Nhìn lại các năm đã qua và gần đây nhất của Việt Nam là năm 2001. So với 
trước đổi mới chúng ta đã thu được một số thành tựu nhưng so với thế thì chúng ta 
thấy được gì. Đó là nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế. Đây cũng là thách 
thức đặt ra trước mắt nước ta và yêu cầu phải giải quyết về lâu dài. Nước ta là nước 
có bình quân thu nhập thuộc vào hàng thấp của thế giới. Câu hỏi đặt ra bây giờ 
không còn là "tại sao chúng ta nghèo" mà là "làm thế nào để nước ta thoát khỏi tình 
trạng kém phát triển này".
Để trả lời câu hỏi này chúng ta đi nghiên cứu các yếu tố dẫn tới thàng công 
về kinh tế của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Có nhà 
kinh tế học đã nói 3 yếu tố quyết định thành công của mỗi doanh nghiệp mỗi tổng 
công ty hay trên hết là của mỗi quốc gia là các yếu tố sau: con người,vốn hay tư 
bản,thời cơ. Thiếu một trong 3 yếu tố này thì không thể dẫn tới thành công được. Ví 
dụ như nếu con người tài giỏi, thời cơ tốt nhưng thiếu tiền để đầu tư cơ sở hạ tầng, 
để tiến hành sản xuất thì con người đó sẽ cũng không làm được gì và cơ hội tốt sẽ bị 
bỏ qua. Việt Nam chúng ta đang rơi vào tình trạng này. Việc thiếu vốn đẩu tư do 
nhiều lí do khiến cho đất nước ta cứ luần quẩn mãi trong vòng nghèo đói. Một trong 
những lí do đó là do chính sách của chúng ta còn nhiều bất cập thủ tục rườm rà. 
Salmýon cho rằng cần phải có cú huých từ bên ngoài vào để phá vỡ vòng luẩn quẩn 
này nhưng điều quan trọng trên hết phải biết phát huy các nguồn nội lực của nền 
kinh tế. Cụ thể là chúng ta phải biết phát huy và tận dụng vốn trong nước sao cho 
chúng không ngừng phát triển. Vấn đề này ta tạm gọi là tính luỹ vốn hay ở các nước 
TBCN gọi là tĩnh luỹ tư bản. Để hiểu dược tích luỹ vốn trước hết chúng ta cần hiểu 
tích luỹ tư bản, nó làm sáng tỏ bản chất của vấn đề nghiên cứu qua đó đưa lại những 
giải pháp và biện phápcho tình trạng vốn của nước ta hiện nay.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 28 trang
28 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 3906 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của tích luỹ tư bản trong quá trình phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản và việc áp dụng tích luỹ tư bản vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Một số mặt của tích luỹ tư bản qua đó 
thấy được vai trò của nó trong quá 
trình phát triển kinh tế của CNTB 
Lời mở đầu 
 Nhìn lại các năm đã qua và gần đây nhất của Việt Nam là năm 2001. So với 
trước đổi mới chúng ta đã thu được một số thành tựu nhưng so với thế thì chúng ta 
thấy được gì. Đó là nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế. Đây cũng là thách 
thức đặt ra trước mắt nước ta và yêu cầu phải giải quyết về lâu dài. Nước ta là nước 
có bình quân thu nhập thuộc vào hàng thấp của thế giới. Câu hỏi đặt ra bây giờ 
không còn là "tại sao chúng ta nghèo" mà là "làm thế nào để nước ta thoát khỏi tình 
trạng kém phát triển này". 
 Để trả lời câu hỏi này chúng ta đi nghiên cứu các yếu tố dẫn tới thàng công 
về kinh tế của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Có nhà 
kinh tế học đã nói 3 yếu tố quyết định thành công của mỗi doanh nghiệp mỗi tổng 
công ty hay trên hết là của mỗi quốc gia là các yếu tố sau: con người,vốn hay tư 
bản,thời cơ. Thiếu một trong 3 yếu tố này thì không thể dẫn tới thành công được. Ví 
dụ như nếu con người tài giỏi, thời cơ tốt nhưng thiếu tiền để đầu tư cơ sở hạ tầng, 
để tiến hành sản xuất thì con người đó sẽ cũng không làm được gì và cơ hội tốt sẽ bị 
bỏ qua. Việt Nam chúng ta đang rơi vào tình trạng này. Việc thiếu vốn đẩu tư do 
nhiều lí do khiến cho đất nước ta cứ luần quẩn mãi trong vòng nghèo đói. Một trong 
những lí do đó là do chính sách của chúng ta còn nhiều bất cập thủ tục rườm rà. 
Salmýon cho rằng cần phải có cú huých từ bên ngoài vào để phá vỡ vòng luẩn quẩn 
này nhưng điều quan trọng trên hết phải biết phát huy các nguồn nội lực của nền 
kinh tế. Cụ thể là chúng ta phải biết phát huy và tận dụng vốn trong nước sao cho 
chúng không ngừng phát triển. Vấn đề này ta tạm gọi là tính luỹ vốn hay ở các nước 
TBCN gọi là tĩnh luỹ tư bản. Để hiểu dược tích luỹ vốn trước hết chúng ta cần hiểu 
tích luỹ tư bản, nó làm sáng tỏ bản chất của vấn đề nghiên cứu qua đó đưa lại những 
giải pháp và biện phápcho tình trạng vốn của nước ta hiện nay. 
Qúa trình ra đời và lớn mạnh của CNTB gắn liền với các quá trình tích luỹ tư bản, 
từ tích luỹ tư bản nguyên thuỷ cho tới ngày nay. Tích luỹ tư bản có vai trò to lớn 
trong quá trình phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. ở đề án lần này em xin phép đi 
nghiên cứu một số mặt của tích luỹ tư bản qua đó thấy được vai trò của nó trong quá 
trình phát triển kinh tế của CNTB và rút ra được ý nghĩa về mặt lí luận cũng như ý 
nghĩa về mặt thực tiễn của vấn đề nghiên cứu để có thể áp dụng vào Việt Nam. 
Phần II: 
Nội Dung 
Chương 1 : mộT Số Lí LUậN Về TíCH Luỹ TƯ BảN 
1.1 Thế nào là tích luỹ tư bản 
 1.1.1Các khái niệm có liên quan 
 1.1.1.1 Khái niện tư bản 
Các nhà kinh tế học thường nói rằng, mọi công cụ lao đông, mọi tư liệu sản 
xuất đều là tư bản. Định nghĩa như vậy nhằm mục đích che dấu thực chất việc nhà 
tư bản bóc lột công nhân làm thuê, tư bản tồn tại vĩnh viễn, không thay đổi của hết 
thảy mọi hình thái xã hội. 
Thực ra bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là điều kiện 
cần thiết của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản 
khi nó trở thành tài sản của nhà tư bản, và được dùng để bóc lột lao dộng làm thuê. 
Khi chế độ tư bản bị xoá bỏ thì tư liệu sản xuất không còn là tư bản nữa. Như vậy, 
tư bản không phải là một quan hệ sản xuất xã hội nhất định giữa người và người 
trong quá trình sản xuất, nó có tính lịch sử. 
 Qua nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư ta có thể định nghĩa: "Tư 
bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê". Tư bản 
thể hiện quan hệ sản xuất giữa giai cấp tư sản và vô sản trong đó các nhà tư bản là 
người sở hữu tư liệu sản xuất và bóc lột công nhân làm thuê -người tạo ra giá trị 
thặng dư cho họ. Quan hệ sản xuất này cũng giống các quan hệ sản xuất khác của xã 
hội tư bản đã bị vật hoá. 
 1.1.1.2 Khái niệm tích luỹ tư bản 
 Tích luỹ tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm (tư 
bản mới). 
 Muốn mở rộng sản xuất nhà tư bản không thể tiêu dùng hết giá trị thặng dư 
mà chia thành 2 phần :một phần tích luỹ để mở rộng sản xuất, một phần để tiêu 
dùng cá nhân và gia đình nhà tư bản. 
 Ta sẽ làm sáng tỏ hơn về khái niệm tích luỹ sau khi đi nghiên cứu các vấn đề 
sau. 
 1.1.2 Thực chất của tĩch luỹ tư bản 
 1.1.2.1 Tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng 
 Dù hình thái xã hội của quá trình sản xuất là như thế nào đi nữa, thì bao giờ 
đó cũng phải có tính chất liên tục hay cứ từng chu kì một, phải không ngừng trải 
qua cũng những giai đoạn ấy. Xã hội không thể ngừng tiêu dùng, thì xã hội cũng 
không thể ngừng sản xuất. Vì vậy xét trong mối liên hệkhông ngừng và trong tiến 
trình không ngừng của nó, mọi quá trình sản xuất xã hội đồng thời cũng là quá trình 
tái sản xuất. 
 Nhưng điều kiện của sản xuất đồng thời cũng là những điều kiện của tái sản 
xuất. Không một xã hội nào có thể sản xuất không ngừng tức là tái sản xuất, mà lại 
không liên tục chuyển hoá lại một phần sản phẩm nhát đinh của nó thành tư liệu sản 
xuất, hay thành những yếu tố của quá trình sản xuất mới. Nếu sản xuất mang hình 
thái TBCN thì tái sản xuất cũng mang hình thái đó. Qúa trình lao động trong 
phương thức sản xuất TBCN chỉ là một phương tiện cho quá trình tăng thêm giá trị, 
thì tái sản xuất cũng vậy nó cũng chỉ là một phương tiện để tái sản ra giá trị ứng 
trước với tư cách là tư bản , tức là với tư cách là giá trị tự tăng thêm giá trị. Một 
người nào đó sở dĩ mang cái mặt lạ kinh tế đặc trưng của nhà tư bản thì đó chỉ là vì 
tiền của anh ta không ngừng hoạt động với tư cách là tư bản. Và giá trị thặng dư anh 
ta thu đuợc mang hình thức một thu nhập do tư bản đẻ ra. Nếu như thu nhập đó chỉ 
được dùng làm quĩ tiêu dùng cho nhà tư bản, hay nếu như nó cũng được tiêu dùng 
theo từng chu kì giống như người ta đã kiếm được nó thì trong những điều kiện 
khác không thay đổi, sẽ chỉ diến ra có tái sản xuất giản đơn thôi. 
 Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lắp đi lắp lại không ngừng với qui mô 
năm sau lớn hơn năm trước. Muốn tái sản xuất mở rộng nhà tư bản phải mua thêm 
tư liệu sản xuất, thuê thêm công nhân do đó giá trị thặng dư tích luỹ được phải chia 
làm hai phần: Một phần để thuê thêm công nhân, một phần để mua thêm tư liệu sản 
xuất. 
Tái sản xuất giản đơn không phải là hình thái điển hình của CNTB. Hình 
thức tiến hành của CNTB là tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất ra của cải vật chất, 
quan hệ sản xuất, sức lao động của con người, môi trường sống của con người. 
 1.1.2.2 Tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở 
rộng (tư bản hóa giá trị thặng dư). 
Thực chất của tích luỹ tư bản là tư bản hoá giá trị thặng dư. Xét một cách cụ 
thể, tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng. 
ở đây chúng ta không xét giá trị thặng dư và tương ứng với nó là sản phẩm 
thặng dư, chỉ với tư cách là quỹ tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản mà chúng ta xét 
nó với tư cách là quỹ tích luỹ. Thật ra giá trị thặng dư không phải là quỹ tiêu dùng 
và cũng không phải chỉ là quỹ tích luỹ, mà là cả hai. Một phần giá trị thặng dư được 
nhà tư bản tiêu dùng với tư cách là thu nhập còn phần khác thì được nhà tư bản 
dùng làm tư bản, hay được tích luỹ lại. 
Muốn tích luỹ, cần phải biến một phần sản phẩm thặng dư thành tư bản. 
Nhưng nếu không phải là có phép lạ thì người ta chỉ có thể biến thành tư bản những 
vật nào dùng được vào quá trình lao động tức là những tư liệu sản xuất, và sau đó là 
những vật phẩm có thể nuôi sống công nhân, tức là những tư liệu sinh hoạt. Do đó, 
một phần lao động thặng dư hàng năm phải dùng để sản xuất thêm một số tư liệu 
sản xuất và tư liệu sinh hoạt ngoài số cần thiết để hoàn lại tư bản đã ứng ra. Nói tóm 
lại, sở dĩ giá trị thặng dư có thể biến thành tư bản là chỉ vì sản phẩm thặng dư - mà 
giá trị của nó là giá trị thặng dư-đã bao gồm các yếu tố vật thể của một tư bản mới 
rồi. 
Nghiên cứu tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản ta có thể rút ra hai kết 
luận vạnh rõ hơn bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: 
 +Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích 
luỹ chiếm một tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. C.MAC nói rằng: tư bản 
ứng trước chỉ là giọt nước trong dòng sông tích luỹ mà thôi 
 +Qúa trình tích luỹ đã làm cho quyền sở hữu trong nền sản xuất hàng hoá 
biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Việc trao đổi giữa người lao động và 
nhà tư bản dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm một phần lao động của 
người công nhân, mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó. Như 
vậy đã có sự thay đổi căn bản trong quan hệ sở hữu. Nhưng sự vi phạm đó không vi 
phạm qui luật giá trị. 
 1.1.3 Động cơ của tích luỹ tư bản 
 1.1.3.1 Tích luỹ tư bản là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản 
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định, một trong hai phần (tích luỹ, 
tiêu dùng ) đó càng lớn thì phần kia càng nhỏ. Nếu những điều kiện khác không 
thay đổi thì tỉ lệ phân chia đó quyết định đại lượng tích luỹ. Nhưng kẻ thực hiện sư 
phân chia đó là người sở hữu giá trị thặng dư, tức là nhà tư bản. Như vậy, nó là một 
hành vi phụ thuộc vào ý chí của nhà tư bản. Về cái phần của món cống vật đó do 
hắn thu được và được hắn đem tích tuỹ, thì người ta nói rằng nhà tư bản đã tiết kiệm 
phần đó, bởi vì hắn không ăn tiêu nó đi, nghĩa là hắn làm cái chức năng của hắn là 
nhà tư bản, cụ thể là chức năng làm giàu. 
Chỉ chừng nào nhà tư bản là tư bản nhân cách hoá, thì nhà tư bản mới có một 
giá trị lịch sử và mới có cái quyền lịch sử được tồn tại và chỉ trong chừng mực ấy 
tính tất yếu nhất thời của bản thân hắn mới được bao hàm trong tính yếu nhất thời 
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng trong chừng mực ấy thì động cơ 
của nhà tư bản không phải là giá trị sử dụng và hưởng thụ mà là giá trị trao đổi và 
việc làm tăng thêm giá trị trao đổi. Là một kẻ cuồng tín việc làm tăng thêm giá trị, 
nhà tư bản thẳng tay cưỡng bức loài người sản xuất để sản xuất, do đó hắn cưỡng 
bức họ phải phát triển những lực lượng sản xuất xã hội và tạo ra những điều kiện 
sản xuất vật chất, mà chỉ một mình những điều kiện này mới có thể hình thành cái 
cơ sở hiện thực của một hình thái xã hội cao hơn, một hình thái xã hội mà nguyên 
tắc cơ bản là mọi cá nhân đều được phát triển đầy đủ và tự do. Nhà tư bản chỉ đáng 
kính trọng chừng nào hắn còn là sự hiện thân của tư bản. Với tư cách này, hắn chia 
sẻ sự say mê tuyệt đối muốn làm giàu với kẻ tích luỹ của cải. Những cái mà người 
này chỉ là một thói cá nhân, thì đối với nhà tư bản nó lại là tác động của một bộ máy 
xã hội trong đó nhà tư bản chỉ là một chiếc bánh xe. Ngoài ra, sự phát triển của nền 
sản xuất tư bản chủ nghĩa làm cho sự tăng thêm không ngừng cuả một số tư bản bỏ 
vào một xí nghiệp, công nghiệp trở thành một sự tất yếu, và cạnh tranh làm cho 
những quy luật bên trong của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành 
những quy luật bên ngoài có tính chất cưỡng chế đối với mỗi nhà tư bản cá biệt. 
Cạnh tranh buộc nhà tư bản không ngừng mở rộng tư bản để giữ được tư bản, và 
hắn chỉ có thể mở rộng tư bản cuả mình bằng cách tích luỹ ngày càng nhiều hơn mà 
thôi. 
 1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới qui mô của tích luỹ tư bản 
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì qui mô của tích luỹ phụ 
thuộc vào tỉ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành quỹ tiêu dùng của nhà 
tư bản. Nếu tỉ lệ phân chia đó đã có sẵn thì rõ ràng đại lượng của tư bản tích luỹ sẽ 
do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định. D o đó những nhân tố quyết 
định quy mô của tích luỹ chính là những nhân tố quyết định quy mô của gía trị 
thặng dư. Những nhân tố đó là : 
 1.1.4.1 Mức độ bóc lột sức lao động 
Nâng cao mức độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công. Khi 
nghiên cứu sự sản xuất ra giá trị thặng dư, C.MAC giả định rằng sư trao đỏi giữa 
công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá. Nhưng trong thực tế, công nhân bị 
nhà tư sản chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, bị cắt xén một phần tiền công. 
Việc cắt xén tiền công giữ vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ tư bản. 
Nâng cao mức độ bóc lột bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày 
lao động. Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động rõ ràng làm tăng 
thêm giá trị thặng dư, do đó làm tăng bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hoá tức 
là làm tăng tích luỹ.Anhr hưởng này còn thể hiện ở chỗ số lượng lao động tăng 
thêm mà nhà tư bản chiếm không do tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao 
động không đòi hỏi phải tăng thêm tư bản một cách tương ứng (không đòi hỏi phải 
tăng thêm số lương công nhân, tăng thêm máy móc thiết bị, mà hầu như chỉ cần 
tăng thêm sư hao phí nguyên liệu ) 
 1.1.4.2 Trình độ năng suất lao động 
V iệc nâng cao năng suất lao động làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó tăng 
thêm bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hóa. Song vấn đề ở đây là tích luỹ không 
chỉ được quyết định bởi khối lượng giá trị thặng dư, mà còn bởi khối lượng tư liệu 
sản xuất và tư liệu tiêu dùng do khối lượng giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành. 
Như vậy, năng suất lao động tăng sẽ làm tăng thêm những yếu tố vật chất để biến 
giá trị thặng dư thành tư bản mới. Do đó làm tăng quy mô của tích luỹ. 
Năng suất lao động cao thì lao động sống sử dụng được nhiều lao đọng quá 
khứ hơn, lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình thái có ích mới, chúng làm chức 
năng tư bản để sản xuất ra tư bản càng nhiều, do đó mà quy mô của tư bản tích luỹ 
càng lớn. Như vậy, năng suất lao động là nhân tố quan trọng quyết định quy mô của 
tích luỹ. 
 1.1.4.3 Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu 
dùng 
Tư bản tăng lên thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu 
dùng cũng tăng lên. Nói một cách khác: khối lượng giá trị và khối lượng vật thể của 
những tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc, ống tiêu nước, súc vật cày kéo, 
các thứ khí tài cúng tăng lên; những thứ đó, trong một thời kì dài hay ngắn, những 
quá trình sản xuất thường xuyên lắp đi lắp lại, đều hoạt động với quy mô của chúng 
hay được dùng để đạt tới một hiệu quả có ích nhát định, nhưng lại chỉ hao mòn dần 
dần, và do đó chỉ mất giá trị từng phần một, nghĩa là chỉ chuyển giá trị ấy từng phần 
một vào sản phẩm mà thôi. Vì các tư liệu lao động được dùng làm những cái tạo ra 
sản phẩm nhưng lại không nhập thêm giá trị vào sản phẩm, nghĩa là vì chúng được 
sử dụng toàn bộ nhưng chỉ bị tiêu dùng từng phần thôi, cho nên như đã nhắc trên 
kia, các tư liệu đó phục vụ không công giống như các lực lượng thiên nhiên: nước, 
hơi nước, không khí, điện... nhưng sự phục vụ không công đó của lao động quá khứ, 
được lao động sống nắm lấy và làm sống lại, đang được tích luỹ lại cùng với quy 
mô ngày càng tăng của tích luỹ 
Lực lượng sản xuất xã hội càng phát triển, máy móc càng hiện đại, phần giá 
trị của nó chuỷen vào sản phẩm trong từng thời gian càng ít, thì sự chênh lệch giữa 
tư bản sử dụng và tư bản bị tiêu dùng càng lớn. Do đó, tư bản lợi dụng được những 
thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều. 
 1.1.4.4 Quy mô của tư bản ứng trước 
Với trình độ bóc lột không đổi thì khối lượng giá trị thặng dư sẽ do khối 
lượng công nhân bị bóc lột quyết định. Do đó, quy mô của tư bản ứng trước, nhất là 
bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì giá trị thặng dư bóc lột được và quy mô tích 
luỹ cũng càng lớn. 
1.2Các quy luật cuả tích luỹ tư bản 
 1.2.1 Lượng cầu về sức lao động tăng cùng với tích luỹ tư bản trong điều kiện kết 
cấu của tư bản không đổi. 
 1.2.1.1Sự tăng lên của lượng cầu về sức lao động 
Tư bản tăng lên thì cũng tăng thêm bộ phận khả biến của nó hay bộ phận 
được biến thành sức lao động. Gỉa dụ rằng, cùng với những điều kiện khác không 
thay đổi- nghĩa là để vận một khối lượng tư liệu sản xuất hay tư bản bất biến nhất 
định,bao giờ cũng cần một khối lượng sức lao động như trước ,thì rõ ràng là lượng 
cầu về lao động và quỹ sinh hoạt của công nhân sẽ tăng lên một cách tỉ lệ với tư 
bản, và tư bản tăng lên càng nhanh bao nhiêu thì lượng cầu đó cũng càng tăng lên 
nhanh bấy nhiêu. K hi quy mô tích luỹ có thể mở rộng đột ngột bằng cách chỉ cần 
thay đổi sự phân chia giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư thành tư bản và thu 
nhập, vì những lẽ đó nên nhu cầu tích luỹ của tư bản có thể vượt quá sự tăng thêm 
cảu sức lao động hay số công nhân, lượng cầu về công nhân có thể vượt quá lượng 
cung về công nhân và vì thế tiền công có thể tăng lên. Vì mỗi năm người ta sử dụng 
nhiều công nhân hơn năm trước, nên sớm hay muộn ắt phải đến lúc mà nhu cầu của 
tích lũy bắt đầu vượt quá lượng cung bình thường về lao động, và do đó tiền công 
cũng sẽ tăng lên. Tích lũy tư bản là làm tăng thêm giai cấp vô sản. 
 1.2.1.2 Sự tăng lên về tiền công không ngăn cản việc tăng tích lũy tư bản . 
Như ta đã thấy, do bản chất của nó, tiền công đòi người lao động bao giờ 
cũng phải cung cấp một số lượng lao động không công nhất định. Hoàn toàn không 
nói đến trường hợp tăng tiền công trong trường hợp giá cả lao động hạ xuống...thì 
trong trường hợp tốt nhất tăng tiền công cũng có nghĩa là giảm bớt về số lượng phần 
lao động không công mà người lao động phải cung cấp. Sự giảm bớt này không bao 
giờ có thể đi đến mức đe doạ sự tồn tại của bản thân chế độ này. Theo cách nói của 
toán học, có thể nói rằng: đại lượng tích lũy là một biến số độc lập, đại lượng tiền 
công là một biến số phụ thuộc, chứ không phải ngược lại . 
Nếu khối lượng lao động không công do giai cấp công nhân cung cấp và do 
giai cấp các nhà tư bản tích lũy, lại tăng lên khá nhanh đến mức nó chỉ có thể biến 
thành tư bản khi nào có một sự tăng thêm khác thường của số lao động được trả 
công, thì tiền công sẽ tăng lên, và nếu những điều kiện khác không thay đổi, thì lao 
động không công sẽ giảm xuống một cách tương xứng. Nhưng một khi sự giảm 
xuống này chạm tới cái điểm mà ở đấy lao động thặng dư nuôi dưỡng tư bản không 
còn cung cấp với một khối lượng bình thường nữa, thì có ngay một sự phản ứng 
:một phần ít hơn của thu nhập sẽ được tư bản hoá, tích luỹ chững lại, và sự vận 
động đi lên của tiền công sẽ bị đánh bật trở lại. Như vậy, sự tăng lên của giá cả lao 
động không vượt quá những giới hạn bảo đảm không những giữ nguyên được 
những cơ sở của chế độ tư bản chủ nghĩa mà còn đảm bảo cho tái sản xuất của chế 
độ đó được thực hiện với quy mô mở rộng. 
 1.2.2 Sự giảm bớt tương đối bộ phận tư bản khả biến trong tiến trình tích luỹ và 
tích tụ đi kèm theo tiến trình đó 
Một khi đã có những có những cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa, thì 
trong tiến trình tích luỹnhất định sẽ đến lúc sự phát triển của năng suất lao động xã 
hội trở thành đòn bẩy mạnh nhất của tích luỹ. Năng suất lao động tăng thể hiện ở 
việc giảm bớt khối lượng lao động so với khối lượng tư liệu sản xuất mà lao động 
đó làm cho hoạt động hay là thể hiện ở sự giảm bớt đại lượng của nhân tố chủ quan 
của quá trình lao động so với các nhân tố khách quan của quá trình đó. Sự thay 
đổi đó của kết cấu kĩ thuật của tư bản, sư tăng lên của khối lượng tư liệu sản xuất so 
với khối lượng sức lao động đang làm cho các tư liệu sản xuất đó sống lại, lại phản 
ánh trở lại vào trong kết cấu giá trị của tư bản, vào trong việc tăng thêm bộ phận bất 
biến của giá trị tư bản, bằng cách lấy vào bộ phận khả biến của nó. Ví dụ: lúc đầu 
50% của một tư bản nào đó được chi cho tư liệu sản xuất, còn 50% được chi cho 
sức lao động; sau đó cùng với sự phát triển của năng suất lao động 80% được chi 
cho tư liệu sản xuất và 20% được chi cho sức lao động...Các quy luật về sư tăng lên 
của bộ phận bất biến của tư bản so với bộ phận khả biến, ở mỗi bước đều được xác 
minh. 
Tuy vậy sự giảm bớt phần khả biến của tư bản so với phần bất biến hay là sự 
thay đổi kết cấu của tư bản, chỉ nói lên một cách gần đúng sự biến đổi trong kết cấu 
của các bộ phận v