Đạo đức cách mạng là nền đạo đức tích tụ nhiều giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc và đạo đức nhân loại. Nó có vị trí đặc biệt quan trọng, là nhân tố có sức mạnh
to lớn đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước ta hơn
nửa thế kỷ qua. Nó đã trở thành nền tảng đạo đức xã hội ta, một di sản văn hóa vô
cùng quý báu, đã và đang là động lực tinh thần to lớn cho toàn Đảng, toàn dân trong sự
nghiệp đổi mới đất nước, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Nhận thức được vai trò to lớn của đạo đức cách mạng đối với sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn coi trọng và thường xuyên chăm lo giáo dục, trau dồi đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên. Do đó, cách mạng nước ta trong những năm qua, đặc
biệt, sau 18 năm đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trư ờng (KTTT) định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN), đã đạt được những thành quả to lớn chưa từng có trong lịch sử Việt
Nam về kinh tế, chính trị, xã hội. Nhưng bên cạnh những thành tựu nói trên, chúng ta
cũng đang đối mặt với những suy thoái về đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên. Đáng chú ý là sự suy thoái này ngày một gia tăng. Điều đó
Đảng ta đã khẳng định qua các kỳ Đại hội:
Đại hội Đảng lần thứ VI nhận định: "Tình trạng vi phạm kỷ luật Đảng, pháp
luật nhà nước nghiêm trọng kéo dài chưa giảm" [29, tr. 9].
Đại hội Đảng lần thứ VII nhận định: "Số đảng viên vi phạm kỷ luật trong số
được kiểm tra tăng lên nhiều hơn" [29, tr. 10].
Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định: "Điều đáng lo ngại là không ít cán bộ,
đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức" [26, tr. 27].
Đến Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh: "Tình trạng
tham nhũng, suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên là rất nghiêm trọng" [30, tr. 76].
Đạo đức cán bộ, đảng viên ở Hải Phòng cũng không nằm ngoài tình trạng
chung đó.
Sự suy thoái đạo đức xã hội ngày càng gia tăng trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên đó đã làm giảm uy tín của Đảng, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với
chế độ, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) ở nước ta nói chung, ở Hải Phòng nói riêng.
Vậy tại sao có sự suy thoái về đạo đức ngày càng gia tăng trong một bộ phận
cán, bộ đảng viên ở Hải Phòng? Làm thế nào để khắc phục được tình trạng trên? Làm
sao để có được đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ có năng lực chuyên môn mà còn
có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng làm động lực phát triển kinh tế - xã hội ở
Hải Phòng?
Đó là những vấn đề lớn, bức xúc đặt ra đối với Đảng bộ và nhân dân thành
phố Hải Phòng. Đề tài: " Vấn đề đạo đức của cán bộ, đảng viên trong kinh tế thị
trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Hải Phũng hiện nay " muốn góp một phần
nhỏ vào việc giải quyết vấn đề lớn đó.
98 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2681 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề đạo đức của cán bộ, đảng viên trong kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Hải Phòng hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vấn đề đạo đức của cán bộ, đảng viên trong kinh
tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Hải
Phũng hiện nay
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức cách mạng là nền đạo đức tích tụ nhiều giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc và đạo đức nhân loại. Nó có vị trí đặc biệt quan trọng, là nhân tố có sức mạnh
to lớn đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước ta hơn
nửa thế kỷ qua. Nó đã trở thành nền tảng đạo đức xã hội ta, một di sản văn hóa vô
cùng quý báu, đã và đang là động lực tinh thần to lớn cho toàn Đảng, toàn dân trong sự
nghiệp đổi mới đất nước, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Nhận thức được vai trò to lớn của đạo đức cách mạng đối với sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn coi trọng và thường xuyên chăm lo giáo dục, trau dồi đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên. Do đó, cách mạng nước ta trong những năm qua, đặc
biệt, sau 18 năm đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN), đã đạt được những thành quả to lớn chưa từng có trong lịch sử Việt
Nam về kinh tế, chính trị, xã hội. Nhưng bên cạnh những thành tựu nói trên, chúng ta
cũng đang đối mặt với những suy thoái về đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên. Đáng chú ý là sự suy thoái này ngày một gia tăng. Điều đó
Đảng ta đã khẳng định qua các kỳ Đại hội:
Đại hội Đảng lần thứ VI nhận định: "Tình trạng vi phạm kỷ luật Đảng, pháp
luật nhà nước nghiêm trọng kéo dài chưa giảm" [29, tr. 9].
Đại hội Đảng lần thứ VII nhận định: "Số đảng viên vi phạm kỷ luật trong số
được kiểm tra tăng lên nhiều hơn" [29, tr. 10].
Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định: "Điều đáng lo ngại là không ít cán bộ,
đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức" [26, tr. 27].
Đến Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh: "Tình trạng
tham nhũng, suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên là rất nghiêm trọng" [30, tr. 76].
Đạo đức cán bộ, đảng viên ở Hải Phòng cũng không nằm ngoài tình trạng
chung đó.
Sự suy thoái đạo đức xã hội ngày càng gia tăng trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên đó đã làm giảm uy tín của Đảng, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với
chế độ, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) ở nước ta nói chung, ở Hải Phòng nói riêng.
Vậy tại sao có sự suy thoái về đạo đức ngày càng gia tăng trong một bộ phận
cán, bộ đảng viên ở Hải Phòng? Làm thế nào để khắc phục được tình trạng trên? Làm
sao để có được đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ có năng lực chuyên môn mà còn
có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng làm động lực phát triển kinh tế - xã hội ở
Hải Phòng?
Đó là những vấn đề lớn, bức xúc đặt ra đối với Đảng bộ và nhân dân thành
phố Hải Phòng. Đề tài: " Vấn đề đạo đức của cán bộ, đảng viên trong kinh tế thị
trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Hải Phũng hiện nay " muốn góp một phần
nhỏ vào việc giải quyết vấn đề lớn đó.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề đạo đức nói chung, đạo đức cách mạng trong điều kiện KTTT định
hướng XHCN nói riêng đã có nhiều cá nhân và tập thể tác giả quan tâm nghiên cứu ở
những khía cạnh khác nhau, với những cách tiếp cận khác nhau như: Vũ Khiêu: "Mấy
vấn đề đạo đức cách mạng", Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1978; Nguyễn Ngọc Long:
"Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư
duy", Tạp chí Nghiên cứu Lý luận, số 1-2/1987; Trần Thành: "Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức", Nxb Chính trị quốc gia, 1996; Nguyễn Tĩnh Gia: "Sự tác động hai mặt
của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý", Tạp chí Nghiên cứu lý
luận, số 2/1997; Nguyễn Chí Mỳ: "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền
kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện
nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Nguyễn Ngọc Long (chủ biên): "Giáo
trình đạo đức học", Nxb Chính trị quốc gia, 2000; Nguyễn Văn Lý: "Kế thừa và đổi
mới những giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế trị
trường Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 2000; Nguyễn Thế Thắng: "Tìm hiểu tư tưởng đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh", Nxb Lao động, Hà Nội, 2002; Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn
Phúc (Đồng chủ biên), Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Nguyễn thế Kiệt (chủ nhiệm đề
tài), Kỷ yếu đề tài cấp bộ (2002-2003), Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và xu hướng biến động,
Hà Nội, 2003; Trần Văn Phòng: "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo
chính trị hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị, số 5-2003.
Một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề xây dựng đạo đức cho cán bộ,
đảng viên của các tác giả như: Đặng Thanh Giang: "Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho
cán bộ cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" (qua thực tế ở
tỉnh Thái Bình), Luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2001; Dương Xuân Lộc: "Quan
hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên hiện nay"
(qua thực tế ở Thành phố Hồ Chí Minh), Luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2001;
Trương Thế Thắng: "Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên trong điều
kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Hà Giang hiện nay", Luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội,
2003...
Như vậy, vấn đề đạo đức, đạo đức cách mạng, xây dựng đạo đức cho cán bộ,
đảng viên đã được nhiều cá nhân và tập thể tác giả đề cập ở nhiều góc độ khác nhau,
nhưng vấn đề nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên nói chung và ở Hải
Phòng nói riêng hiện nay là vấn đề đòi hỏi được tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Vì vậy,
chúng tôi chọn đề tài: "Vấn đề đạo đức của cán bộ, đảng viên trong kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Hải Phòng hiện nay" để viết luận văn thạc sĩ
Triết học.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Phân tích thực trạng đạo đức cán bộ, đảng viên trong điều kiện KTTT định
hướng XHCN ở Hải Phòng, từ đó đề ra những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và
nâng cao đạo đức cách mạng cho họ ở Hải Phòng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ tầm quan trọng của đạo đức người cán bộ, đảng viên trong điều kiện
KTTT ở Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ yêu cầu về đạo đức cán bộ, đảng viên ở Hải Phòng hiện nay.
- Phân tích thực trạng đạo đức cán bộ, đảng viên ở Hải Phòng hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và nâng cao phẩm chất đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong điều kiện KTTT ở Hải Phòng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay,
thông thường cán bộ là đảng viên. Tuy nhiên, có cán bộ không là đảng viên. Ngược
lại, không phải đảng viên nào cũng là cán bộ. Do vậy, đối tượng nghiên cứu của luận
văn là đạo đức của người cán bộ là đảng viên và đạo đức của người đảng viên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề đạo đức của cán bộ, đảng viên
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Hải Phòng hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm triết học và đạo đức học Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời luận văn kế thừa
các thành tựu của một số công trình khoa học đã được công bố có liên quan đến nội
dung mà đề tài luận văn đề cập.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp lịch sử và lôgíc; phân tích và
tổng hợp; phương pháp điều tra xã hội học... đã được sử dụng để thực hiện mục đích
và nhiệm vụ đề tài đặt ra.
6. Cái mới và ý nghĩa của luận văn
6.1. Cái mới của luận văn
Làm rõ thực trạng đạo đức của cán bộ, đảng viên ở Hải Phòng hiện nay; qua
đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ,
đảng viên ở Hải Phòng trong điều kiện KTTT hiện nay.
6.2. ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu và giảng dạy
môn Đạo đức học, môn Xây dựng Đảng... trong các trường đại học và các trường
chính trị tỉnh, thành phố.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để đề ra kế hoạch, giải pháp nhằm
nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên ở thành phố Hải Phòng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
tầm quan trọng và yêu cầu của đạo đức
người cán bộ, đảng viên trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Hải Phòng hiện nay
1.1. Tầm quan trọng của đạo đức người cán bộ, đảng viên trong kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Đạo đức và đạo đức cách mạng; quan hệ kinh tế và đạo đức
1.1.1.1. Đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức - xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mực nhằm hướng dẫn con người tiến tới cái thiện, cái chân, cái mỹ... chống
lại cái ác, cái giả, cái xấu... Đạo đức luôn là một động lực tinh thần to lớn đối với sự
phát triển, tiến bộ của xã hội. Vì vậy, trong mỗi thời đại lịch sử, để phù hợp với sự tiến
bộ của xã hội, giai cấp thống trị đều đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức và điều
chỉnh các hành vi, cách ứng xử của con người sao cho phù hợp với các chuẩn mực đạo
đức xã hội.
Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, quan niệm về đạo đức đã để lại không ít
những giá trị to lớn. Nhưng do những hạn chế về thế giới quan, phương pháp luận và
những thiên kiến giai cấp, nên tất cả các quan niệm về đạo đức trước C.Mác đều thiếu
luận cứ khoa học. Hầu hết các quan niệm đó đã rơi vào chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo.
Đạo đức học trước C.Mác bằng cách này hay cách khác đã trở thành một trong những
công cụ tinh thần của giai cấp thống trị dùng để duy trì trạng thái ổn định tạm thời của
các chế độ xã hội cũ, bảo vệ địa vị thống trị của các giai cấp thống trị.
Trên cơ sở của những tiến bộ trong đời sống vật chất, phương thức sản xuất và
những thành quả của sự phát triển khoa học, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin dùng thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng, đồng thời kế thừa
một cách có phê phán những giá trị đạo đức đạt được trong lịch sử lâu dài của nhân
loại, làm một cuộc cách mạng có tính chất bước ngoặt về đạo đức. Quan điểm mác-xít
cho rằng: Đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là sản phẩm của lịch sử xã
hội, do cơ sở kinh tế - xã hội sinh ra và quyết định; quan hệ đạo đức là biểu hiện của
quan hệ vật chất xã hội và biến đổi theo đời sống vật chất xã hội. Nghĩa là, theo quá trình
phát triển của xã hội, trên cơ sở phát triển của sản xuất vật chất mà đạo đức được hoàn
thiện dần dần. Đạo đức phát triển từ thấp đến cao cùng với sự phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội, thông qua sự đấu tranh, lọc bỏ, kế thừa để tiến bộ không ngừng.
Như vậy, đạo đức xét về bản chất là sự phản ánh tồn tại xã hội, là tồn tại xã
hội được nhận thức, bị quy định bởi tồn tại xã hội. Điều đó giải thích một cách khoa
học sự khác nhau, thậm chí đối lập nhau giữa đạo đức học mác-xít với những hệ thống
đạo đức khác nhau trong lịch sử.
Đạo đức thường được xét ở ba góc độ: nhận thức luận, chức năng, hệ giá trị.
Dưới góc độ nhận thức luận: Đạo đức là một hiện tượng tinh thần, một hình
thái đặc biệt của ý thức xã hội, là tính thứ hai so với tồn tại xã hội. Tính đặc biệt của
nó thể hiện trong quá trình hình thành các quy tắc đạo đức, là do sự thừa nhận của số
đông trong xã hội hay sự thừa nhận của một giai cấp nhất định.
Dưới góc độ chức năng: Chức năng cơ bản nhất của đạo đức là điều chỉnh
hành vi của con người bằng chuẩn mực và quy tắc theo yêu cầu của xã hội, nhằm đảm
bảo lợi ích chung của xã hội hay lợi ích cơ bản của giai cấp đề ra chuẩn mực, quy tắc
đạo đức ấy. Với chức năng nhận thức và chức năng giáo dục, nó giúp con người hình
thành những quan điểm, nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực cơ bản để đánh giá hành vi
đạo đức xã hội và những hành vi đạo đức của bản thân.
Cách tiếp cận từ hai góc độ trên đây còn được bổ sung bằng cách thứ ba, đó là
xem xét đạo đức với tính cách là một hệ giá trị. Đạo đức là một trong những hình thái
ý thức xã hội, thường bao giờ cũng được khẳng định hoặc phủ định một lợi ích, một
quan niệm đương thời xác định. Vì vậy, đạo đức là một hệ giá trị. Lợi ích là cơ sở
khách quan của giá trị. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, do lợi ích căn bản khác
nhau mà các giai cấp quan niệm về giá trị đạo đức khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Như vậy, nội hàm của khái niệm đạo đức không chỉ hạn định ở đặc trưng là một hình
thái ý thức xã hội, là một phương thức cơ bản điều chỉnh hành vi con người mà đạo
đức còn là một hệ giá trị bao gồm những giá trị chung và những giá trị riêng.
Cho đến nay đã có rất nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về đạo đức, ở
một mức độ khái quát nhất, chúng ta có thể hiểu:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử
của con người trong quan hệ xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội [49, tr. 8].
Đạo đức bao gồm: ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và thực tiễn đạo đức.
ý thức đạo đức là ý thức của con người về hệ thống những quy tắc, chuẩn
mực hành vi phù hợp với những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại. ý thức đạo đức
bao hàm các yếu tố tạo thành là tri thức, tình cảm và ý chí đạo đức.
Quan hệ đạo đức là hệ thống những quan hệ xác định giữa con người và con
người, giữa cá nhân và xã hội về mặt đạo đức. Nó là một bộ phận hợp thành của quan
hệ xã hội.
Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con người do ảnh hưởng của niềm tin, của
ý thức đạo đức, là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức vào trong đời sống của con
người.
ý thức đạo đức, thực tiễn đạo đức và quan hệ đạo đức là những yếu tố tạo nên
cấu trúc của đạo đức. Mỗi yếu tố không tồn tại độc lập mà liên hệ tác động lẫn nhau,
tạo nên sự vận động phát triển và chuyển hóa bên trong của hệ thống đạo đức.
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, đạo đức không sinh ra đạo đức mà đạo đức nảy
sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử. Với tư cách là
sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội, của cơ sở kinh tế - xã hội. Ph. Ăngghen nhận xét: "Xét cho đến cùng, mọi
học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của
xã hội lúc bấy giờ" [55, tr. 137]. Sự phát triển của ý thức đạo đức của người nguyên
thủy đến ý thức đạo đức của xã hội văn minh là kết quả của sự phát triển từ thấp đến
cao của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người.
1.1.1.2. Đạo đức cách mạng
Đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản là thành quả phát triển cao trong lịch
sử tiến hóa lâu dài của đạo đức. Nó là kết quả của sự phủ định biện chứng những giá
trị đạo đức đã đạt được trong lịch sử. Nếu như đạo đức của xã hội có đối kháng giai
cấp được xây dựng trên sự bất bình đẳng, sự nô dịch và sự áp bức bóc lột giữa người
và người thì đạo đức cách mạng được xây dựng trên cơ sở bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa người với người. Nếu như đạo đức tư sản kích thích sự phát
triển cá nhân một cách cực đoan trở thành chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, kích thích những
dục vọng thấp hèn, những bản năng ở con người, vật hóa con người, thì đạo đức cách
mạng phát triển cá nhân trong sự hài hòa với cộng đồng xã hội, hạn chế những dục
vọng, bản năng thấp hèn ở con người. Đạo đức cách mạng kích thích phát triển và giữ
vai trò chỉ đạo mặt ý thức, mặt xã hội của con người, nâng con người lên đúng tầm vị
trí làm người.
Có thể nói, đạo đức cách mạng - đạo đức cộng sản chủ nghĩa không những
khác mà hoàn toàn đối lập với đạo đức của giai cấp bóc lột (đạo đức chủ nô, phong
kiến, tư sản). Đạo đức cộng sản là nền đạo đức có giá trị phổ biến và nhân đạo. Theo
V.I. Lênin, đạo đức mới là những gì "góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và
góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng
tạo ra xã hội mới của những người cộng sản..." [45, tr. 369]. Đạo đức cộng sản biểu
hiện sự sáng tạo mang tính quần chúng rộng rãi. Các giá trị đạo đức cộng sản chủ
nghĩa mang đầy ý nghĩa cao cả và vì con người. Những giá trị ấy nói lên bản chất sáng
tạo của trí tuệ, của ý thức danh dự, của lòng dũng cảm và những phẩm chất cao quý
của con người. Nền đạo đức ấy vừa là sản phẩm của nền sản xuất xã hội đầy sáng tạo
và nhân văn, vừa là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Nhằm nhấn mạnh vai trò nhân tố tinh thần của đạo đức mới - đạo đức cách
mạng - đạo đức cộng sản chủ nghĩa trong việc góp phần vào thắng lợi của cách mạng
XHCN, và để phù hợp với thực tiễn cách mạng XHCN trong giai đoạn hiện nay, trong
luận văn này chủ yếu sử dụng khái niệm "Đạo đức cách mạng" theo quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là: "Tuyệt đối trung thành với nhân
dân", "ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng", "làm đúng chính sách và nghị
quyết của Đảng"; "quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch"; "đặt lợi ích của Đảng lên
trên hết"; "luôn hòa mình với quần chúng" v.v... ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, khái niệm
đạo đức cách mạng được vận dụng một cách khá linh hoạt, mềm dẻo - điều này phụ
thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể. ở mức độ khái quát nhất, theo Người, đạo đức cách
mạng là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều
chủ chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt
đường lối, chính sách của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước
lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì
Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình
và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng
đồng chí mình tiến bộ [61, tr. 285].
Đạo đức cách mạng Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với thực
tiễn cách mạng Việt Nam, là sự phản ánh quá trình đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân, nông dân và các tầng lớp tiến bộ khác nhằm giành độc lập dân tộc và đi lên
xây dựng CNXH. Đạo đức cách mạng xét dưới góc độ nhận thức, là kết quả của sự
phản ánh tồn tại xã hội, là tính thứ hai so với tồn tại xã hội. Nhưng với tư cách là một
hình thái ý thức xã hội đặc biệt, luân lý đạo đức phản ánh cái bản chất của tồn tại xã
hội. Cho nên đạo đức cách mạng kế thừa những đặc điểm của hệ thống lý luận đạo đức
trong lịch sử; phản ánh quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp khác nhau trong
xã hội.
Sự khác nhau căn bản giữa đạo đức cách mạng với các hệ thống đạo đức khác
là ở tính cách mạng và khoa học của nó. Đạo đức cách mạng là đạo đức phản ánh lợi
ích cơ bản của giai cấp công nhân và các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động khác,
nó mang bản chất giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành
lại độc lập dân tộc và xây dựng thành công CNXH. Mục tiêu lý tưởng đó phù hợp với quy
luật vận động tất yếu của lịch sử xã hội và quy luật tiến bộ của đạo đức nhân loại; vì nó
hướng tới mục tiêu giải phóng triệt để con người khỏi khổ đau, áp bức bóc lột, bất
công trong xã hội hiện thực. Mục tiêu này, theo cách nói của C.Mác: "Phải lật đổ tất cả
những quan hệ biến con người thành một sinh vật bị làm nhục, bị nô dịch, bị bỏ rơi, bị
khinh rẻ..." [51, tr. 581].
Tính cách mạng, khoa họ