Trong nền sản xuất xã hội ở bất kỳ một quốc gia nào, tiền lương luôn là một vấn đề
"thời sự nóng bỏng". Nó hàm chứa trong đó nhiều mối quan hệ giữa sản xuất và phân phối
trao đổi giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa thu nhập và nâng cao mức sống của các thành
phần dân cư.
Năm 1986, khi nước ta tiến hành đổi mới. Nó như một cái mốc đánh dấu sự chuyển
biến của nền kinh tế. Nước ta từ chỗ là nền kinh tế lạc hậu, tập chung quan liêu bao cấp
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, trước tình hình đó các
doanh nghiệp phải tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự hạch toán chi phí mà trong đó chi
phí tiền lương chiếm phần không nhỏ, nó được coi là một mảng rất lớn. Vì vậy mà càng
trở thành vấn đề quan trọng của các doanh nghiệp đó.
Đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, để tồn tại và phát triển họ
phải tìm mọi cách nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn vậy thì công
tác quản lý lao động và tiền lương phải được chú ý đúng mức. Những việc làm khác sẽ
không phát huy được tác dụng thậm chí không có hiệu quả nếu công tác này không được
quan tâm đúng mức và không thường xuyên được củng cố.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tổ chức quản lý lao động và tiền lương là nội
dung quan trọng trong công tác quản trị kinh doanh của doanh nghiệp, nó là một trong
những nhân tố quan trọng nhất quyết định số lượng, chất lượng của sản phẩm hàng hoá.
Công việc tổ chức công tác, sử dụng tiền lương giúp cho việc quản lý lao động của doanh
nghiệp đi vào nền nếp thúc đẩy người lao động hăng say sản xuất, chấp hành tốt kỷ luật lao
động nhằm tăng năng xuất và hiệu quả công việc, đồng thời cũng tạo cơ sở tính lương
đúng với nguyên tắc phân phối theo lao động. Nếu tổ chức tốt công tác lao động - tiền
lương, quản lý tốt quỹ lương và đảm bảo trả lương, trợ cấp, bảo hiểm xã hội theo đúng chế
độ chính sách thì sẽ tạo cơ sở cho việc phân bổ chi phí nhân công và giá thành được chính
xác, đặc biệt đối với doanh nghiệp có quy mô và số lượng cán bộ công nhân viên lớn.
Công ty Dệt - May Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Công nghiệp. Hoạt
động chính của Công ty là sản xuất những mặt hàng phục vụ cho người tiêu dùng trong
nước và nước ngoài. Do đó yêu cầu đặt ra với Công ty là phải có một đội ngũ cán bộ công
nhân viên đông đảo có trình độ chuyên môn cao và năng lực làm việc tốt để đảm bảo cho
hoạt động sản xuất kinh doanh không bị ngừng trệ nhằm tạo cho Công ty chỗ đứng vững
chắc trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt hiện nay. Chính vì lẽ đó
mà công tác quản lý lao động tiền lương của Công ty rất được coi trọng.
60 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2119 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổ chức quản lý sử dụng lao động và tiền lương tại Công ty Dệt - May Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tổ chức quản lý sử dụng lao động và tiền
lương trong Công ty Dệt - may Hà Nội
Lời mở đầu
Trong nền sản xuất xã hội ở bất kỳ một quốc gia nào, tiền lương luôn là một vấn đề
"thời sự nóng bỏng". Nó hàm chứa trong đó nhiều mối quan hệ giữa sản xuất và phân phối
trao đổi giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa thu nhập và nâng cao mức sống của các thành
phần dân cư.
Năm 1986, khi nước ta tiến hành đổi mới. Nó như một cái mốc đánh dấu sự chuyển
biến của nền kinh tế. Nước ta từ chỗ là nền kinh tế lạc hậu, tập chung quan liêu bao cấp
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, trước tình hình đó các
doanh nghiệp phải tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự hạch toán chi phí mà trong đó chi
phí tiền lương chiếm phần không nhỏ, nó được coi là một mảng rất lớn. Vì vậy mà càng
trở thành vấn đề quan trọng của các doanh nghiệp đó.
Đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, để tồn tại và phát triển họ
phải tìm mọi cách nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn vậy thì công
tác quản lý lao động và tiền lương phải được chú ý đúng mức. Những việc làm khác sẽ
không phát huy được tác dụng thậm chí không có hiệu quả nếu công tác này không được
quan tâm đúng mức và không thường xuyên được củng cố.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tổ chức quản lý lao động và tiền lương là nội
dung quan trọng trong công tác quản trị kinh doanh của doanh nghiệp, nó là một trong
những nhân tố quan trọng nhất quyết định số lượng, chất lượng của sản phẩm hàng hoá.
Công việc tổ chức công tác, sử dụng tiền lương giúp cho việc quản lý lao động của doanh
nghiệp đi vào nền nếp thúc đẩy người lao động hăng say sản xuất, chấp hành tốt kỷ luật lao
động nhằm tăng năng xuất và hiệu quả công việc, đồng thời cũng tạo cơ sở tính lương
đúng với nguyên tắc phân phối theo lao động. Nếu tổ chức tốt công tác lao động - tiền
lương, quản lý tốt quỹ lương và đảm bảo trả lương, trợ cấp, bảo hiểm xã hội theo đúng chế
độ chính sách thì sẽ tạo cơ sở cho việc phân bổ chi phí nhân công và giá thành được chính
xác, đặc biệt đối với doanh nghiệp có quy mô và số lượng cán bộ công nhân viên lớn.
Công ty Dệt - May Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Công nghiệp. Hoạt
động chính của Công ty là sản xuất những mặt hàng phục vụ cho người tiêu dùng trong
nước và nước ngoài. Do đó yêu cầu đặt ra với Công ty là phải có một đội ngũ cán bộ công
nhân viên đông đảo có trình độ chuyên môn cao và năng lực làm việc tốt để đảm bảo cho
hoạt động sản xuất kinh doanh không bị ngừng trệ nhằm tạo cho Công ty chỗ đứng vững
chắc trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt hiện nay. Chính vì lẽ đó
mà công tác quản lý lao động tiền lương của Công ty rất được coi trọng.
Qua việc nghiên cứu và tham khảo tài liệu về Công ty Dệt - May Hà Nội, bằng
những kiến thức đã được trang bị trong quá trình học tập tại trường, cùng với sự chỉ bảo
của thầy giáoThạch cũng như sự giúp đỡ tận tình của cán bộ thư viện trường ĐHKDTQ đã
tạo điều kiện cho tôi trong việc tham khảo tài liệu, tôi đã chọn vấn đề: "Tổ chức quản lý
sử dụng lao động và tiền lương trong Công ty Dệt - may Hà Nội" để làm đề tài cho bài
thực hành thống kê của mình.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bản thực hành thống kê
được kết cấu làm 3 phần.
Phần I: Cơ sở lý luận chung về quản lý lao động và tiền lương trong doanh
nghiệp.
Phần II: Tổ chức quản lý, sử dụng lao động và tiền lương trong Công ty Dệt -
May Hà Nội.
Phần I:
Cơ sở lý luận chung về quản lý lao động
và tiền lương
I. Quản lý lao động và tiền lương trong doanh nghiệp.
1. Cơ sở lý luận chung về quản lý lao động.
1.1 Quản lý lao động là gì ?
Quản lý lao động là hoạt động quản lý lao động con người trong một tổ chức nhất
định trong đó chủ thể quản trị tác động lên khách thể bị quản trị nhằm mục đích tạo ra lợi
ích chung của tổ chức. Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp được đặt trong sự
cạnh tranh quyết liệt. Vì vậy để tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải thường xuyên tìm
cách nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong đó các công việc phải quan tâm hàng
đầu là quản trị lao động. Những việc làm khác sẽ trở nên vô nghĩa nếu công tác quản lý lao
động không được chú ý đúng mức không được thường xuyên củng cố. Thậm chí không có
hiệu quả, không thể thực hiện bất kỳ chiến lược nào nếu từng hoạt động không đi đôi với
việc hoàn thiện và cải tiến công tác quản lý lao động. Một doanh nghiệp dù có điều kiện
thuận lợi trong kinh doanh, có đầy đủ điều kiện vật chất kĩ thuật để kinh doanh có lãi, một
đội ngũ công nhân viên đủ mạnh nhưng khoa học quản lý không được áp dụng một cách
có hiệu quả thì doanh nghiệp đó cũng không tồn tại và phát triển được. Ngược lại một
doanh nghiệp đang có nguy cơ sa sút, yếu kém để khôi phục hoạt động của nó, cán bộ lãnh
đạo phải sắp xếp, bố trí lại đội ngũ lao động của doanh nghiệp, sa thải những nhân viên
yếu kém, thay đổi chỗ và tuyển nhân viên mới nhằm đáp ứng tình hình hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với khả năng làm việc của từng người.
Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã làm cho các mối quan hệ giữa con
người càng trở nên phức tạp. Nhiệm vụ của quản lý lao động là điều hành chính xác trọn
vẹn các mối quan hệ ấy để cho sản xuất được tiến hành nhịp nhàng, liên tục và đem lại
hiệu quả cao. Vì vậy vai trò của quản lý lao động đối với doanh nghiệp là rất quan trọng.
Bởi lẽ quản lý lao động là bộ phận không thể thiếu được của quản trị sản xuất kinh doanh,
nó nhằm củng cố và duy trì đầy đủ số lượng và chất lượng người làm việc cần thiết cho tổ
chức để đạt được mục tiêu đề ra, tìm kiếm và phát triển những hình thức, những phương
pháp tốt nhất để con người có thể đóng nhiều sức lực cho các mục tiêu của tổ chức đồng
thời cũng tạo cơ hội để phát triển không ngừng chính bản thân con người. Sử dụng có hiệu
quả nguồn lực của con người là mục tiêu của quản lý lao động.
1.2 Các quan điểm về quản lý lao động trong doanh nghiệp.
Nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghiã với chính sách “đổi mới” hội nhập với các
nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Yếu tố con người, yếu tố trí tuệ được đề cao hơn
yếu tố vốn và kỹ thuật, trở thành nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi doanh nghiệp.
Do vậy yêu cầu về trình độ và năng lực của con người, của mỗi doanh nghiệp cũng khác
trước tạo nên sự đòi hỏi về hai phía:
Mọi doanh nghiệp ở mức tối thiểu đều yêu cầu đội ngũ công nhân viên của mình
hoàn thành nhiệm vụ, đạt tiêu chuẩn định mức đặt ra, chấp hành những chính sách, những
quy định của công ty.
Tuy nhiên trong thực tế kinh doanh, các doanh nghiệp ngày càng yêu cầu dội ngũ
nguồn nhân lực của mình nhiều hơn mức tối thiểu. Doanh nghiệp không chỉ yêu cầu nhân
viên hoàn thành công việc mà phải biết sáng tạo, cải tiến tìm ra những giải pháp, phương
pháp mới, không chỉ chấp hành quy chế mà còn phải nhiệt huyết, gắn bó với doanh nghiệp,
có trách nhiệm với kết quả chung của doanh nghiệp. Không phải chỉ có những đòi hỏi từ
phía doanh nghiệp đối với người lao động mà ngược lại đội ngũ người lao động cũng có
những đòi hỏi nhất định đối với doanh nghiệp mà họ đang làm việc. ở một mức tối thiểu,
công nhân yêu cầu doanh nghiệp phải trả lương đầy đủ, đúng hạn, hợp lý và các điều kiện
lao động an toàn. Người lao động yêu cầu tham gia vào quá trình xây dựng chiến lược,
chính sách của doanh nghiệp. Người lao động muốn phát triển năng lực cá nhân bằng cách
nâng cao và tiếp thu những kiến thức, những kỹ năng mới. Họ muốn cống hiến, muốn vận
động đi lên trong hệ thống các vị trí, chức vụ công tác của doanh nghiệp, được chủ động
tham gia đóng góp quan trọng vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Với một nền kinh
tế đang trên đà phát triển mạnh tạo nên sự cạnh tranh đầu vào về lao động giữa các doanh
nghiệp ngày càng cao. Người lao động do đó cần phải trang bị cho mình những kiến thức
và rèn luyện kỹ năng đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Ngược lại doanh nghiệp cần phải
có chính sách thích hợp đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của người lao động, tạo nên một
môi trường làm việc có hiệu quả để doanh nghiệp đạt được mục đích lợi nhuận tối đa.
Quản lý lao động là quản lý một nhân tố cơ bản nhất, quyết định nhất của lực lượng
sản xuất đó là nhân tố con người. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh hiện nay, các cơ sở
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được đều rất cần được trang bị máy móc thiết bị
hiện đại, có sự nhảy vọt thay đổi về chất. Tuy nhiên nếu thiếu nhân tố con người, thiếu một
đội ngũ lao động có trình độ, có tổ chức thì cũng không thể phát huy hết được tác dụng của
các nhân tố kia.
Tóm lại, để quản lý lao động tốt thì phải giải quyết những mục tiêu sau:
Thứ nhất là sử dụng lao động một cách hợp lý có kế hoạch phù hợp với điều kiện tố
chức, kỹ thuật, tâm sinh lý người lao động nhằm không ngừng tăng năng suất lao động trên
cơ sở kết hợp chặt chẽ với các yếu tố khác của quá trình sản xuất nhằm khai thác có hiệu
quả nhất mọi nguồn lực của sản xuất kinh doanh.
Thứ hai là bồi dưỡng sức lao động về trình độ văn hoá, chính trị, tư tưởng, chuyên
môn nghiệp vụ và đặc biệt là nâng cao mức sống vật chất, tinh thần nhằm đảm bảo tái sản
xuất sức lao động, phát triển toàn diện con người.
Quản lý lao động nhằm sử dụng và bồi dưỡng lao động là hai mặt khác nhau nhưng
nó lại liên quan mật thiết với nhau. Nếu tách rời hoặc đối lập giữa hai công việc này là sai
lầm nghiêm trọng, không chỉ nói đến sử dụng lao động mà quên bồi dưỡng sức lao động và
ngược lại.
2. Cơ sở lý luận chung về tiền lương.
Tiền lương được hiểu là số tiền mà người lao động nhận được từ người sử dụng lao
động thanh toán lại tương ứng với số lượng và chất lượng lao động mà họ đã tiêu hao
trong quá trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Như vậy tiền lương được biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động. ở
nước ta hiện nay có sự phân biệt rõ ràng giữa các yếu tố trong tổng thu nhập từ lao động
sản xuất kinh doanh của người lao động: tiền lương (lương cơ bản) phụ cấp, tiền thưởng và
phúc lợi xã hội. Theo quan điểm của Chính phủ trong chính sách tiền lương năm 1993, tiền
lương là giá cả sức lao động, được hình thành thông qua thoả thuận giữa người lao động và
người sử dụng lao động phù hợp với quan hệ cung cầu sức lao động trong nền kinh tế thị
trường. Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và
được trả theo năng suất, chất lượng lao động và hiệu quả công việc.
2.1 Bản chất của tiền lương.
Để tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh cần phải có các yếu tố cơ bản: lao động,
tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó lao động là yếu tố chính có tính chất
quyết định. Lao động không có giá trị riêng biệt mà lao động là hoạt động tạo ra giá trị.
Cái mà người ta mua bán không phải là lao động mà là sức lao động. Khi sức lao động trở
thành hàng hoá thì giá trị của nó được đo bằng lao động kết tinh trong một sản phẩm.
Người lao động bán sức lao động và nhận được giá trị của sức lao động dưới hình thái tiền
lương.
Theo quan điểm tiền lương là số lượng tièn tệ mà người sử dụng lao động trả cho
người lao động để hoàn thành công việc theo chức năng, nhiệm vụ quy định thì bản chất
tiền lương là giá cả hàng hoá sức lao động được hình thành thông qua sự thoả thuận giữa
người lao động và người sử dụng lao động đồng thời chịu sự chi phối của các quy luật kinh
tế trong đó có quy luật cung cầu. Tiền lương người lao động nhận được phải đảm bảo là
nguồn thu nhập, nguồn sống của bản thân người lao động và gia đình, là điều kiện để
người lao động hoà nhập với xã hội.
Cũng như các loại giá cả hàng hoá khác trên thị trường, tiền lương và tiền công của
người lao động ở khu vực sản xuất kinh doanh do thị trường quyết định. Nguồn tiền lương
và thu nhập của người lao động bắt nguồn từ kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Sự quản lý vĩ mô của Nhà nướcvề lĩnh vực này bắt buộc các doanh nghiệp phải đảm bảo
cho người lao động có mức thu nhập thấp nhất phải bằng mức lương tối thiểu do Nhà nước
quy định.
Trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, sức lao động là yếu tố mang tính
quyết định. Do đó có thể nói tiền lương là phạm trù của sản xuất, yêu cầu phải tính đúng,
tính đủ trước khi trả hoặc cấp phát cho người lao động.
Cũng chính vì sức lao động là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất cần phải được
bù đắp sau khi đã hao phí, nên tiền lương cũng phải được thông qua quá trình phân phối và
phân phối lại thu nhập quốc dân dựa trên hao phí, hiệu quả lao động. Và ở đây tiền lương
lại thể hiện là một phạm trù phân phối. Sức lao động là hàng hoá cũng như các loại hàng
hoá khác nên tiền lương cũng là phạm trù trao đổi. Nó đòi hỏi phải ngang giá với giá cả
của các tư liệu tiêu dùng, sinh hoạt cần thiết nhằm tái sản xuất sức lao động. sức lao động
cần phải được tái sản xuất thông qua quỹ tiêu dùng cá nhân và do đó tiền lương lại là phạm
trù thuộc lĩnh vực tiêu dùng...
Như vậy tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền lao động, tiền tệ và nền sản
xuất hàng hoá. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động mà
người lao động sử dụng để bù đắp hao phí lao động đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Mặt khác, về hình thức, trong điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hoá và tiền tệ
thì tiền lương là một bộ phận cấu thành nên giá trị sản phẩm do lao động tạo ra. Tuỳ theo
cơ chế quản lý mà tiền lương có thể được xác định là một bộ phận của chi phí sản xuất cấu
thành nên giá thành sản phẩm hay là một bộ phận của thu nhập.
2.2 Chức năng của tiền lương.
Tiền lương là một nhân tố hết sức quan trọng của quá trình quản lý nói chung và
quản lý lao động tiền lương nói riêng. Có thể kể ra một số chức năng cơ bản của tiền lương
như sau:
- Kích thích lao động (tạo động lực): Chức năng này nhằm duy trì năng lực làm
việc lâu dài có hiệu quả, dựa trên cơ sở tiền lương phải đảm bảo bù đắp sức lao động đã
hao phí để khuyến khích tăng năng suất. Về mặt nguyên tắc, tiền lương phải đảm bảo lợi
ích kinh tế cho người lao động, tạo niềm hứng khởi trong công việc, phát huy tinh thần
sáng tạo tự học hỏi để nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn để từ đó giúp họ làm việc
với hiệu quả cao nhất và mức lương nhận được thoả đáng nhất.
- Giám sát lao động: giúp nhà quản trị tiến hành kiểm tra, theo dõi, giám sát người
lao động làm việc theo kế hoạch của mình nhằm đạt được những mục tiêu mong đợi, đảm
bảo tiền lương chi ra phải đạt hiệu quả cao. Hiệu quả của việc chi trả lương không chỉ tính
theo tháng, quý mà còn được tính theo từng ngày, từng giờ trong toàn doanh nghiệp hoặc ở
các bộ phận khác nhau.
- Điều hoà lao động: đảm bảo vai trò điều phối lao động hợp lý, người lao động sẽ
từ nơi có tiền lương thấp đến nơi có tiền lương cao hơn. Với mức lương thoả đáng, họ sẽ
hoàn thành tốt các công việc được giao.
- Tích luỹ: với mức tiền lương nhận được, người lao động không những duy trì
cuộc sống hàng ngày mà còn để dự phòng cho cuộc sống sau này khi họ đã hết khả năng
lao động hoặc gặp rủi ro bất ngờ.
2.3 Quỹ tiền lương, các hình thức trả lương và các loại tiền thưởng:
2.3.1 Quỹ tiền lương trong doanh nghiệp.
Căn cứ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp xác
định nguồn quỹ lương tương ứng để trả cho người lao động. Nguồn này bao gồm:
- Quỹ tiền lương theo đơn giá tiền lương được giao
- Quỹ tiền lương bổ xung theo chế độ quy định của Nhà nước.
- Quỹ tiền lương từ các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ khác ngoài đơn giá
tiền lương được giao.
- Quỹ tiền lương dự phòng từ năm trước chuyển sang.
Nguồn quỹ tiền lương nêu trên được gọi là tổng quỹ tiền lương.
Như vậy cán bộ công nhân viên sẽ được nhận tiền lương phụ cấp từ quỹ tiền lương
của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp việc quản lý quỹ lương đòi hỏi phải hết sức chặt
chẽ, hợp lý, hiệu quả và việc cấp phát lương phải đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao
động... nhằm tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Quản lý và kiểm tra việc
thực hiện quỹ lương ở các doanh nghiệp phải do cơ quan chủ quản của doanh nghiệp tiến
hành trên cơ sở đối chiếu, so sánh thường xuyên quỹ lương thực hiện với quỹ lương kế
hoạch của doanh nghiệp trong mối quan hệ với việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Mặt khác thực hiện việc quản lý tiền lương là xác định mối quan
hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động với Nhà nước về phân chia lợi ích sau
một thời kỳ, hay khoảng thời gian sản xuất kinh doanh nhất định cùng với một số chỉ tiêu
tài chính khác. Việc xác định giá trị hao phí sức lao động cho một đơn vị sản phẩm, cho
1000 đ doanh thu hay lợi nhuận là hết sức quan trọng và cần thiết. Đó là chi phí hợp lệ
trong giá thành, là căn cứ để xác định lợi tức chịu thuế , là công cụ để Nhà nước quản lý
tiền lương và thu nhập trong các doanh nghiệp. Cụ thể, Nhà nước quyết định đơn giá tiền
lương của các sản phẩm trọng yếu, đặc thù, các sản phẩm còn lại thì doanh nghiệp tự tính
giá tiền lương theo hướng dẫn chung (Thông tư số 13/LĐTBXH-TT ban hành ngày
10/4/1997). Doanh nghiệp sẽ tự quyết định đơn giá tiền lương nhưng phải đăng ký với cơ
quan chủ quản. Việc xác định đơn giá tiền lương có thể dựa trên các chỉ tiêu sau:
- Tổng sản phẩm (kể cả sản phẩm quy đổi) bằng hiện vật.
- Tổng doanh thu.
- Tổng thu trừ tổng chi.
- Lợi nhuận.
Doanh nghiệp sẽ xác định đơn giá tiền lương tuỳ theo tính chất, đặc điểm hoạt
động sản xuất kinh doanh, cơ cấu tổ chức và chỉ tiêu kinh tế gắn với việc trả lương có hiệu
quả của doanh nghiệp.
Sử dụng tổng quỹ tiền lương: Để đảm bảo quỹ tiền lương không vượt chi so với quỹ
tiền lương được hưởng, dồn chi quỹ tiền lương vào các tháng cuối năm hoặc để dự phòng
quỹ tiền lương quá lớn cho năm sau, có thể quy định phân chia tổng quỹ tiền lương theo
các quỹ sau:
- Quỹ tiền lương trả trực tiếp cho người lao động theo lương khoán, lương sản
phẩm, lương thời gian: ít nhất bằng 76% tổng quỹ lương.
- Quỹ khen thưởng từ quỹ lương đối với người lao động có năng suất chất lượng
cao, có thành tích tốt trong công tác tối đa không quá 10% tổng quỹ tiền lương.
- Quỹ khuyến khích người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, tay
nghề giỏi: tối đa không quá 2% tổng quỹ tiền lương.
- Quỹ dự phòng cho các năm sau: tối đa không quá 12% tổng quỹ lương.
2.3.2 Các hình thức trả lương.
Hiện nay tại các doanh nghiệp người ta thường áp dụng hai hình thức trả lương chủ
yếu sau:
Trả lương theo thời gian.
Hình thức tiền lương theo thời gian là hình thức tiền lương mà số tiền trả cho người
lao động căn cứ vào thời gian làm việc và tiền lương của một đơn vị thời gian ( giờ hoặc
ngày). Như vậy tiền lương theo thời gian phụ thuộc vào 2 yếu tố:
- Mức tiền lương trong một đợn vị sản phẩm.
- Thời gian đã làm việc.
Tiền lương trả theo thời gian chủ yếu áp dụng đối với những người làm công tác
quản lý, còn đối với công nhân sản xuất chỉ nên áp dụng ở những bộ phận không thể tiến
hành định mức một cách chặt chẽ và chính xác hoặc vì tính chất hạn chế do việc trả công
theo sản phẩm sẽ không đảm bảo được chất lượng sản phẩm, không đem lại hiệu quả thiết
thực. Tuỳ theo yêu cầu và trình độ quản lý việc tính và trả lương theo thời gian có thể thực
hiện theo hai cách:
a. Trả lương theo thời gian giản đơn: ( giờ, ngày, tháng...)
Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn là chế độ trả lương mà tiền lương nhận
được của mỗi người công nhân do mức lương cấp bậc cao hay thấp và thời gian làm việc
thực tế ít hay nhiều quyết định.
Tiền lương trả cho người lao động được tính theo công thức:
L = LCB x TH
Trong đó: L : Lương nhận được.
LCB : Lương cấp bậc.
TH :