Thế giới quan khoa học là cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và định hướng đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Hay nói cách
khác, thế giới quan khoa học có vai trò quan trọng trong nhận thức và cải tạo thực tiễn.
Do đó, việc giáo dục, bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng - thế giới quan khoa
học cho đội ngũ cán bộ của Đảng không chỉ là việc làm thường xuyên, lâu dài mà còn là
vấn đề cấp thiết trong công cuộc đổi mới hiện nay của nước ta.
Trước diễn biến đa dạng phức tạp trên thế giới và trong nước đòi hỏi người cán
bộ phải có bản lĩnh chính trị, tri thức khoa học vững vàng để nhận thức và hoạt động
đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan của đất nước và xu thế của thời đại.
Hà Nam là một tỉnh nằm phía Nam của Thủ đô Hà Nội, chủ yếu dọc hai bên
đường quốc lộ 1A, mới được tái lập tháng 1/1997, có vị trí chiến lược an ninh - quốc
phòng, có điều kiện địa - chính trị thuận lợi. Song, trong những năm qua, tốc độ phát
triển kinh tế - xã hội, văn hóa chưa thật tương xứng với tiềm năng vốn có của nó.
Trường Chính trị Hà Nam là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống
chính trị từ tỉnh đến cơ sở (trừ cán bộ chủ chốt cấp huyện và cấp tỉnh). ở đó, cán bộ có
điều kiện tiếp cận nội dung kiến thức cơ bản để phục vụ hoạt động công tác của mình,
góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng của tỉnh.
Vì vậy, những hạn chế chung của tỉnh có thể do nhiều phương diện, trong đó
phải nói đến hiệu quả công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của nhà trường, đặc
biệt là công tác xây dựng thế giới quan khoa học cho họ. Cho nên, việc bồi dưỡng thế
giới quan khoa học là một trong những giải pháp cấp bách và chiến lược lâu dài cho đội
ngũ cán bộ tỉnh Hà Nam hiện nay.
82 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2594 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị Hà Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng cho học viên trường chính trị Hà Nam
hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới quan khoa học là cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và định hướng đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Hay nói cách
khác, thế giới quan khoa học có vai trò quan trọng trong nhận thức và cải tạo thực tiễn.
Do đó, việc giáo dục, bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng - thế giới quan khoa
học cho đội ngũ cán bộ của Đảng không chỉ là việc làm thường xuyên, lâu dài mà còn là
vấn đề cấp thiết trong công cuộc đổi mới hiện nay của nước ta.
Trước diễn biến đa dạng phức tạp trên thế giới và trong nước đòi hỏi người cán
bộ phải có bản lĩnh chính trị, tri thức khoa học vững vàng để nhận thức và hoạt động
đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan của đất nước và xu thế của thời đại.
Hà Nam là một tỉnh nằm phía Nam của Thủ đô Hà Nội, chủ yếu dọc hai bên
đường quốc lộ 1A, mới được tái lập tháng 1/1997, có vị trí chiến lược an ninh - quốc
phòng, có điều kiện địa - chính trị thuận lợi. Song, trong những năm qua, tốc độ phát
triển kinh tế - xã hội, văn hóa chưa thật tương xứng với tiềm năng vốn có của nó.
Trường Chính trị Hà Nam là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống
chính trị từ tỉnh đến cơ sở (trừ cán bộ chủ chốt cấp huyện và cấp tỉnh). ở đó, cán bộ có
điều kiện tiếp cận nội dung kiến thức cơ bản để phục vụ hoạt động công tác của mình,
góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng của tỉnh.
Vì vậy, những hạn chế chung của tỉnh có thể do nhiều phương diện, trong đó
phải nói đến hiệu quả công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của nhà trường, đặc
biệt là công tác xây dựng thế giới quan khoa học cho họ. Cho nên, việc bồi dưỡng thế
giới quan khoa học là một trong những giải pháp cấp bách và chiến lược lâu dài cho đội
ngũ cán bộ tỉnh Hà Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy
vật biện chứng đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt. Ngoài ra còn có những công trình nghiên
cứu một số vấn đề có liên quan đến thế giới quan khoa học ở những giác độ khác nhau
cũng được thực hiện trong một số luận văn, luận án; cụ thể như sau:
- V.I.Li-xốp-ski và V.Mi-tri-ep: "Nhân cách của người sinh viên" (chương VI:
Sự hình thành thế giới quan), Nxb Đại học Tổng hợp Lêningrát, 1974.
- Bun-nhông-khin-sa-mom: "Xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho
đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay", Luận án PTS, số
48, Học viện Nguyễn ái Quốc.
- Ch.L.Xiếc-nốp: "Những vấn đề cấp bách của việc hình thành thế giới quan
Mác - Lênin", Tạp chí Giáo dục Mác - Lênin, số 3-1985.
- Lê Xuân Vũ: "Thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống tinh thần nhân dân
ta", Tạp chí Cộng sản số 6-1986.
- Bùi ỉnh: "Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ,
đảng viên là người dân tộc, thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta",
Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1988.
- Trần Thanh Hà: "Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ, đảng viên
người dân tộc Khơmer ở đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn cách mạng hiện
nay", Luận án Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1993.
- Trần Phước: "Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức
Việt Nam", Luận án PTS triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1993.
- Trần Viết Quân: "Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên", Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
Các tác giả trên đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản như sau:
+ Khái niệm thế giới quan nói chung và thế giới quan duy vật biện chứng nói
riêng, vấn đề cấu trúc, vai trò của chúng.
+ Tầm quan trọng và tính tất yếu của việc giáo dục bồi dưỡng thế giới quan duy
vật biện chứng cho các đối tượng như sinh viên, cán bộ nói chung trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Nêu ra những nhân tố cơ bản trong việc hình thành, tác động phát triển thế giới
quan duy vật biện chứng.
+ Từ đó, tác giả đưa ra một số những phương hướng chung và các giải pháp cụ
thể cho mỗi đối tượng nghiên cứu trên cơ sở đòi hỏi của thực tiễn trong mỗi giai đoạn
nhất định.
Tuy nhiên về " Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học
viên trường chính trị Hà Nam hiện nay " chưa có tác giả nào nghiên cứu. Dựa trên
thực tế giáo dục, bồi dưỡng thế giới quan Mác - Lênin của Trường Chính trị Hà Nam trong
những năm qua cho đội ngũ cán bộ trong tỉnh và thông qua việc giảng dạy môn triết học,
tác giả mạnh dạn chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Từ việc phân tích vai trò thế giới quan và thực trạng việc bồi dưỡng thế giới quan
của cán bộ tỉnh Hà Nam, luận văn đưa ra một số những giải pháp cụ thể nhằm bồi dưỡng
thế giới quan cho đội ngũ học viên của trường Chính trị tỉnh Hà Nam.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò của nó trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng thế giới quan của cán bộ trong tỉnh Hà Nam.
- Đưa ra một số những giải pháp nhằm nâng cao thế giới quan khoa học cho đối
tượng là học viên học ở tại trường.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ đề cập đến vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho
học viên ở Trường Chính trị Hà Nam (trừ đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và cấp huyện)
từ năm 1997 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề giáo dục bồi dưỡng
thế giới quan Mác - Lênin, mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, mối quan hệ
giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, giữa sự thống nhất biện chứng lý luận
và thực tiễn… - Luận văn dựa vào các văn kiện của các thời kỳ Đại hội của
Đảng, Nghị quyết trung ương, các tài liệu của các cấp ủy Đảng và chính quyền ở tỉnh và
Trường Chính trị Hà Nam.
- Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, kết hợp lịch sử và lôgíc, điều tra xã hội học…
6. Đóng góp của luận văn
Làm rõ thực trạng thế giới quan của cán bộ tỉnh Hà Nam trên cơ sở đó đề ra một
số giải pháp chủ yếu để củng cố và nâng cao thế giới quan duy vật biện chứng cho đội
ngũ cán bộ này.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chiến lược, kế
hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ ở tỉnh Hà Nam.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu giảng dạy và học tập ở
trường chính trị nói chung và Trường Chính trị Hà Nam nói riêng. 7. Kết cấu của luận
văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
Thế giới quan của đội ngũ cán bộ
tỉnh hà nam hiện nay
1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò của thế giới quan duy vật
biện chứng đối với công tác lãnh đạo, quản lý
1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng
Đứng trước bức tranh về thế giới (tự nhiên và xã hội) muôn hình, muôn vẻ và
sinh động, con người luôn đặt ra và giải quyết những vấn đề về mối quan hệ của mình với
thế giới, về nguồn gốc của thế giới, về vị trí của mình trong xã hội, về ý nghĩa cuộc sống
của mình và thể hiện quan điểm, tư tưởng qua các lý thuyết xã hội. Đó chính là sự lựa
chọn và định hướng cuộc sống, tức là sự thể hiện thế giới quan của mình.
Thuật ngữ "thế giới quan" xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XVIII do nhà triết
học cổ điển Đức là Cantơ nêu ra. Từ đó, nó được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm của
các nhà triết học sau này. Đặc biệt, với sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm
thế giới quan đã phát triển lên một tầm cao mới mang tầm vóc lớn lao.
Thế giới quan nào ra đời cũng đều nhằm giải quyết ba vấn đề cơ
bản sau:
- Thế giới mà con người đang sống là gì?
- Trong thế giới đó con người sống vì cái gì và sống như thế nào?
- Khả năng con người tác động lại thế giới ra sao?
Trả lời những câu hỏi đó, thế giới quan đã vạch ra được mối quan hệ giữa con
người với thế giới và xác định vị trí con người trong thế giới đó.
Thế giới quan được hình thành và phát triển trong xã hội dưới hai hình thức:
Thứ nhất: Thế giới quan là một nhân tố của ý thức cá nhân, giữ vai trò chỉ dẫn
cách thức tư duy và hành động của cá nhân, đó là thế giới quan cá nhân. Thế giới quan cá
nhân thường là sự tích lũy và thu thập kinh nghiệm sống của mọi người. Nó nằm trong
suy nghĩ và hành vi của họ mà chính họ cũng không biết rằng cái được gọi là kinh
nghiệm sống hay sự hiểu biết về bức tranh chung của thế giới đó là thế giới quan cá nhân.
Nó chính là mức độ thấp trong nhận thức thế giới. Tuy nhiên, không nên đánh giá thấp
tác dụng của nó với tính cách là một nhân tố điều chỉnh hành động của con người. Tác
động của giáo dục, ảnh hưởng của truyền thống, của các quan hệ xã hội, các điều kiện và
hoàn cảnh môi trường sống là nhân tố quan trọng hình thành các quan điểm và nguyên
tắc thế giới quan cá nhân.
Thứ hai: Thế giới quan là sự thể hiện dưới hình thức lý luận khái quát hóa các
quan điểm và hoạt động của một nhóm xã hội, một giai cấp hay toàn xã hội. Đó là thế
giới quan xã hội. Các nhà triết học, kinh tế học, xã hội học hay các nhà tư tưởng, chính
trị... luôn suy nghĩ, cân nhắc để xây dựng thế giới quan xã hội. Nhiệm vụ của họ là phải
làm thế nào để thể hiện một cách đầy đủ nhất những nguyên lý tư tưởng lý luận, nguyên
lý triết học nhằm chỉ dẫn suy nghĩ và hành động của con người, của một nhóm xã hội,
một giai cấp hay toàn xã hội.
Hai loại thế giới quan trên luôn nằm trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau.
Mỗi cá nhân đều luôn mong muốn làm phong phú tri thức của mình bằng cách tiếp nhận
những lý luận chung để làm sáng tỏ vị trí của mình trong thế giới, trong đời sống xã hội.
Ngược lại, những quan điểm thế giới quan xã hội, lý luận chung ấy trở thành một bộ phận
trong ý thức và niềm tin của các cá nhân, thẩm thấu vào ý thức cá nhân, được hình thành
một cách tự phát rồi tác động và chỉ dẫn nó.
Dù ở trình độ phát triển nào các quan điểm về thế giới quan cũng đều mang tính
khái quát. Thế giới quan là sự phản ảnh chủ quan những điều kiện sinh hoạt vật chất của
con người. Tuy nhiên, thế giới quan không chỉ dừng lại ở sự phản ánh thụ động đó, mà
nó còn là nhân tố tích cực của con người, sự thông thái về cuộc sống để chỉ dẫn cho nhận
thức lẫn hành động của con người. Bởi vì, chính hành vi và hoạt động của con người đã
đặt ra các vấn đề như: liệu nhận thức có đáp ứng những mục đích sống đã được con
người lựa chọn và con đường thực hiện những mục đích ấy có tuân theo những quy luật
phát triển của thế giới khách quan hay không? Liệu quan hệ giữa tri thức con người với
thực tiễn cải tạo thế giới khách quan, cải tạo chính bản thân mình có tương ứng với
những đòi hỏi và những khuynh hướng phát triển hợp quy luật của hiện thực hay không?
Và bằng cách nào mà tư duy và hành động của mình, con người có thể thể hiện sự thống
nhất giữa mình và thế giới, hiểu được tương lai, triển vọng của mình? Khi trả lời những
câu hỏi đó, thế giới quan đã thể hiện chức năng, định hướng lớn lao của mình.
Trong lịch sử tư tưởng làm người đã có nhiều định nghĩa khác nhau
về thế giới quan, chẳng hạn, G-Gertx đã cho rằng: "Chúng tôi hiểu thế giới quan như một hệ
thống nhất định những lời giải đáp những vấn đề về cội nguồn của thế giới và nguồn gốc, về
ý nghĩa cuộc sống và đặc trưng của tiến bộ xã hội" [16, tr. 42]. Hoặc trong cuốn Từ điển
Tiếng Việt, Minh Tâm đã định nghĩa: "Thế giới quan là hệ thống những quan điểm mang
tính khái quát về thế giới nói chung, về những quy trình tự nhiên và xã hội được thực
hiện trong thế giới đó, về mối quan hệ của con người đối với hiện thực xung quanh" [39,
tr. 17]... Chúng tôi nhận thấy các định nghĩa trên đều đúng, nhưng bao quát và rõ hơn cả
là theo cách định nghĩa của Akitốp, bởi vì trong định nghĩa này, ông đã nêu nên, các yếu
tố nhận thức và giá trị, yếu tố khách quan và chủ quan thống nhất chặt chẽ với nhau, các
tri thức của khoa học về thế giới hòa với niềm tin của con người. Ông viết: "Tổng hợp tất
cả những quan niệm, chính kiến về thế giới, về cấu trúc và nguồn gốc của nó, ý nghĩa và
giá trị của đời sống con người, lòng tin của con người trong hiện thực gọi là thế giới
quan" [1, tr. 167].
Từ những quan niệm trên đây, có thể hiểu: Thế giới quan là hệ thống những quan
điểm của một chủ thể (có thể là của một người, một tập đoàn người, một giai cấp hay
toàn xã hội) về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trước thế giới. Trên cơ sở đó, thế
giới quan định hướng, chỉ dẫn cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con
người.
Về cấu trúc của thế giới quan bao gồm một số nhân tố cơ bản sau đây:
Tri thức:
Cũng giống ở mọi ý thức xã hội, thế giới quan bao gồm những tri thức về tự
nhiên, xã hội, con người. Những tri thức mang tính khái quát về các hiện tượng tự nhiên,
về mối quan hệ nền tảng, bản chất của tự nhiên, tạo thành quan điểm về tự nhiên của thế
giới quan. Các tri thức tự nhiên đó quy định lập trường của con người trong thế giới, chỉ
rõ người theo chủ nghĩa vô thần hay duy tâm, tôn giáo; biện chứng hay siêu hình.
Những tri thức về cuộc sống của con người, về sự phát triển xã hội, về quan hệ
của con người đối với xã hội tạo thành quan điểm xã hội của thế giới quan.
Những tri thức hệ thống khái quát về bản chất của quá trình hoạt động nhận thức
của con người tạo thành quan điểm nhận thức luận của thế giới quan.
Rõ ràng, việc xác định bản chất của thế giới quan cần dựa trên phương diện bản
thể luận lẫn phương diện nhận thức luận. Tri thức là điều kiện cần thiết cơ bản cho việc
hình thành thế giới quan, nhưng không phải bất kỳ tri thức nào về tự nhiên, xã hội, về con
người đều là tri thức thế giới quan. Chỉ có những tri thức biểu thị quan điểm chung về tồn
tại và về nhận thức mới là những tri thức của thế giới quan.
Trong nội dung tri thức của thế giới quan, các quan điểm của triết học đóng vai
trò là nền tảng của mọi thế giới quan ở các giai đoạn phát triển của nó vì triết học phản
ánh các quan điểm chung nhất về thế giới.
Niềm tin:
Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt được phát triển trên cơ sở của
tri thức. Nó là động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải tạo hiện thực của con người.
Niềm tin là những tư tưởng chi phối chặt chẽ tư tưởng, chỉ dẫn hành động của
con người tuân theo và ràng buộc trí tuệ, lương tâm của con người với chúng. Nếu con
người làm việc gì đó mà không có niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, của tư tưởng thì
con người sẽ bị mất đi những rung động của ý chí, nghị lực, lòng nhiệt tình và sự cổ vũ
cần thiết đối với hiệu quả công việc. Không có tâm hồn nóng bỏng của niềm tin vào tri
thức thì sẽ không sản sinh ra cái gì vĩ đại cả. Vì niềm tin giúp cho con người có nghị lực
phi thường vượt qua những giây phút hiểm nghèo, giám hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng mà
mình cho là cao cả. Như thế, niềm tin là yếu tố cấu thành quan trọng của thế giới quan.
Nếu nó được xác lập trên nền tảng tri thức khoa học thì nó sẽ thúc đẩy xã hội phát triển.
Lý tưởng:
Trong thế giới quan, cùng với tri thức và niềm tin thì lý tưởng là yếu tố định
hướng cực kỳ quan trọng. Lý tưởng như là hình mẫu, mục tiêu tối thượng về một cái gì
đó của một cá nhân, nhóm người, giai cấp hay toàn xã hội muốn vươn tới hiện thực.
Lý tưởng là một hình thức tư tưởng được xác lập trên cơ sở tri thức và niềm tin
của một giai cấp trong toàn xã hội đặt ra nhằm định hướng hoạt động cho mọi thành viên
trong xã hội thực hiện mục đích của mình, nhằm cải tạo thế giới "đang có" thành thế giới
"phải có". Lý tưởng mang tính lịch sử về bản chất, nó có thể tiến bộ hay lạc hậu tùy thuộc
vào hình thái của các mối quan hệ xã hội. Những quan niệm của con người về tương lai,
về lý tưởng, đó là sự tìm tòi và sẽ hình thành một hình thức tâm lý với tư cách là niềm hi
vọng. Không có niềm hy vọng như là một sự khao khát hiến dâng mình cho tương lai thì
không thể có một lập trường sống tích cực. Đó là các nhân tố cơ bản có quan hệ chặt chẽ
với nhau cấu thành thế giới quan, để thể hiện những quan điểm của chủ thể về thế giới, về
những hiện tượng tự nhiên, xã hội và các quy luật phát triển của chúng; về bản thân con
người,vai trò của con người trước thế giới.
Mối quan hệ giữa triết học với thế giới quan:
Như trên đã trình bày, thế giới quan đã chỉ ra mối quan hệ giữa con người với thế
giới, cái chủ quan và cái khách quan đã bao hàm trong mình vấn đề cơ bản của triết học,
thậm chí vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề chính trong kết cấu của thế giới quan.
Nhưng xét về mặt lịch sử, thế giới quan ra đời sớm hơn triết học. Nó ra đời trong thời kỳ
bộ tộc, trên cơ sở sự phản ánh hoang đường về thực tế. Và hình thức thế giới quan đầu
tiên ấy gọi là thế giới quan thần thoại. Còn triết học là khoa học chỉ xuất hiện khi có sự
tách lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay, gắn liền với sự ra đời của chế độ chiếm
hữu nô lệ. Triết học là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới, về vị trí
của con người trong thế giới đó. Vì vậy, triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan
làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn và tri thức do các nhà khoa học đem lại. Đó là chức năng thế giới quan
của triết học.
Trong những bước chuyển biến của đời sống xã hội của thực tiễn đặt ra đã kéo
theo sự tiến hóa của thế giới triết học, mà đỉnh cao nhất nó đạt được là thế giới duy vật
biện chứng.
Thế giới quan duy vật biện chứng là hệ thống chỉnh thể những tri thức về tự
nhiên, xã hội và con người. Nó được tạo thành trên cơ sở phê phán có chọn lọc những tư
tưởng tiến bộ của các trào lưu triết học từ sự khái quát kinh nghiệm lịch sử có những
thành tựu của khoa học.
Vai trò thế giới quan duy vật biện chứng trong thực tiễn cách mạng được quy
định bởi bản chất cách mạng của chính phép biện chứng duy vật. Vì vậy, thế giới quan
duy vật biện chứng là một loại thế giới quan mang tính khoa học và cách mạng triệt để
nhất. Nó không chỉ dừng lại ở việc lý giải về thế giới mà hơn thế nữa, trên cơ sở sự lý
giải đúng, nó trở thành cái định hướng cho con người trong hành động, khẳng định vị trí
của con người trong việc cải tạo thế giới; C. Mác viết: "Các nhà triết học đã chỉ giải
thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới" [29, tr. 258].
Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng đã đánh dấu bước ngoặt vĩ đại
trong sự phát triển của thế giới quan triết học nói riêng và của thế giới nói chung. Nó là
sự thống nhất chặt chẽ các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng do các
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác sáng lập. Thế giới quan đó có một ý nghĩa không chỉ thuần
về mặt lý luận và nhận thức mà nó còn có ý nghĩa lớn lao về mặt thực tiễn: biểu hiện thái
độ của con người với thế giới xung quanh và làm kim chỉ nam cho hành động của con
người. Nhờ đã phát hiện ra những quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội cho nên thế
giới quan duy vật biện chứng hướng sự hoạt động của con người đúng theo sự phát triển
của xã hội, do đó, nó thúc đẩy thêm sự phát triển ấy.
Công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta đòi hỏi
mỗi người chúng ta, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ - những người lãnh đạo quần chúng
phải có một thế giới quan đúng đắn, khoa học và cách mạng, một thế giới quan thống
nhất giữa lời nói, việc làm, giữa chân - thiện - mỹ... Một thế giới quan như thế phải được
xây dựng trên những tư tưởng triết học của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin. Bởi
lẽ, việc trang bị thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp