Trước đây khi nền kinh tế Việt Nam ở trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá thì
vấn đề về thị trường đầu ra không được các doanh nghiệp quan tâm, chú ý. Bởi vì tất
cả các sản phẩm sản xuất của các doanh nghiệp đều sản xuất theo kế hoạch, sự cạnh
tranh giữa các sản phẩm với nhau về mẫu mã, hình thức ,chất lượng, giá cả….hầu như
là không có.Dẫn tới việc các doanh nghiệp chỉ quan tâm tới việc mình sản xuất cái gì,
sản xuất với số lượng là bao nhiêu chứ không cần quan tâm tới việc sản phẩm này tiêu
thụ ở thị trường nào, phản ứng của người tiêu dùng như thế nào đối với sản phẩm đó.
Ngày nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh giữa các sản
phẩm của các doanh nghiệp với nhau diễn ra rất gay gắt. Lúc này bắt buộc các doanh
nghiệp phải nghỉ tới việc là mình :
Sản xuất cái gì?
Sản xuất như thế nào?
Sản xuất cho ai?
Để trả lời được 3 câu hỏi này thì các doanh nghiệp cần phải dặc biệt quan tâm
tới công việc nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đây chính là vấn đề quan trọng
nhất đối với các doanh nghiệp, bởi vì tất cả mọi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát
triển thì đều phải có một thị trường đầu ra ổn định.Nếu doanh nghiệp nào không có thị
trường hoặc có nhưng ở phạm vi hẹp, số lượng tiêu thụ ít thì điều tất yếu là doanh
nghiệp đó sẻ bị diệt vong.
Chính vì nhận thức rõ vấn đề về tầm quan trọng của thị trường đầu ra mà em đã
lựa chọn đề tài về một số giải pháp hoàn thiện hoạt động marketing,thúc đẩy quá trình
tiêu thụ sản phẩm ở công ty cao su An Dương.
68 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2062 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của chiến lược marketing trong việc mở rộng thị trường, thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm của công ty cao su An Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vai trò của chiến lược marketing trong việc
mở rộng thị trường, thúc đẩy quá trình tiêu
thụ sản phẩm của công ty cao su an dương
Chương I
Cơ sở lý luận và vai trò của chiến lược marketing trong việc mở rộng thị trường,
thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm của công ty cao su an dương
1.1tính cấp thiết của đề tài.
Trước đây khi nền kinh tế Việt Nam ở trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá thì
vấn đề về thị trường đầu ra không được các doanh nghiệp quan tâm, chú ý. Bởi vì tất
cả các sản phẩm sản xuất của các doanh nghiệp đều sản xuất theo kế hoạch, sự cạnh
tranh giữa các sản phẩm với nhau về mẫu mã, hình thức ,chất lượng, giá cả….hầu như
là không có.Dẫn tới việc các doanh nghiệp chỉ quan tâm tới việc mình sản xuất cái gì,
sản xuất với số lượng là bao nhiêu chứ không cần quan tâm tới việc sản phẩm này tiêu
thụ ở thị trường nào, phản ứng của người tiêu dùng như thế nào đối với sản phẩm đó.
Ngày nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh giữa các sản
phẩm của các doanh nghiệp với nhau diễn ra rất gay gắt. Lúc này bắt buộc các doanh
nghiệp phải nghỉ tới việc là mình :
Sản xuất cái gì?
Sản xuất như thế nào?
Sản xuất cho ai?
Để trả lời được 3 câu hỏi này thì các doanh nghiệp cần phải dặc biệt quan tâm
tới công việc nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đây chính là vấn đề quan trọng
nhất đối với các doanh nghiệp, bởi vì tất cả mọi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát
triển thì đều phải có một thị trường đầu ra ổn định.Nếu doanh nghiệp nào không có thị
trường hoặc có nhưng ở phạm vi hẹp, số lượng tiêu thụ ít thì điều tất yếu là doanh
nghiệp đó sẻ bị diệt vong.
Chính vì nhận thức rõ vấn đề về tầm quan trọng của thị trường đầu ra mà em đã
lựa chọn đề tài về một số giải pháp hoàn thiện hoạt động marketing,thúc đẩy quá trình
tiêu thụ sản phẩm ở công ty cao su An Dương.
1.2.phưong pháp nghiên cứu
1.2.1.chính sách marketing của công ty
Trong hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp ngày nay, quản trị
marketing là một trong 4 bộ phận quan trọng trong quản trị doanh nghiệp (Quản trị sản
xuất, quản trị tài chính, quản trị nhân lực, quản trị marketing).Các nhà quản trị
marketing có nhiệm vụ nghiên cứu người tiêu dùng, tìm hiểu những nhu cầu của họ,
tách họ thành những nhóm đoạn có cùng chung những đặc điểm như:Lối sống,quan
niệm về giá trị ,nhân khẩu. Từ những nhóm này căn cứ vào khả năng kỹ thuật và
nguồn nhân lực của mình mà doanh nghiệp sẽ lựa chọn một,một vài đoạn thị trường để
phục vụ mà nó mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp( có khả năng sinh lời cao,dung
lượng thị trường lớn).Doanh nghiệp sẽ thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng, khách hàng
của mình bằng các hoạt động marketing hỗn hợp(sản phẩm giá cả, kênh phân phối, xúc
tiến hỗn hợp). Các bộ phận của marketing hỗn hợp này có quan hệ chặt chẽ với nhau,
qui định lẫn nhau tuỳ theo đặc điểm của môi trường vĩ mô, môi trường ngành và khả
năng nguồn lực của doanh nghiệp. Do vậy mà các bộ phận này cũng có tầm quan trọng
không giống nhau.lớn). Doanh nghiệp sẽ thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng, khách
hàng của mình bằng hoạt động marketing hỗn hợp (marketing gồm: sản phẩm, giá cả,
phân phối, xúc tiến hỗn hợp). Các bộ phận của marketing hỗn hợp này có quan hệ chặt
chẽ với nhau, qui định lẫn nhau tuỳ heo đặc điểm cuẩ môi trường vĩ mô, môi trường
ngành và khả năng nguồn lực của doanh nghiệp. Do vậy mà các bộ phận này cũng có
tầm quan trọng không giống nhau.
1.2.2.vai trò của các bộ phận cấu thành.
1.2.2.1.vai trò các bộ phận cấu thành marketing.
a.Sản phẩm.
Sản phẩm có thể là hàng hoá hiện hữu và phi hiện hữu dùng để thoả mãn nhu
cầu người tiêu dùng. Các sản phẩm khác nhau có chu kỳ sống dài ngắn khác nhau, nó
phụ thuộc vào sự thay đổi của khoa học công nghệ và nhu cầu thị hiếu của người tiêu
dùng. Một sản phẩm mới có thể là mới hoàn toàn, mới cải tiến, đã tồn tại ở một số nơi
nào đó nhưng mới tại thị trường trong nước. Sản phẩm mới ra đời được thông qua một
quá trình sau:
-Hình thành ý tưởng: ý tưởng sản phẩm mới có thể nảy sinh từ nhiều nguồn
khác nhau: Khách hàng, các nhà khoa học, đối thủ cạnh tranh, sản phẩm thay thế….
-Sàng lọc ý tưởng: Mọi ý tưởng về sản phẩm đều phải phù hợp với nhu cầu và
khả năng thanh toán của khách hàng, ý tưởng sản phẩm phải hấp dẫn và có thể thực
hiện được.
-Phát triển và thử nghiệm quan niệm: Quan niệm về sản phẩm là cách định
nghĩa, diễn giải ,giải thích về bản thân sản phẩm ,nó mang tính khái quát cao. Từ quan
niệm về sản phẩm mà nhà quản trị phát triển quan niệm về nhãn hiệu. Quan niệm về
nhãn hiệu là sự mô tả cụ thể các đặc tính sản phẩm mà nó khác với các sản phẩm cùng
loại. Quan niệm sẽ được thử nghiệm bằng điều tra xin ý kiến đánh giá của người tham
vấn.
-Nghiên cứu sản xuất thử: Sản phẩm đã qua phát triển thử nghiệm quan niệm sẽ
được sản xuất thử với những đặc tính như quan niệm về nhãn hiệu
-Thử nghiệm trong phòng thí nghiệm và ngoài thị trường: Thử nghiệm trong
phòng thí nghiệm giúp cho việc khắc phục các thiếu sót kỹ thuật. Còn thử nghiệm
ngoài thị trường giúp ta biết được sự phản ánh thực tế với sản phẩm mới. Thử nghiệm
ngoài thị trường là cách tốt nhất có thể biết sản phẩm có thoả mãn nhu cầu của người
tiêu dùng không.
-Phát triển sản phẩm và thương mại hoá: Ngày càng hoàn thiện sản phẩm và
không ngừng nâng cao mức độ thoả mãn với người tiêu dùng. Tiến hành sản xuất khối
lượng lớn để bán ra kiếm lời.
-Quản trị chủng loại sản phẩm, nhãn hiệu và bao gói: Như ta đã biết, một sản
phẩm có năm mức độ (Mức độ cốt lõi, sản phẩm chung, sản phẩm mong đợi, sản phẩm
hoàn thiện, sản phẩm tiềm ẩn). Nhà sản xuất nghiên cứu 5 mức độ này để hoàn thiện
sản phẩm, nâng cao vị thế cạnh tranh của mình ,nên mỗi doanh nghiệp đều phải xây
dựng cho mình danh mục sản phẩm để kinh doanh. Danh mục sản phẩm là tập hợp tất
cả những loại sản phẩm và mặt hàng mà người bán đem ra để bán cho những người
mua. Danh mục sản phẩm gồm có:
+Chiều rộng danh mục sản phẩm: Thể hiện công ty có bao nhiêu loại sản phẩm
khác nhau để thoả mãn các nhu cầu của khách hàng.
+Chiều dài danh mục sản phẩm: Đó chính là các sản phẩm có thể thoả mãn một
nhu cầu cụ thể.
+Chiều sâu danh mục: Thể hiện có bao nhiêu phúc án của mỗi sản phẩm trong
cùng một loại
Doanh nghiệp có thể lựa chọn chiến lược đa dạng hoá sản phẩm hoặc thay đổi
chiều dài danh mục sản phẩm để phục vụ các đoạn thị trường khác nhau, các nhu cầu
khác nhau. Doanh nghiệp phân loại sản phẩm của mình để dễ quản lý vì khi đa dạng
hoá sản phẩm sẽ có nhiều loại sản phẩm khác nhau phục vụ nhiều đoạn thị trường
khác nhau. Vậy rất khó kiểm soát nếu không có sự phân công phân loại sản phẩm.
Phân loại sản phẩm sẽ phát huy tính chuyên nghiệp của nhân viên quản lý. Phân loại
sản phẩm giúp cho nhà quản trị nắm bắt được tình hình tiêu thụ sản phẩm, những khó
khăn thực tế, những diễn biến trong kinh doanh. Phân loại sản phẩm sẽ góp phần phân
bổ nguồn lực hợp lý hơn.
Mỗi sản phẩm đều có chu kỳ sống nhất định do vậy doanh nghiệp luôn tìm cách
cải tiến, sáng tạo sản phẩm mới. Doanh nghiệp cần phải loại bỏ những sản phẩm lỗi
thời không đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Trong chiều dài danh mục, sản phẩm công ty có thể quyết định làm nổi bật một
sản phẩm ở đầu trên hoặc đầu dưới của dãy bằng quảng cáo khuyến mãi. Việc làm nổi
bật này giúp doanh nghiệp bán được các sản phẩm khác. Để phân biệt sản phẩm của
mình với các sản phẩm cạnh tranh khác các doanh nghiệp cần phải gắn nhãn sản phẩm.
Ngày nay nhãn mác không chỉ có vai trò ghi xuất xứ để phân biệt nó mà còn có các vai
trò như: Quảng cáo, bảo quản, tạo dựng hình ảnh và uy tín. Nhãn mác là công cụ quan
trọng để định vị sản phẩm. Nhãn hiệu về cơ bản là sự hứa hẹn của người bán bảo đảm
cung cấp cho người mua một tập hợp các tính chất, lợi ích và dịch vụ.
Ngày nay khi kinh doanh các doanh nghiệp muốn được bảo vệ sản phẩm của
mình thì nhất thiết phải đăng ký bản quyền về việc sử dụng nhãn hiệu sản phẩm nhằm
tránh tình trạng gian lận về nhãn hiệu, bản quyền làm ảnh hưởng tới uy tín của doanh
nghiệp. Trong hoạt động marketing công cụ sản phẩm thường được sử dụng trong thời
gian dài và ít thay đổi và nó góp phần lớn vào việc quyết định sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp.
b.Công cụ giá cả:
*Định giá theo chi phí sản xuất: Đây là cách truyền thống mà các doanh nghiệp
thường bám sát sử dụng. Giá cả sẽ là phần chi phí để sản xuất cộng thêm phần lợi
nhuận mong đợi theo tình hình thị trường và mục tiêu doanh nghiệp đề ra
-Định giá từ chi phí toàn bộ:
P = AC + Q
hoặc P = AC + % Lợi nhuận của chi phí toàn bộ
Trong đó:
P: giá sản phẩm
AC: chi phí bình quân
: lợi nhuận
Q: số lượng sản phẩm sản xuất
-Định giá theo mục đích: Doanh nghiệp có thể định giá dựa vào chi phí và tỷ lệ
năng suất của vốn theo mục tiêu.
Tỷ lệ lợi nhuận =
P= Chi phí toàn bộ + Chi phí toàn bộ x % lợi nhuận
* Xác định giá theo chi phí, khối lượng, lợi nhuận
TFC: Tổng chi phí cố định
VC: Chi phí biến đổi
* Định giá căn cứ vào nhu cầu
-Định giá theo cảm nhận của người tiêu dùng: Đây là cách định giá dựa vào tâm lý
người tiêu dùng cảm nhận giá trị sản phẩm, quan niệm về giá trị.
-Định giá theo nhu cầu thị trường (Định giá theo sự co giãn nhu cầu với giá):
+ Giảm giá khi cầu giãn nhạy cảm với giá để tăng doanh thu và lợi nhuận
+ Sử dụng công cụ ngoài giá khi cầu ít co giãn với sự thay đổi của giá.
*Định giá tuỳ theo hình thái thị trường
Vốn sử
Tổng chi phí
Tỷ lệ năng
suất sử
dụng vốn
L
Lã
TFC
Lợi nhuận mục
tiêu
TC
TR TR
TC
Sản
lượng
-Thị trường hoàn hảo: Sản phẩm giống nhau, giá định theo qui luật cung cầu.
Doanh nghiệp là ngườichấp nhận giá.
-Thị trường độc quyền: Doanh nghiệp tự xác lập giá dựa trên khả năng chấp nhận
của người tiêu dùng, căn cứ vào thị cầu thị trường.
-Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Sản phẩm đa dạng phong phú có thể thay
thế lẫn nhau. Giá sản phẩm được xác định dựa vào khả năng thoả mãn người tiêu
dùng.
* Định giá theo nhu cầu thị trường do yếu tố tâm lý chi phối.
Định giá lẻ: Đây là phương pháp mà người tiêu dùng dễ chấp nhận vì họ thường
liên tưởng rằng nó xát với chi phí sản xuất sản phẩm và họ có cảm nhận là thấp,nhưng
với sản phẩm đặc biệt giá lẻ lại gây nghi ngờ chất lượng.
Định giá theo tiếng tăm: Những sản phẩm nổi tiếng thường được định giá cao
mà người tiêu dùng vẫn chấp nhận vì theo họ thì lúc này chất lượng nó đi liền với giá
cả.
Phương pháp phân hoá:
-Phân hoá theo số lượng: Mua nhiều sản phẩm sẽ hạ
-Phân hoá theo khách hàng: Phân loại khách hàng thành những nhóm có khả
năng thanh toán khác nhau.
*Định giá theo cạnh tranh:
-Định giá đấu thầu: Các bên tham gia dự thầu phải làm hồ sơ, bên thầu sẽ đề ra
một mức giá với những điều kiện ràng buộc các điều kiện cho biết trước, mức giá
không tiết lộ và các bên dự thầu sẽ trả giá.
*Định giá cạnh tranh:
- Thoả hiệp về giá: Hai bên hoặc nhiều bên cạnh tranh sẽ thống nhất mức giá
chung
- Định giá cao hơn hoặc thấp hơn: Định giá thấp để lôi kéo khách hàng về phía
mình. Định giá cao để khẳng định về uy tín, chất lượng .
Nghiên cứu giá cả, các yếu tố chi phối giá cả ta thấy giá chịu rất nhiều yếu tố
chi phối như: Mục tiêu của doanh nghiệp, giới hạn sản phẩm của công ty, mức độ khác
biệt hoá, các chi phí định vị thị trường, bản chất thị trường, cạnh tranh, sự co giãn của
cầu, sự chấp nhận của người tiêu dùng, can thiệp của chính phủ, lạm phát. Do vậy cần
phải có sự quản lý quản trị về giá, mô hình quản trị giá như sau:
c.Công cụ kênh phân phối:
Công tác tổ chức quản lý hoạt động phân phối sản phẩm liên quan tới sự sống
còn của mỗi doanh nghiệp. Quản lý kênh phân phối là tổ chức các mối quan hệ bên
ngoài để các hoạt động phân phối đạt mục tiêu của doanh nghiệp. Hệ thống phân phối
của doanh nghiệp giúp doanh nghiệp định vị được hình ảnh của mình trong tâm trí
khách hàng và nó giúp nâng cao khả năng cạnh tranh.
Việc sử dụng kênh phân phối giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí, đáp
ứng kịp thời nhu cầu thị trường, không phải đầu tư nhiều cho việc đào tạo đội ngũ trực
tiếp bán hàng .
Kênh tiêu thụ sản phẩm sẽ dài hay ngắn tuỳ theo đặc điểm của sản phẩm, đặc
điểm của thị trường là phân tán hay tập trung, mặt khác nó còn phụ thuộc vào mục tiêu
kiểm soát chặt chẽ thì có thể sử dụng kênh ngắn hoặc dùng kênh trực tiếp. Sau đây là
một số mô hình kênh phân phối sản phẩm.
- Cấp độ trong kênh chính là số lượng các trung gian tham gia vào trong kênh,
các trung gian trong kênh sẽ làm nhiệm vụ vận chuyển sản phẩm tới người tiêu dùng
cuối cùng, đàm phàn về (Số lượng, đơn giá dịch vụ, thời gian giao hàng, bảo hành),
chuyển quyền sở hữu. Các doanh nghiệp quản lý kênh phân phối bằng cách tuyển chọn
Phân tích
các yếu
tố ảnh
hưởng tới
giá
Xác định
nhiệm vụ
mục tiêu
của giá
Hoạch
định
chiến
lược và
chiến
Tổ chức
thực
hiện
đánh giá
kiểm tra
Nhà sản
Đại lý
Người bán
Người bán
Người
tiêu
dùng
Nhà sản Nhà sản Nhà sản
Người bán
Người bán Người bán
Người
tiêu
dùng
Người
tiêu
dùng
Người
tiêu
dùng
các thành viên kênh, loại bỏ khi các thành viên không thực hiện theo cam kết, mặt
khác quản lý họ bằng các chính sách chiết khấu hỗ trợ thông tin, đào tạo đội ngũ bán
hàng, tín dụng bán hàng. Trong hoạt động phân phối, doanh nghiệp có thể thực hiện
kết hợp giữa xúc tiến kéo và đẩy. Khi sản phẩm thoả mãn tốt nhu cầu người tiêu dùng
và có ưu thế hơn đối thủ cạnh tranh thì người tiêu dùng đòi hỏi có sản phẩm đúng lúc
do đó doanh nghiệp sẽ là nơi tiếp nhận các đơn đặt hàng. Ngược lại doanh nghiệp có
thể chủ động quảng cáo kích thích tiêu thụ và chuyển hàng tới tất cả các thành viên
kênh, đi ký kết các hợp đồng.
Việc tuyển chọn các thành viên tham gia kênh là công việc khó khăn phức tạp.
Các thành viên kênh tương lai phải hội đủ các điều kiện như vốn, cơ sở vật chất, khả
năng bao tiêu sản phẩm, trình độ tổ chức quản lý, khả năng thanh toán. Các thành viên
kênh phải có thiện chí hợp tác cùng công ty trong các hoạt động yểm trợ như: Trưng
bày sản phẩm, nói tốt về sản phẩm, thực hiện khuyến mại theo yêu cầu của công ty,
phục vụ tốt khách hàng.
Doanh nghiêp luôn tuân thủ việc thống nhất quản lý giá, đề ra mức chiết khấu
cho đại lý, nhà bán buôn, người bán lẻ đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng. Doanh
nghiệp luôn sất cánh bên các trung gian để sử lý các khó khăn vướng mắc của khách
hàng một cách nhanh nhất, kịp thời nhất. Nhà quản trị cần giải quyết tốt các mâu thuẫn
xung đột phát sinh trong kênh bằng cách tìm hiểu nhu cầu của các thành viên kênh từ
đó có sự điều chỉnh, hỗ trợ, loại bỏ và tuyển thêm để thay thế.
Lựa chọn kênh phân phối đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng tới chi phí
marketing. Một số công ty do tiềm lực tài chính dồi dào họ tự tổ chức mạng lưới phân
phối của riêng mình do vậy mức độ kiểm soát rất cao. Do đặc thù của sản phẩm và
ngành mà một số sản phẩm chỉ có thể sử dụng kênh trực tiếp các sản phẩm đó thường
giá trị lớn, hàm lượng chất xám cao (Phức tạp), cồng kềnh, dễ hỏng.
Ngược lại với các sản phẩm tiêu dùng cá nhân mang tính thường xuyên thì kênh
phân phối dài được sử dụng do khả năng bao phủ thị trường lớn chi phí phân phối trên
đơn vị sản phẩm thấp. Các trung gian có khả năng quản lý tốt khu vực bán hàng của
mình, các dịch vụ sau bán hàng là ít quan trọng.
Nhà quản trị cần nắm bắt rõ đặc điểm của từng khu vực thị trường, theo sát các
biến động bất thường, phát hiện cơ hội và nguy cơ, đề ra hướng giải quyết. Công tác
đánh giá các thành viên kênh cần được thực hiện theo định kỳ để có biện pháp điều
chỉnh xử lý. Nhà quản trị có thể tổ chức các buổi họp hội nghị trung gian để đàm phán
nêu lên chủ trương của công ty và giải quyết các mâu thuẫn xung đột trong kênh tiếp
nhận phản ánh của các trung gian.
Doanh nghiệp có biện pháp hữu hiệu để quản lý hàng tồn kho và sự ứ đọng tị một
số thành viên kên. Sự ứ đọng hàng hoá làm vốn quay vòng chậm. Mặt khác công ty
nên có chính sách tín dụng thương mại phù hợp để giảm thiểu việc bị các thành viên
kênh chiếm dụng vốn.
1.2.2.2.Xúc tiến hỗn hợp-các bộ phận cấu thành.
ngày nay chi phí cho hoạt động xúc tiến hỗn hợp chiếm phần chủ yếu trong ngân sách
hoạt động marketing của mỗi doanh nghiệp.Điều nảy cho thấy xúc tiến hỗn hợp đóng
vaio trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh.Hoạt động xúc tiến hỗn hợp diễn
ra hàng ngày nhưng nó giữ vị trí quan trọng khác nhau đối với mỗi loại sản
phẩm.Nghiên cứu các bộ phận cấu thành của công cụ xúc tiến hỗn hợp giúp ta vận
dụng vào các hoạt động kinh doanh:
a.Quảng cáo
Quảng cáo là một công việc rất quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh nó giúp các doanh nghiệp truyền đạt những thông tin về sản phẩm
của mình tới người tiêu dùng,nhưng chi phí quảng cáo lại rất tốn kém. Như ở Mỹ chi
phí quảng cáo năm 1983là>75 tỷ USD, và năm1990là 147 tỷ USD
*Nghiên cứu công chúng
Mỗi công ty lựu chọn cho mình một vài đoạn thị trường để phục vụ. Do vậy,
hoạt động quảng cáo của họ thường hướng vào những đoạn thị trường ấy.Trước khi
tiến hành quảng cáo doanh nghiệp cần phải trả lời được các câu hỏi :
Họ là ai?
Họ sống ở đâu?
Sở thích của họ như thế nào ?
Thu nhập của họ là bao nhiêu ? ...
Nếu quá trình truyền tin nhầm đối tượng thì quảng cáo sẽ không hiệu quả.
Doanh nghiệp cần phải biết được những thành viên tham gia vào quá trình quyết định
mua như: ai là người khởi sướng, ai là người có tác động tới việc quyết định, ai là
người quyết định và ai là người sử dụng…
* Mục tiêu quảng cáo
Là những điều mà chủ thể quảng cáo mong nhận được từ những người tiếp cận
nó, quảng cáo có những mục têu sau:
- Mục tiêutạo sự nhận thức
Quảng cáo nhằm tăng cường nhận thức của công chúng về công ty ,về sản phẩm
của công ty. Trong chiến dịch quảng cáo cũng có khi giới thiệu sản phẩm mới hoặc sản
phẩm cũ trên một thị trường mới.Quảng cáo có thể tạo niềm tin nơi công chúng bằng
các thông điệp đi sâu vào tiềm thức. Quảng cáo có thể với mục tiêu thông báo sự sẵn
có của sản phẩm, nơi có thể mua sản phẩm,giá cả ,các hình thức khuyến mại .Một số
quảng cáo còn nhắc nhở người tiêu dùng sắp tới họ phải cần tới sản phẩm,nhớ mua sản
phẩm khi đã sử dụng hết.Quảng cáo thông báo những tính năng sản phẩm, tính năng
mới được bổ sung hoặc sự phát hiện công dụng mới của sản phẩm, quảng cáo nhằm
lưu giữ hình ảnh sản phẩm trong tâm trí khách hàng khi không đúng thời điểm mua
dùng.
- Mục tiêu tạo sư hiểu biết:
Quảng cáo cung cấp các thông tin chi tiết về các tính năng, công dụng, hướng
dẫn cách sử dung sản phẩm. Công chúng nhận tin lưu giữ thông tin về sản phẩm để khi
họ nảy sinh nhu cầu thì họ đã có sẵn một nguồn thông tin để lựa chọn sản phẩm .
Quảng cáo nhằm công bố những phát hiện mới về sản phẩm hoặc sự cải tiến sản phẩm,
cũng có thể mục tiêu thay đổi nhận thức lệch lạc về công ty về sản phẩm cửa công
ty,củng cố niềm tin ngăn ngừa sự lãng quên.
- Mục tiêu thuyết phục:
Mục tiêu quảng cáo tạo niềm tin ,củng cố hình ảnh cảm xúc hiện thời tạo nên sự
ưa thích khao khát tiêu dùng sản phẩm. Quảng cáo có thể khuyến khích người tiêu
dùng chuyển sang sử dụng nhãn hiệu của công ty. Thuyết phục người mua với các tính
chất mới của sản phẩm.
- Mục tiêu hành động:
Quảng cáo thúc dục người tiêu dùng đến các cửa hàng tham khảo sản phẩm
hoặc mua sản phẩm ngay vì nó rất khan hiếm. Quảng cáo khuyến mại sẽ khuyến khích
người mua mua sản phẩm trong thời gian khuyến mại nhằm mục đích kích cầu.
* Quyết định ngân sách quảng cáo
Quyết định về ngân sách cho hoạt động xúc tiến hỗn hợp nói chung và hoạt động
quảng cáo nói riêng phụ thuộc vào nguồn lực tài chính của doanh nghiệp và mục tiêu
của doanh nghiệp đề ra. Ngân sách quảng cáo của mỗi loại sản phẩm sẽ là khác nhau
theo đặc thù của ngành và thị phần của doanh nghiệp. Ngân sách quảng cáo có thể xác
định theo:
- Kh