lớn.
- Trong 7 tháng đầu năm 2001, trừ tháng 1, mức nhập khẩu các tháng khác
đều cao hơn cùng kỳ năm 2000, đến tháng 8 nhập khẩu kém hơn và tháng 9 nhập
khẩu xấp xỉ cùng kỳ năm 2000.
- Từ tháng 4/2001 đến nay, nhập khẩu không tăng (tháng 4, 6,7, 8) hoặc tăng
thấp (tháng 5 tăng 4,4% và tháng 9 tăng 1%) và thấp hơn tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu khoảng 1%/tháng.
b. Giá nhập khẩu 9 tháng đầu năm giảm 4,5% so với cùng kỳ năm 2000 làm
giảm kim ngạch khoảng 556 triệu USD, trong đó có một số mặt hàng chủ yếu giảm
giá là: ô tô nguyên chiếc, thép, phôi thép, u rê, xăng dầu, giấy các loại, chất dẻo
nguyên liệu, sợi các loại, bông, xe 2 bánh gắn máy dạng linh kiện lắp ráp.
So sánh chênh lệch kim ngạch do giảm giá giữa nhập khẩu (ta được) và xuất
khẩu (ta mất) thì 9 tháng đầu năm 2001 thiệt 237 triệu USD.
c. Khối lượng hàng nhập khẩu tăng 10,2% so với cùng kỳ năm 2000 làm
tăng kim ngạch khoảng 1.134 triệu USD, trong đó hầu hết các mặt hàng chủ lực
đều tăng (trừ linh kiện điện tử và tân dược), vì vậy, tuy kim ngạch nhập khẩu tăng
chậm nhưng hầu hết nhu cầu tiêu dùng hàng nhập khẩu vẫn được đáp ứng.
Đến nay, khối lượng nhập khẩu một số mặt hàng đã vượt kế hoạch năm và
tăng nhanh so với cùng kỳ năm 2000 là: xe 2 bánh gắn máy dạng linh kiện lắp ráp
vượt kế hoạch 73%, tăng 55% so với cùng kỳ năm 2000; ô tô nguyên chiếc vượt kế
hoạch 41,8% và tăng 110% so với cùng kỳ năm 2000; ô tô dạng linh kiện lắp ráp
vượt kế hoạch 16% và tăng 103% so với cùng kỳ năm 2000.
d. Sau nhiều tháng giảm nhập khẩu so nới cùng kỳ năm 2000, từ tháng
6/2001, nhóm máy móc, thiết bị, phụ tùng đã tăng so với cùng kỳ năm 2000, tuy
nhiên vẫn thấp hơn mức tăng trưởng chung.
e. Về thị trường nhập khẩu chủ yếu: Đáng lưu ý là, một số thị trường có tỷ
trọng lớn giảm nhập khẩu so với cùng kỳ năm 2000 là Singapore, Hồng Kông,
Indonesia và Pháp.
3. Nguyên nhân
- Sức mua trên thị trường nội địa tăng chậm, xuất khẩu khó khăn, đầu tư
nước ngoài tăng chậm.
- Tỷ giá VNĐ và USD bất lợi cho nhập khẩu.
- Nhiều doanh nghiệp cho rằng nộp thuế giá trị gia tăng đối với hàng nhập
khẩu trước khi bán hàng là không phù hợp, tạo khó khăn về vốn và hạn chế hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Số các doanh nghiệp tham gia nhập khẩu còn ít, mới chiếm khoảng 45 -
50% tổng số doanh nghiệp đăng ký nhập khẩu với cơ quan Hải quan.
- Một số mặt sản xuất trong nước phát triển dần thay thế hàng nhập khẩu
(dây cáp điện, sản phẩm sữa, cao su, quạt điện...).
- Khối lượng một số mặt hàng tăng nhanh (như nêu trên) chủ yếu do nhu cầu
tiêu dùng tăng.
3. Cán cân thương mại
9 tháng đầu năm, thương mại hàng hoá nhập siêu 122 triệu USD, bằng 1%
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá.
III. LƯU THÔNG HÀNG HOÁ TRONG NƯỚC
1. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ so với cùng kỳ năm 2000:
tháng 9/2001 ước đạt 21.000 tỷ đồng, tăng 11%; 9 tháng đầu năm 2001 ước đạt
175 ngàn tỷ đồng, tăng 10%.
- Thị trường ở các tỉnh/thành phố ổn định, không có mặt hàng "sốt giá".
2. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 ước tăng 0,5% so với tháng 8 và tăng 0,7% so
với cùng kỳ năm 2000.
Chỉ số giá lương thực sau một thời gian dài luôn giảm so với cùng kỳ năm
2000, nay đã bắt đầu tăng, cụ thể là: tháng 7 xấp xỉ bằng tháng 6; tháng 8 tăng
1,2% so với tháng 7 (chủ yếu do không cung cấp kịp thời gạo xuất khẩu, nên có
một phần giá tăng ảo) và tháng 9 ước tăng 2,3% so với tháng 8.
3. Một số mặt hàng đáng lưu ý
Thóc, gạo: so với tháng 8, giá gạo tẻ ở nhiều địa phương phía Bắc khoảng
2.800 - 3.000 đồng/kg, tăng khoảng 200 đồng/kg; ở đồng bằng sông Cửu Long
khoảng 2.500 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg.
Ở một số vùng lũ, lụt, nhu cầu tiêu thụ được đáp ứng, tuy nhiên sức mua của
dân thấp nên có thời điểm, có nơi xảy ra tình hình dân thiếu đói (Gia Lai).
Cà phê: so với tháng 8, giá cà phê loại 1 khoảng 5.100 đồng/kg, tăng 100 -
200 đồng/kg, riêng ở Đồng Nai giá vẫn khoảng 4.800 đồng/kg. Nhìn chung giá cà
phê đang ở mức quá thấp thiệt hại cho nông dân, tuy 2 tuần gần đây đã có dấu hiệu
tăng giá, nhưng không thật ổn định và chắc chắn.
Rau, quả: ở phía Bắc sản lượng rau tươi giảm đáng kể, do mùa mưa kết
thúc sớm, vì vậy giá trên thị trường tăng khoảng 10 -15% so với cùng kỳ năm
trước, nhất là các loại rau quả xuất khẩu.
Mía đường: giá mía cây tại các tỉnh phía Nam khoảng 210 - 250 đồng/kg,
so với cuối tháng 8, giảm 50 - 60 đồng/kg, so với cùng kỳ năm 2000 thì vẫn cao
hơn 20 - 40 đồng/kg.
Tuy đang thời vụ sản xuất bánh Trung Thu, nhưng giá đường có xu hướng
giảm, so với tháng 8 giảm khoảng 200 - 300 đồng/kg, do đường Thái Lan sản xuất
rẻ hơn, đã nhập lậu vào nước ta. Hiện nay, giá đường RE trên thị trường khoảng
7.100 - 7.200 đ/kg, thị trường ổn định.
Xăng dầu: tình hình thị trường xăng dầu trong nước vẫn ổn định, nhưng
kinh doanh xăng dầu của các doanh nghiệp gặp khó khăn, do tăng tỷ giá ngoại tệ
và Nhà nước liên tục thay đổi thuế suất nhập khẩu.
Phân bón: so với cuối tháng 8 giá bán u rê nhập khẩu tại một số địa phương
phía Nam khoảng 2.250 - 2.270 đồng/kg, tăng 20 - 50 đồng/kg. Với tỉ giá VNĐ so
với USD hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh phân bón bị lỗ, đã giảm
sản xuất và nhập khẩu, nhưng vẫn đủ lượng đáp ứng vụ Đông - Xuân sắp tới.
Vật liệu xây dựng: Ở các tỉnh phía Bắc nhu cầu tiêu thụ và giá tương đối ổn
định; ở các tỉnh phía Nam, do lũ, lụt ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nên nhu
cầu tiêu thụ và giá hầu hết các mặt hàng đều giảm so với lúc chưa lũ, lụt.
Bán các mặt hàng chính sách ở 19 tỉnh miền núi
- Muối iốt: ước tháng 9 đạt 5.200 tấn, bằng tháng 8. 9 tháng đầu năm đạt
45.700 tấn, bằng 71% kế hoạch năm và bằng cùng kỳ năm 2000.
Một số tỉnh đạt kế hoạch thấp là: Đắc Lắc, Gia Lai, Quảng Ninh, Lâm Đồng,
Bình Phước.
- Dầu hoả: ước tháng 9 đạt 1.750 tấn, so với tháng 8 tăng 6,5%. 9 tháng đạt
14.400 tấn, bằng 70% kế hoạch năm và tăng 2% so với cùng kỳ năm 2000.
Một số tỉnh đạt kế hoạch thấp là: Lâm Đồng, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà
Giang, Yên Bái. Riêng Tuyên Quang đến nay đã bán vượt kế hoạch 19,4%.
4. Quản lý thị trường
Về chống hàng giả: gần đây, ở một số địa phương phát hiện thép xây dựng
giả nhãn mác của thép do nhà máy gang thép Thái Nguyên sản xuất, ở biên giới
Tây Nam tiếp tục có tình trạng thuốc lá giả sản xuất tại thành phố Hồ Chí Minh,
được chuyển qua Campuchia và nhập lậu trở lại Việt Nam (chủ yếu là thuốc lá Jet).
Về chống buôn lậu: đường kính và thuốc lá điếu vẫn tiếp tục nhập lậu với số
lượng lớn. Trong thời gian lũ, lụt, nhập lậu tăng mạnh ở khu vực biên giới Tây
Nam, do khả năng kiểm soát vốn đã hạn chế, khi lũ lụt càng khó kiểm soát hơn.
5. Một số nhận định về thị trường
Mặt được
- 9 tháng đầu năm thị trường tương đối ổn định, so với cùng kỳ năm 2000
lưu thông hàng hoá tăng ở hầu hết các địa phương trong cả nước.
- Giá lương thực sau nhiều tháng liên tục giảm so với cùng kỳ năm 2000,
nay đã chuyển biến và đang có xu hướng tăng, có lợi cho nông dân (xem thêm ở
phần chỉ số giá tiêu dùng).
- Tổ chức khá tốt việc bán mặt hàng chính sách phục vụ đồng bào miền núi.
Mặt chưa được
- Thời gian qua chính sách thuế thay đổi nhiều đã ảnh hưởng không tốt tới
môi trường kinh doanh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
- Chỉ số giá tiêu dùng vẫn ở mức thấp, không có lợi cho nông dân.
- Kinh doanh xăng dầu chưa có cơ chế ổn định.
- Quản lý vệ sinh, phòng dịch và chất lượng thực phẩm còn lỏng lẻo, nhất là
với các hộ kinh doanh cá thể.
Nguyên nhân chủ yếu
a. Nguyên nhân tích cực:
- Nhiều chuyên gia đánh giá, biến động tăng tỷ giá VNĐ/USD vừa qua
không lớn nhưng đã góp phần thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu.
- Các biện pháp kích cầu của Chính phủ tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh,
tổng khối lượng thanh toán 8 tháng đầu năm tăng khoảng 13%.
- Chính phủ có nhiều biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu các tháng cuối năm, để
đạt mục tiêu xuất khẩu đã đề ra; gắn lưu thông hàng hoá trong nước với xuất, nhập
khẩu mặt hàng thiết yếu.
b. Nguyên nhân hạn chế:
- 9 tháng đầu năm sức mua có tăng và phụ thuộc phần lớn vào hỗ trợ của
Nhà nước, nên chưa thể có sự biến đổi căn bản và tăng nhanh sức mua.
- Thuế giá trị gia tăng sau một thời gian triển khai thực hiện đã nẩy sinh
nhiều vấn đề bất cập, cần nhanh chóng sửa đổi để khuyến khích các doanh nghiệp
có hoạt động lành mạnh.
- Về vốn có nghịch lý đang tồn tại là các Ngân hàng thương mại thì ứ đọng
vốn, còn các doanh nghiệp thiếu vốn thì không vay được ở Ngân hàng do bị ràng
buộc nhiều thủ tục phiền hà, đặc biệt là vấn đề thủ tục thế chấp vay tiền.
- Giá lương thực tuy có tăng so với tháng 8, nhưng về tổng thể thì giá nông
sản vẫn ở mức thấp, thu nhập của nông dân tăng rất chậm.
Phần thứ hai
SỰ CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI
I. CHÍNH PHỦ
- Đồng ý Bộ Thương mại thay mặt Chính phủ ta ký Hiệp định Thương mại
với Tadania, Dimbabuê và Síp; nguyên tắc phương án đàm phán điều chỉnh Hiệp
định dệt may với EU; Nghị định thư và Bản chào cam kết của ta về hợp tác dịch vụ
ASEAN.
- Yêu cầu Bộ Thương mại làm việc với Indonesia để đạt được thoả thuận
Indonesia sẽ mua ổn định gạo của Việt Nam trong thời gian 3 - 4 năm với khối
lượng hàng năm từ 1,2 - 1,5 triệu tấn. Đồng ý bán trả chậm với thời hạn 2 năm cho
Indonesia 100 ngàn tấn gạo và miễn lãi suất trả chạm 1 năm.
- Ban hành quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, nâng mức vốn điều lệ của
Quỹ hỗ trợ phát triển lên 5.000 tỷ đồng.
- Bổ sung ô tô chở khách từ 25 chỗ ngồi trở lên vào danh mục các sản phẩm
cơ khí ưu đãi được hưởng chính sách hỗ trợ phát triển
II. BỘ THƯƠNG MẠI
1. Ban hành và hướng dẫn văn bản qui phạm Pháp luật
- Hướng dẫn thực hiện Nghị định của Chính phủ về quy định chi tiết thi
hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua
bán hàng hoá với nước ngoài.
- Góp ý kiến với dự thảo Nghị định của Chính phủ về phân loại hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu theo công ước HS.
- Phối hợp với Bộ Thuỷ sản giải quyết việc xuất khẩu tôm sang thị trường
Nhật Bản (ngăn chặn tôm xuất khẩu có dư lượng phóng xạ cho phép); phối hợp với
liên Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Ngoại giao, Tư pháp, Tổng cục Hải quan
về "một số nội dung sẽ đưa vào Hiệp định về mậu dịch tự do Việt Nam - Liên
Bang Nga".
- Trình thủ tướng Chính phủ Đề án giảm bớt mặt hàng trong danh mục hàng
xuất khẩu không thuộc đối tượng doanh nghệp có vốn đầu tư nước ngoài mua để
xuất khẩu