Phát triển kinh tế là một yêu cầu đòi hỏi cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Nhưng một
nền kinh tế phát triển nhanh hay chậm lại phụ thuộc vào những chính sách cụ thể của
từng quốc gia và các bộ, ngành ở quốc gia đó. Vì mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng văn minh” Đảng và Nhà nước cùng các bộ, ngành đã nỗ lực cố gắng đưa ra
các chính sách đúng đắn và các biện pháp giải quyết phù hợp để đưa nền kinh tế nước ta
phát triển nhanh, mạnh.
Trong nội dung đề án này đề cập đến một góc độ làm cho nền kinh tế có thể suy
thoái, có thể phát triển nhanh hay chậm.
Đề tài: “Trình bày lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. ý nghĩa thực
tiến rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của
nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” là
một đề tài rộng lớn và phức tạp.
31 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2470 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trình bày lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản và ý nghĩa thực tiến rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Trình bày lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển
của tư bản. ý nghĩa thực tiến rút ra khi
nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý
các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa
Lời nói đầu
Phát triển kinh tế là một yêu cầu đòi hỏi cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Nhưng một
nền kinh tế phát triển nhanh hay chậm lại phụ thuộc vào những chính sách cụ thể của
từng quốc gia và các bộ, ngành ở quốc gia đó. Vì mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng văn minh” Đảng và Nhà nước cùng các bộ, ngành đã nỗ lực cố gắng đưa ra
các chính sách đúng đắn và các biện pháp giải quyết phù hợp để đưa nền kinh tế nước ta
phát triển nhanh, mạnh.
Trong nội dung đề án này đề cập đến một góc độ làm cho nền kinh tế có thể suy
thoái, có thể phát triển nhanh hay chậm.
Đề tài: “Trình bày lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. ý nghĩa thực
tiến rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của
nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” là
một đề tài rộng lớn và phức tạp.
I. Mở đầu.
1. Cơ sở lý luận.
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và quá
trình lưu thông, giữa quá trình tạo ra giá trị thặng dư và quá trình thực hiện giá trị thặng dư.
Vì vậy, sau khi đã nghiên cứu các quá trình khác, cần nghiên cứu quá trình lưu thông để
xác định rõ hơn nữa vị trí của lưu thông và tác dụng tích cực của nó đối với sản xuất cũng
như đối với nền kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh đưa đất nước
ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu để nhân dân ta được no, ấm hơn và thoả mãn các nhu
cầu khác cao hơn.
Việc nghiên cứu quá trình lưu thông của tư bản còn cung cấp cho chúng ta một số
cơ sở lý luận chung về vấn đề này để nghiên cứu nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, chẳng hạn
như lý luận về tư bản cố định và tư bản lưu động, thời gian sản xuất, thời gian lưu
thông,... Vì lưu thông tư bản là quá trình biến tư bản từ hình thái tiền tệ sang hình thái
hàng hoá và từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ. Theo nghĩa rộng thì lưu thông tư
bản chính là sự vận động của tư bản qua bai giai đoạn: hai giai đoạn lưu thông và một
giai đoạn sản xuất, cho nên lưu thông là khâu quan trọng mà chúng ta đề cập tới. Nếu xử
lý tốt khâu này thì nền kinh tế sẽ thuận lợi trong việc sử dụng vốn, rút ngắn thời gian chu
kỳ vốn quay vòng, các khâu trao đổi và mua bán khác,...
Nước ta đang có nguy cơ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu
vực do điểm xuất phát thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt, nên
nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần rút ngắn khoảng cách tụt hậu ngày một gần hơn.
2. Cơ sở thực tiễn.
Nghiên cứu tự tuần hoàn và chu chuyển của tư bản có ý nghĩa thực tiễn đối với
chúng ta. Vì nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường nên trong sản xuất kinh doanh
đòi hỏi chúng ta phải quay vòng vốn nhanh, sử dụng vốn một cách hợp lý có hiệu quả.
Có như vậy mới nâng cao được lợi nhuận, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh
hơn.
Dựa vào nhu cầu về vốn và việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp có hiệu quả hay
không, Nhà nước và các bộ, ngành có thể đưa ra các chính sách thoả đáng nhằm thu hút
vốn ở trong nước hoặc đầu tư nước ngoài về để đáp ứng nhu cầu vốn và có các chính
sách cụ thể đối với từng doanh nghiệp, xây dựng công cụ quản lý các doanh nghiệp.
Nhà kinh tế A.Smith vì: “tiền là dầu mỡ bôi trơn cỗ xe kinh tế, là bánh xe vĩ đại của
lưu thông”. Vì vậy nghiên cứu vấn đề lưu thông có ý nghĩa thực tiễn đối với chúng ta
trong khi nền kinh tế thị trường đang diễn ra náo nhiệt, sôi động.
II. Nội dung.
A. Tuần hoàn tư bản.
1. Ba giai đoạn của sự vận động của tư bản và sự biến hoá hình thái của tư bản.
Mọi tư bản đều xuất hiện trước hết dưới hình thức một số lượng tiền tệ nhất định và
được sử dụng để mang lại tiền tệ phụ thêm bằng cách bóc lột lao động làm thuê. Để đạt
được kết quả ấy, tư bản phải vận động qua ba giai đoạn:
a. Giai đoạn thứ nhất:
Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách là người mua, thực hiện hành vi T-
H.
Mới nhìn thì T-H cũng chỉ là một hành vi mua bán thông thường. Tiền tệ ở đây
được sử dụng làm phương tiện mua như mọi tiền tệ khác trong lưu thông. Nhưng nếu xét
kỹ các loại hàng hoá mà nhà tư bản đã mua thì tiền tệ đóng vai trò khác hẳn. Hàng hoá
mua được ở đây là tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là những nhân tố vật chất và
người của sản xuất hàng hoá. Dĩ nhiên là đặc tính của các nhân tố này phải phù hợp với
loại sản phẩm cần chế tạo. Ngoài sự phù hợp về tính chất ra, sức lao động và tư liệu sản
xuất còn phải phù hợp với nhau về mặt số lượng nữa. Tư liệu sản xuất phải bảo đảm đầy
đủ cho việc sử dụng triệt để toàn bộ thời gian lao động tất yếu và lao động thặng dư của
sức lao động. Quá trình này có thể trình bày theo công thức:
Trong đó:
+ SLĐ: sức lao động
+ T: là tiền tệ
+ H: là hàng hoá
+ TLSX: tư liệu sản xuất
T - H
TLSX
SLĐ
Ta thấy trong quá trình này, hành vi T - SLĐ là yếu tố đặc trưng khiến tiền xuất
hiện là tư bản. Hành vi T - TLSX chỉ cần thiết để cho sức lao động đã mua có thể hoạt
động được. Song T - SLĐ được coi là nét đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa không phải là vì tính chất tiền tệ của mối quan hệ đó. Tiền đã xuất hiện rất sớm để
mua cái gọi là những sự phục vụ, nhưng mặc dầu thế, tiền lúc ấy vẫn không biến thành tư
bản tiền tệ. Nét đặc trưng ở đây không phải là ở chỗ người ta có thể mua được sức lao
động bằng tiền, mà là ở chỗ sức lao động xuất hiện thành hàng hoá. Đây là một việc mua
bán, một quan hệ tiền tệ, nhưng trong đó người mua là nhà tư bản, họ chiếm hữu tư liệu
sản xuất và người bán là người lao động làm thuê đã tách rời hoàn toàn với tư liệu sản
xuất và tư liệu sinh hoạt. Vậy không phải bản chất của tiền tệ đẻ ra mối quan hệ tư bản
chủ nghĩa, trái lại, chính sự tồn tại của mối quan hệ đó mới làm cho chức năng đơn giản
của tiền biến thành chức năng của tư bản. Do đó, chính trên cơ sở tư liệu sản xuất và sức
lao động hoàn toàn tách rời nhau, quan hệ giai cấp giữa nhà tư bản và người lao động làm
thuê đã có, mà tiền của nhà tư bản ứng ra để thực hiện hành vi
là tư bản tiền tệ. Song quá trình này, giá trị tư bản đã lột bỏ “chiếc áo khoác” hình
thái tiền tệ để tồn tại dưới hình thái hiện vật là sức lao động và tư liệu sản xuất, dưới hình
thái các yếu tố của sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là hình thái tư bản sản xuất. Như vậy,
kết quả của giai đoạn thứ nhất là tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.
b. Giai đoạn thứ hai.
Nhà tư bản tiêu dùng sản xuất các hàng hoá đã mua, tức là tiến hành sản xuất. Kết
quả là nhà tư bản có được một hàng hoá có giá trị lớn hơn giá trị của các yếu tố sản xuất
hàng hoá đó.
Quá trình này có thể được mô tả như sau:
T - H
TLSX
SLĐ
H
TLSX
SLĐ
.... SX H ’
Quá trình sản xuất diễn ra ở đây cũng giống như mọi quá trình sản xuất của mọi
hình thái xã hội là do kết hợp hai yếu tố người lao động và tư liệu sản xuất lại mà có.
Song sự kết hợp hai yếu tố vốn hoàn toàn tách rời nhau này là do công lao của các nhà tư
bản đã ứng tư bản của mình ra để thực hiện. Vì vậy sức lao động và tư liệu sản xuất trở
thành hình thái tồn tại của giá trị tư bản ứng trước, chúng phân thành những yếu tố khác
nhau của tư bản sản xuất. Phương thức kết hợp đặc thù đó không chỉ là kết quả mà còn là
yêu cầu của sự vận động của tư bản, quá trình sản xuất vì vậy trở thành quá trình sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Trong khi làm chức năng của mình, tư bản sản xuất tiêu dùng các thành
phần của bản thân nó để biến các thành phần ấy thành một khối lượng sản phẩm có giá trị
lớn hơn. Kết quả của quá trình là một hàng hoá mới được tạo ra, khác về giá trị sử dụng
và cả về lượng giá trị so với các hàng hoá cấu thành tư bản sản xuất.
Hàng hoá mới này là hàng hoá đã mang giá trị thặng dư, nó đã trở thành H’ có giá
trị bằng sản xuất + m tức là bằng giá trị của tư bản sản xuất hao phí để chế tạo ra nó, cộng
với giá trị thặng dư (m) do tư bản sản xuất ấy đẻ ra. Như vậy kết quả của giai đoạn thứ
hai là tư bản sản xuất biến thành tư bản hàng hoá.
c. Giai đoạn thứ ba: H’ - T’
Sản xuất ra hàng hoá song tư bản chưa thể ngừng sự vận động của nó lại được. Tư
bản bây giờ tồn tại dưới hình thái hàng hoá nên cần phải đem bán hàng hoá để thu tiền về
thì mới tiếp tục công việc kinh doanh được. Quá trình này có thể trình bày bằng công
thức: H’ - T’. Hàng hoá tư bản đưa vào lưu thông cũng không có gì phân biệt với hàng
hoá thông thường, nó cũng chỉ thực hiện chức năng vốn có của hàng hoá là trao đổi để
lấy tiền. Nhưng sở dĩ nó là tư bản hàng hoá vì ngay sau quá trình sản xuất, nó đã là H’, đã
mang trong mình nó giá trị của tư bản ứng trước và giá trị thặng dư. Vì vậy, chỉ cần tiến
hành trao đổi theo đúng quy luật giá trị như các hàng hoá thông thường và nếu bán được
toàn bộ H’ đảm bảo thu được T’ nghĩa là thu được số tiền trội hơn so với tiền ứng ra ban
đầu. Chức năng của H’, do đó là chức năng của mọi sản phẩm hàng hoá, song đồng thời
lại là chức năng thực hiện giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất. Kết thúc
giai đoạn này, tư bản hàng hoá đã biến thành tư bản tiền tệ.
Đến đây, mục đích của tư bản đã được thực hiện, tư bản đã trở lại hình thái ban đầu
trong tay chủ của nó nhưng với số lượng lớn hơn trước.
Tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả ba giai đoạn ta có công thức sau:
ở công thức này, tư bản biểu hiện thành một giá trị thông qua một chuỗi biến hoá
hình thái quan hệ lẫn nhau, quyết định lẫn nhau. Trong các giai đoạn thì có hai giai đoạn
lưu thông và một giai đoạn trong lĩnh vực sản xuất. Sự vận động của tư bản trải qua ba
giai đoạn, lần lượt mang ba hình thái để rồi lại trở về hình thái ban đầu với giá trị không
những được bảo tồn mà còn tăng lên, đây chính là sự tuần hoàn của tư bản.
Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành một cách bình thường chừng nào các giai
đoạn khác nhau của nó không ngừng chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Mặt
khác, bản thân sự tuần hoàn lại làm cho tư bản phải nằm lại ở mỗi một giai đoạn tuần
hoàn trong một thời gian nhất định. Do đó, sự vận động tuần hoàn của tư bản là một sự
vận động liên tục không ngừng, đồng thời là sự vận động đứt quãng không ngừng, chính
trong sự vận động mâu thuẫn đó mà tư bản tự bảo tồn, chuyển hoá giá trị và không ngừng
lớn hơn.
2. Sự thống nhất của ba hình thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp.
Tư bản trong quá trình vận động trải qua ba giai đoạn, lần lượt khoác lấy các hình
thái tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hoá và ở mỗi hình thái tư bản tiền tệ, tư
bản sản xuất, tư bản hàng hoá và ở mỗi hình thái như thế, nó hoàn thành một chức năng
thích hợp, tư bản đó là tư bản công nghiệp. Công nghiệp với ý nghĩa bao quát mọi ngành
sản xuất kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Sở dĩ như vậy là vì tư bản công
nghiệp là hình thái tồn tại duy nhất của tư bản, mà chức năng của nó không phải chỉ là
chiếm lấy giá trị thặng dư, mà còn là tạo ra giá trị thặng dư.
Do đó, tư bản tiền tệ, tư bản hàng hoá và tư bản sản xuất đều không phải là những
loại tư bản độc lập. ở đây, các tư bản ấy chỉ là những hình thái chức năng đặc thù của tư
bản công nghiệp; tư bản này lần lượt mang ba hình thái ấy, và nếu xét trong quá trình vận
T - H
TLSX
SLĐ
.... SX .... H
’ - T’
động liên tục thì mỗi một hình thái đều có thể xem là điểm xuất phát đồng thời là điểm
hồi quy của nó, tuần hoàn của tư bản công nghiệp, vì vậy có thể xem là dạng tuần hoàn
của tư bản sản xuất, hoặc cũng có thể là dạng tuần hoàn của tư bản hàng hoá.
a. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ.
Từ công thức T - H ... SX .... H’ - T’, với điểm xuất phát là T và điểm kết thúc là T’,
đã hiển thị một cách rõ rệt nhất động cơ, mục đích vận động của tư bản là giá trị tăng
thêm giá trị, tiền đẻ ra tiền và tích luỹ tiền. Trong tuần hoàn này, T là phương tiện ứng ra
trong lưu thông và T’ là mục đích đạt được trong lưu thông, nên hình như là lưu thông đẻ
ra giá trị lớn hơn, còn giai đoạn sản xuất chỉ là khâu trung gian không thể tránh được một
loại cần thiết để làm ra tiền. Chính do đó mà hình thái tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình
thái nổi bật nhất và đặc trưng nhất của tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Song cũng
chính do đó mà nó là hình thái phiến diện nhất, che dấu nhất quan hệ bóc lột tư bản chủ
nghĩa.
b. Tuần hoàn của tư bản sản xuất.
Từ công thức: SX .... H’ - T’ - H’ .... SX nói lên sự hoạt động lặp đi lặp lại một cách
chu kỳ của tư bản sản xuất. Hình thái tư bản hàng hoá trong tuần hoàn này cho thấy rất rõ
là nó từ quá trình sản xuất, còn hình thái tiền tệ của tư bản đã kết thúc sự thực hiện tư bản
hàng hoá (H’) - là phương diện mua, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sản xuất, tức là
chỉ làm môi giới cho tư bản hàng hoá chuyển hoá thành tư bản sản xuất. Tuần hoàn này
cũng đã vạch rõ được nguồn gốc của tư bản. Dù là tái sản xuất giản đơn hay tái sản xuất
mở rộng, nguồn tư bản đều từ quá trình sản xuất mà ra. Song tuần hoàn này lại không
biểu thị việc sản xuất ra giá trị thặng dư.
Dù là sản xuất giản đơn hay sản xuất mở rộng liên tục, nó cũng chỉ xuất hiện dưới
hình thái cần thiết để làm chức năng tư bản sản xuất, thực hiện quá trình tái sản xuất, nó
không hề chỉ ra mục đích của quá trình làm tăng thêm giá trị. Do đó, nó làm cho người ta
dễ lầm lẫn rằng mục đích của nó chỉ là bản thân sản xuất, trung tâm của vấn đề chỉ là cố
gắng sản xuất thật nhiều và thật rẻ, có trao đổi cũng chỉ là trao đổi sản phẩm để tiến hành
sản xuất được liên tục, nên không có hiện tượng sản xuất thừa.
c. Tuần hoàn của tư bản hàng hoá.
Công thức: H’ - T’ - H ... SX .... H’ khác hẳn các hình thức tuần hoàn khác ở chỗ:
điểm xuất phát bao giờ cũng bắt đầu bằng H’, bằng một giá trị đã tăng thêm giá trị, một
giá trị tư bản ứng trước đã chứa đựng giá trị thặng dư với bất kỳ quy mô như thế nào.
Điểm này làm cho nó có một số đặc điểm khác là:
Một là, ngay từ điểm đầu, nó đã biểu hiện ra là hình thái của sản xuất hàng hoá tư
bản chủ nghĩa, nên từ đầu nó là hình thái của sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa, nên từ
đầu nó đã bao gồm cả tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân.
Hai là, kết thúc bằng H’, chưa chuyển hoá trở lại thành tiền đã tăng thêm giá trị
(T’), nó là hình thái chưa hoàn thành và còn phải tiếp tục tiến hành, vì vậy nó đã bao hàm
tái sản xuất.
Ba là, nó là hình thái làm nổi bật lên sự liên tục của lưu thông. H’ điểm bắt đầu tuần
hoàn và H’ điểm kết thúc tuần hoàn đều biểu hiện một khối lượng giá trị sử dụng được
sản xuất ra để bán. Do đó nếu H’ điểm bắt đầu tuần hoàn đòi hỏi lưu thông thì điểm H’
cũng đòi hỏi ngay một quá trình lưu thông mới.
Bốn là, hình thái tuần hoàn này còn trực tiếp bộc lộ mối quan hệ giữa người sản
xuất hàng hoá với nhau. Mỗi nhà tư bản đều ném H’ vào lưu thông và dùng T’ đã thu
được để mua các hàng hoá tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân. Cả hai loại hàng hoá
này đều nằm trong lưu thông và cũng do các nhà tư bản công nghiệp cung cấp cho nhau.
Do đó hình thái tuần hoàn này không chỉ là một hình thái vận động chung cho mọi tư bản
công nghiệp cá biệt mà đồng thời còn là hình thái vận động của tổng số những tư bản cá
biệt, tức là hình thái vận động của tổng tư bản của giai cấp tư bản, là một vận động trong
đó vận động của mỗi một tư bản công nghiệp cá biệt, chỉ biểu hiện thành vận động bộ
phận chằng chịt với vận động của các tư bản khác và bị chế ước bởi những vận động này.
Như vậy là hình thái tuần hoàn H’ ... H’ đã vạch rõ rằng sự thực hiện hàng hoá là điều
kiện thường xuyên của quá trình sản xuất - song cũng do quá nhấn mạnh tính liên tục của
lưu thông hàng hoá, nên người ta có ấn tượng rằng tất cả mọi yếu tố của quá trình sản
xuất đều là do lưu thông hàng hoá mà ra và chỉ gồm có hàng hoá mà thôi.
Tóm lại, nếu xét riêng từng hình thái tuần hoàn thì mỗi hình thái chỉ phản ánh hiện
thực tư bản chủ nghĩa một cách phiến diện, mỗi hình thái đều làm nổi bật mặt bản chất
này và lại che dấu mặt bản chất khác của sự vận động của tư bản công nghiệp. Do đó
phải xem xét đồng thời cả ba hình thái tuần hoàn mới nhận thức được đầy đủ sự vận động
thực tế của tư bản, mới hiểu biết đúng đắn bản chất của mối quan hệ giai cấp mà tư bản
biểu hiện trong sự vận động của nó.
Trong thực tế, cũng chỉ có sự thống nhất của cả ba hình thái tuần hoàn thì quá trình
vận động của tư bản mới có thể tiến hành một cách liên tục không ngừng, tuần hoàn của
tư bản chỉ tiến hành được khi nào tư bản trải qua cả ba giai đoạn một cách trôi chảy. Nếu
một giai đoạn nào đấy bị ngừng trệ thì toàn bộ sự tuần hoàn sẽ bị phá hoại. Song muốn
bảo đảm được sự tuần hoàn không ngừng của tư bản, muốn đảm bảo cho tư bản liên tục
chuyển hoá hình thái của các giai đoạn chuyển tiếp kế tục nhau thì phải có đủ hai điều
kiện:
Thứ nhất, là toàn bộ tư bản phải phân ra ba bộ phận tồn tại đồng thời ở cả ba hình
thái.
Thứ hai, mỗi bộ phận tư bản ở mỗi hình thái khác nhau đều phải không ngừng liên
tục trải qua ba hình thái.
Hai điều kiện này ràng buộc chặt chẽ nhau, là tiền đề khăng khít của nhau. Chỉ khi
nào có sự sắp xếp kề nhau của các bộ phận tư bản tồn tại đồng thời ở cả ba hình thái thì
mới có sự kế tục nhau của bộ phận tư bản ấy; ngược lại, cũng chỉ khi nào các hình thái tư
bản kế tục nhau không ngừng thì tư bản mới tồn tại đồng thời ở cả ba hình thái được.
B. Chu chuyển của tư bản.
1. Thời gian chu chuyển và số vòng chu chuyển của tư bản.
Sự tuần hoàn của tư bản nói lên sự biến hoá hình thái của các giai đoạn lưu thông và
sản xuất. Nhưng tư bản không phải chỉ biến hoá hình thái một lần rồi dừng lại mà “tư bản
là một sự vận động, chứ không phải là một vật đứng yên”. Tư bản nếu muốn tồn tại là tư
bản thì phải không ngừng đi vào lưu thông, tiếp tục thực hiện liên tục quá trình biến hoá
hình thái, tức là tiếp tục sự tuần hoàn liên tục không ngừng. Sự tuần hoàn của tư bản
được lặp đi lặp lại nhiều lần và có định kỳ, đó là sự chu chuyển của tư bản. Mác nói:
“Tuần hoàn của tư bản, khi được coi là một quá trình định kỳ, chứ không phải một quá
trình bị cô lập, thì gọi là vòng chu chuyển của tư bản”.
Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian kể từ khi nhà tư bản ứng tư
bản ra dưới một hình thái nào đó cho đến khi thu về cũng dưới hình thái ấy có kèm theo
giá trị thặng dư. Chu chuyển của tư bản chỉ là tuần hoàn tư bản xét trong một quá trình
định kỳ nên thời gian chu chuyển của tư bản cũng là tổng số thời gian lưu thông và thời
gian sản xuất.
a. Thời gian sản xuất của tư bản.
Thời gian sản xuất của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Thời
gian sản xuất lại bao gồm:
- Thời gian lao động, tức là thời gian mà người lao động sử dụng tư liệu lao động
tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Đây là thời gian duy nhất tạo ra giá
trị thặng dư của nhà tư bản.
- Thời gian gián đoạn lao động, là thời gian để đối tượng lao động hoặc bán thành
phẩm chịu tác động của tự nhiên mà không cần lao động của con người góp sức. Đó là
những trường hợp của thóc giống đã gieo, rượu để cho lên men, gỗ, gạch để phơi khô,...
chẳng hạn.
- Thời gian dự trữ sản xuất, tức là thời gian mà tư bản sản xuất đã sẵn sàng làm điều
kiện cho quá trình sản xuất, nhưng chưa phải là yếu tố hình thành sản phẩm, cũng chưa phải
là yếu tố hình thành giá trị. Bộ phận tư bản này là ở hàng hoá, nhưng tình trạng này là điều
kiện để tiến hành không ngừng quá trình sản xuất.
- Thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất là thời gian không hề
tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Do đó, rút ngắn các thời gian này cũng giảm bớt sự
chênh lệch giữa thời gian sản xuất với thời gian lao động là vấn đề có ý nghĩa quan trọng
đối với các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa.
- Thời gian sản xuất của tư bản dà