Phụ nữ Việt Nam là một lực lượng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp  cách 
mạng và trong sản xuất. Với tinh thần yêu nước sâu sắc, phụ nữ Việt Nam  đã dũng 
cảm tham gia vào các phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng 
chính mình. Ngày nay, trong không khí sôi  động của sự nghiệp  đổi mới toàn diện  đất 
nước, phụ nữ Việt Nam phát huy truyền thống dân tộc, truyền thống phụ nữ hăng hái 
tham gia vào các hoạt  động xây dựng và phát triển  đất nước trong thời kỳ mới. Quá 
trình  đó cùng với đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh 
tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, 
với nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt  động. Cơ chế kinh tế mới  đã làm cho mọi 
hoạt  động của người dân Việt Nam nói chung, phụ nữ nói riêng càng trở nên năng 
động, sáng tạo  hơn, đồng thời ở họ từng bước hình thành những chuẩn mực, những 
quan hệ đạo đức mới trong xã hội.
Qua 15 năm đổi mới chúng ta  đã  đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh 
vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng  được giữ vững, quan hệ  đối ngoại 
được mở rộng, đời sống của nhân dân từng bước được nâng lên. Tuy nhiên, trên bước 
đường thực hiện công nghiệp hóa, hiện  đại hóa, hội nhập khu vực và quốc tế, sự phát 
triển của nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó đã tác động đến các tầng lớp 
xã hội, trong  đó có phụ nữ. Vấn  đề việc làm, sự nghèo  đói, các tệ nạn xã hội có xu 
hướng gia tăng, nạn mại dâm, ma túy, hiện tượng bạo lực  đối với phụ nữ  đang là 
những vấn  đề bức bách; những giá trị  đạo  đức truyền thống ít được chú trọng, có nơi, 
có lúc  còn bị mai một. Trong xã hội xuất hiện những thái  độ, hành vi  đạo  đức không 
lành mạnh trong các quan hệ xã hội, một bộ phận người dân nói chung, phụ nữ nói 
riêng suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống. Tình trạng đó lan tràn ở nhiều nơi, ảnh 
hưởng tới  đạo đức người phụ nữ. Do vậy, việc kế thừa, giữ gìn, phát huy các giá trị 
đạo  đức truyền thống dân tộc nói chung, truyền thống phụ nữ nói riêng trong việc xây 
dựng đạo  đức mới của người phụ nữ là công việc rất cần thiết và cấp bách, có ý nghĩa 
lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 91 trang
91 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2402 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Vấn đề phát huy giá trị đạo đức truyền thống 
dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới của 
người phụ nữ Việt Nam hiện nay 
Mở đầu 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Phụ nữ Việt Nam là một lực lượng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách 
mạng và trong sản xuất. Với tinh thần yêu nước sâu sắc, phụ nữ Việt Nam đã dũng 
cảm tham gia vào các phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng 
chính mình. Ngày nay, trong không khí sôi động của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất 
nước, phụ nữ Việt Nam phát huy truyền thống dân tộc, truyền thống phụ nữ hăng hái 
tham gia vào các hoạt động xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Quá 
trình đó cùng với đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh 
tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, 
với nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động. Cơ chế kinh tế mới đã làm cho mọi 
hoạt động của người dân Việt Nam nói chung, phụ nữ nói riêng càng trở nên năng 
động, sáng tạo hơn, đồng thời ở họ từng bước hình thành những chuẩn mực, những 
quan hệ đạo đức mới trong xã hội. 
Qua 15 năm đổi mới chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh 
vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng được giữ vững, quan hệ đối ngoại 
được mở rộng, đời sống của nhân dân từng bước được nâng lên. Tuy nhiên, trên bước 
đường thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập khu vực và quốc tế, sự phát 
triển của nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó đã tác động đến các tầng lớp 
xã hội, trong đó có phụ nữ. Vấn đề việc làm, sự nghèo đói, các tệ nạn xã hội có xu 
hướng gia tăng, nạn mại dâm, ma túy, hiện tượng bạo lực đối với phụ nữ đang là 
những vấn đề bức bách; những giá trị đạo đức truyền thống ít được chú trọng, có nơi, 
có lúc còn bị mai một. Trong xã hội xuất hiện những thái độ, hành vi đạo đức không 
lành mạnh trong các quan hệ xã hội, một bộ phận người dân nói chung, phụ nữ nói 
riêng suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống. Tình trạng đó lan tràn ở nhiều nơi, ảnh 
hưởng tới đạo đức người phụ nữ. Do vậy, việc kế thừa, giữ gìn, phát huy các giá trị 
đạo đức truyền thống dân tộc nói chung, truyền thống phụ nữ nói riêng trong việc xây 
dựng đạo đức mới của người phụ nữ là công việc rất cần thiết và cấp bách, có ý nghĩa 
lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay. 
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 
Nghiên cứu về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc từ trước tới nay đã có 
nhiều công trình nghiên cứu như: "Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam" của GS 
Trần Văn Giàu (Nxb Khoa học xã hội, 1980); "Tìm hiểu tính cách dân tộc" của GS 
Nguyễn Hồng Phong (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1963). Trong các công trình 
nghiên cứu đó, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những giá trị đạo đức truyền thống dân 
tộc được hình thành trong lịch sử và vận động tới ngày nay. 
Giá trị đạo đức truyền thống phụ nữ là một bộ phận của giá trị đạo đức truyền 
thống dân tộc. Vì vậy, nghiên cứu về truyền thống đạo đức của phụ nữ GS Trần Quốc 
Vượng đã có công trình nghiên cứu "Truyền thống phụ nữ Việt Nam" do Nxb Văn hóa 
- dân tộc phát hành năm 2000. Ngoài ra còn có nhiều bài báo, tạp chí nghiên cứu về 
truyền thống đạo đức người phụ nữ. 
Trước những đổi thay không ngừng của đất nước, nhiều chuẩn mực đạo đức 
mới ra đời, nhưng cũng nhiều giá trị đạo đức truyền thống dân tộc bị mai một, suy 
thoái. Vì vậy, việc nghiên cứu, xác định các giá trị đạo đức truyền thống cần được kế 
thừa, phát huy trong điều kiện mới có nhiều công trình khoa học nghiên cứu như: Hội 
nghị khoa học "Giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam" do Viện Mác - Lênin và Tạp chí 
Cộng sản tổ chức năm 1982 được in trong hai tập sách có tên "Về giá trị văn hóa tinh 
thần Việt Nam" do Nhà xuất bản Thông tin lý luận ấn hành năm 1983. Công trình khoa 
học công nghệ cấp Nhà nước "Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát 
triển kinh tế - xã hội" (KX-07) trong đó có kết quả của đề tài "Các giá trị truyền thống 
và con người Việt Nam hiện nay" (KX-07-02) khẳng định các giá trị đạo đức truyền 
thống dân tộc cần được phát huy trong giai đoạn cách mạng mới. 
Cùng với việc nghiên cứu các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc có nhiều 
công trình nghiên cứu về đạo đức như "Đạo đức mới" của GS Vũ Khiêu (Nxb Khoa học 
xã hội, 1974); "Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới" của GS Tương Lai (Nxb 
Sự thật, 1983), và Hội nghị khoa học "Về việc nghiên cứu những vấn đề đạo đức trong 
thời kỳ quá độ" do Ban Đạo đức học - Viện Triết học và ủy ban Khoa học xã hội nhân 
văn tổ chức năm 1983, với các chủ đề: Phụ nữ và vấn đề hình thành đạo đức mới, văn hóa 
đạo đức và vấn đề giáo dục con người mới, truyền thống và hiện đại trên lĩnh vực đạo 
đức... 
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng tải trên các báo, tạp chí Trung ương và 
địa phương đề cập đến vấn đề kế thừa, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân 
tộc như "Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức sống bên trong của sự phát triển đất 
nước, dân tộc" của PGS Nguyễn Văn Huyên (Tạp chí Triết học, số 4, 1998); "Sự biến 
đổi của thang giá trị đạo đức trong xã hội ta hiện nay và việc nâng cao phẩm chất đạo 
đức của cán bộ" của PGS Nguyễn Chí Mỳ và Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Cộng sản, số 
15, 1998)...; một số công trình nghiên cứu của cá nhân như "Kế thừa giá trị đạo đức 
truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong tình hình hiện nay" (Luận văn thạc sĩ của Lê Thị 
Minh Hiệp, 2000). Các bài viết về vấn đề phẩm chất đạo đức mới của người phụ nữ 
hiện nay như "Phụ nữ Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất 
nước" của Trương Mỹ Hoa, Tạp chí Cộng sản, số 20, 1996; "Phụ nữ Việt Nam bước 
vào thế kỷ XXI" của GS Lê Thi (Tạp chí Cộng sản, số 20, 2000)... 
Như vậy, vấn đề kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, 
truyền thống phụ nữ, vấn đề đạo đức mới của toàn dân nói chung, phụ nữ nói riêng đã 
được nhiều người, nhiều nhà khoa học quan tâm tìm hiểu. Tuy nhiên, chưa có công 
trình nào nghiên cứu về vấn đề phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong 
việc xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ Việt Nam hiện nay . 
3. Mục đích của luận văn 
Từ những nội dung, yêu cầu của việc xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ 
hiện nay; qua tìm hiểu thực trạng và một số vấn đề nảy sinh trong việc phát huy giá trị 
đạo đức truyền thống dân tộc ở tỉnh Vĩnh Phúc, trên cơ sở đó đề xuất một số phương 
hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây 
dựng đạo đức mới của người phụ nữ hiện nay. 
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên luận văn phải giải quyết ba nhiệm vụ, đó 
là: 
- Chỉ ra được những nhân tố tác động tới đạo đức người phụ nữ hiện nay. 
- Xác định được các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cần phát huy; những 
yêu cầu, nội dung của các chuẩn mực đạo đức mới của người phụ nữ trong giai đoạn 
phát triển hiện nay của đất nước. 
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm phát huy hơn nữa giá 
trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ 
hiện nay ở nước ta. 
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu 
Những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, đạo đức truyền thống phụ nữ cần 
được kế thừa, phát huy ở đây về mặt tích cực. 
Luận văn chủ yếu tập trung phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức của 
người phụ nữ hiện nay, được nảy sinh từ khi Đảng ta chủ trương tiến hành công cuộc 
đổi mới đất nước (1986), qua khảo sát thực tế tỉnh Vĩnh Phúc. 
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
Cơ sở lý luận của luận văn là các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư 
tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề phát huy giá trị đạo 
đức truyền thống dân tộc, vấn đề xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ. 
Phương pháp chủ yếu để thực hiện luận văn này là tổng hợp các nguyên tắc 
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, 
trong đó chủ yếu là phương pháp lịch sử - lôgíc, phân tích - tổng hợp, trừu tượng - cụ 
thể. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học để so sánh đối 
chiếu, sử dụng những số liệu của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Vĩnh Phúc đã được công 
bố. 
6. Cái mới và ý nghĩa của luận văn 
Luận văn xác định được những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cần phát 
huy đối với người phụ nữ Việt Nam; những yêu cầu, nội dung cơ bản về chuẩn mực 
đạo đức mới của người phụ nữ Việt Nam trong tình hình hiện nay. 
Luận văn đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá 
trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ 
Việt Nam hiện nay. 
Luận văn góp phần vào việc nhận thức vai trò lâu dài của việc phát huy các giá 
trị đạo đức truyền thống dân tộc, truyền thống phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và 
phát triển đất nước hiện nay. 
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, 
học tập về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, truyền thống phụ nữ, về đạo đức mới 
của người phụ nữ trong trường Đảng và các trường học ở Vĩnh Phúc. 
7. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận 
văn được trình bày trong hai chương, bốn tiết. 
Chương 1 
Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với việc 
xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ hiện nay 
1.1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc và giá trị đạo đức truyền thống 
phụ nữ 
1.1.1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc 
Giá trị là khái niệm trung tâm của giá trị học với tính cách là một khoa học và 
được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học xã hội và khoa học nhân văn như 
triết học, tâm lý học, đạo đức học, xã hội học, kinh tế học... với những nội dung rộng 
hẹp, cụ thể khác nhau. 
Giá trị là ý nghĩa của những hiện tượng vật chất hay tinh thần có khả năng 
thỏa mãn nhu cầu tích cực của con người, là những thành tựu góp phần vào sự phát 
triển xã hội, phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của con người. 
Giá trị có vai trò quan trọng trong cuộc sống con người. Nó là cơ sở để con 
người căn cứ vào đó mà xác định mục đích, phương hướng sống cho hoạt động của 
mình. Vì vậy, "nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, 
nghĩa là đã bao hàm cả quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái 
đẹp, là nói đến cái có khả năng thôi thúc con người hành động và nỗ lực vươn tới" [7, 
tr. 16]. Như vậy, có những giá trị chung toàn nhân loại, cũng có giá trị lâu bền được kế 
thừa qua nhiều thời đại và được nâng cao lên, nhưng cũng có những giá trị có phạm vi 
ảnh hưởng và thời gian tồn tại ít hơn. Có những giá trị sẽ mất đi hoặc mờ nhạt dần khi 
hoàn cảnh lịch sử thay đổi và có những giá trị mới được hình thành. Những giá trị 
chung, phổ biến được coi như phương tiện cơ bản tạo nên sự liên kết các thành viên 
trong cộng đồng. 
Trong việc nghiên cứu giá trị, ở cấp độ chung nhất giá trị được chia thành giá 
trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần được chia thành các loại giá trị cơ bản 
như: giá trị khoa học, giá trị đạo đức, giá trị chính trị, giá trị thẩm mỹ... Giá trị đạo đức 
được hình thành từ trong lịch sử và trường tồn đến hiện đại, tạo thành giá trị truyền 
thống và giá trị hiện đại. Mỗi dân tộc đều có truyền thống của mình do lịch sử để lại. 
Truyền thống dân tộc là những đức tính, những lề thói, phong tục đã trở nên ổn định 
được đông đảo thừa nhận và đã ăn sâu vào tâm lý, tập quán xã hội, được nối dài theo 
nhiều thế hệ, qua nhiều đời của dân tộc. Từng dân tộc khác nhau có truyền thống khác 
nhau, "giá trị truyền thống dân tộc được cô đúc nên trong suốt quá trình hình thành, 
tồn tại và phát triển của dân tộc... cho nên có thể nói, giá trị truyền thống là cái thể 
hiện bản chất nhất, đặc trưng nhất cốt lõi văn hóa 
dân tộc" [39, tr. 9]. 
Dân tộc Việt Nam với các điều kiện địa lý, môi trường, lịch sử và xã hội đã 
hình thành nên những nét giá trị truyền thống riêng. 
Giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của dân 
tộc Việt Nam, nó là một dòng chảy liên tục nảy sinh, phát triển trong suốt tiến trình 
dựng nước, giữ nước của cha ông ta, và được tích lũy, lưu truyền, chắt lọc, chuyển 
giao, tiếp nối từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ đời này qua đời khác. Giá trị đạo đức 
truyền thống là cái tồn tại mãi mãi với dân tộc "sau tất cả những gì đã mất đi trong quá 
trình vận động" [46, tr. 103]. 
Từ trước tới nay, việc nghiên cứu để xác định các giá trị đạo đức truyền thống 
dân tộc đã được nhiều người, nhiều nhà khoa học quan tâm. 
GS Trần Văn Giàu cho rằng, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt 
Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa 
[25, tr. 94]. 
GS Vũ Khiêu đưa ra quan điểm, trong những truyền thống quý báu của dân 
tộc, nổi bật nhất là truyền thống đạo đức và khẳng định, truyền thống đạo đức của dân 
tộc ta bao gồm: lòng yêu nước; truyền thống đoàn kết; lao động cần cù và sáng tạo; 
tinh thần nhân đạo lòng yêu thương và quý trọng con người, trong đó yêu nước là bậc 
thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc [42, tr. 74-86]. 
Kết quả nghiên cứu của Chương trình Khoa học công nghệ cấp Nhà nước: 
"Con người Việt Nam - và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội" (KX-07) cũng 
khẳng định: cốt lõi của các giá trị truyền thống là đạo đức, phẩm chất, nhân cách con 
người Việt Nam bao gồm: tinh thần yêu nước, vì nghĩa, lòng thương người [8, tr. 32-
34]. 
Những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cũng được đề cập đến trong một số 
Văn kiện của Đảng và các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nghị quyết 09 của Bộ 
Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay khẳng định: 
"Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước 
nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc. Đạo lý "thương người như thể thương thân", đức 
tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động" [14, tr. 19]. Nghị quyết Hội nghị lần 
thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn 
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, có viết: 
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa 
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng 
ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, 
ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá 
nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái; khoan dung, trọng nghĩa 
tình đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng 
xử; tính giản dị trong lối sống... [16, tr. 56]. 
Từ cách tiếp cận về giá trị, giá trị đạo đức truyền thống và từ quan điểm của 
Đảng ta cũng như của các nhà khoa học, có thể khẳng định các giá trị đạo đức truyền 
thống cơ bản của dân tộc ta bao gồm: 
 - Chủ nghĩa yêu nước. 
 - Lòng thương người. 
 - Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng sâu sắc. 
 - Cần cù, tiết kiệm. 
Trong hệ thống các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, chủ nghĩa yêu nước là 
"động lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất 
trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc ta" [42, tr. 74]. Chủ nghĩa yêu nước là tình 
yêu đối với đất nước, lòng trung thành với Tổ quốc biểu hiện ở khát vọng và hành 
động tích cực để phục vụ và đem lại lợi ích cho Tổ quốc và nhân dân. Nó trở thành 
một giá trị, một động lực tinh thần vô cùng mạnh mẽ thúc đẩy biết bao thế hệ kiên 
cường, anh dũng hy sinh để giành lại và giữ gìn nền độc lập Tổ quốc, bảo vệ những 
phẩm giá của chính con người. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không chỉ là một giá trị 
mà nó còn là cội nguồn, là cơ sở của các giá trị khác, nhất là các giá trị văn hóa. 
Yêu nước là giá trị hàng đầu của mỗi con người Việt Nam, nó là thước đo giá 
trị nhân phẩm của con người, chi phối mỗi người trong suy nghĩ và hành động. Chủ 
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: 
Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý 
báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại 
sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua 
mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước 
[60, tr. 171]. 
Lịch sử Việt Nam là lịch sử dựng nước và giữ nước. Vì vậy, yêu nước đối với 
nhân dân ta trước hết là chăm lo xây dựng đất nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn 
hóa để tạo sức mạnh bên trong bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc. 
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được thể hiện cụ thể ở lòng dũng cảm và ý chí 
bất khuất, đó là chủ nghĩa anh hùng. Là những người hết mực yêu hòa bình, yêu tự do, 
nên khi bờ cõi bị xâm chiếm, nhân dân bị nô lệ, người Việt Nam "thà hy sinh tất cả 
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" [59, tr. 480]. Chủ 
nghĩa yêu nước là "sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện 
đại" [25, tr. 100], nó trở thành đạo lý và lẽ sống của mỗi người được sinh ra và lớn lên 
trên đất nước Việt Nam. 
Truyền thống yêu nước của người Việt Nam luôn gắn bó chặt chẽ với lòng 
thương yêu và quý trọng con người, nhất là người lao động. 
Lòng thương người của dân tộc ta thấm đượm trong các mối quan hệ giữa các 
thành viên trong gia đình, trong làng xóm và trong cả cộng đồng dân tộc. Người Việt 
coi trọng tình nghĩa hơn lễ nghĩa. Tình ở đây là tình cảm sâu sắc "máu chảy ruột 
mềm", thương nhau giữa những người trong một nước. Nghĩa ở đây là trách nhiệm của 
mỗi người trước sự sống còn của đất nước, tình nghĩa ở đây cũng là thái độ thủy chung 
trong tình yêu, tình bạn. Vì vậy, mà trong lịch sử dân tộc, những tấm gương vì nghĩa 
được ngợi ca, còn những hiện tượng "vô nhân đạo", "phụ tình bạc nghĩa" thường bị dư 
luận xã hội lên án phản đối. Cũng với tình nghĩa ấy, dân tộc ta còn có thái độ nhân đạo 
khoan dung đối với cả quân thù, khi chúng đã hạ súng, bại trận thì "cấp ngựa cấp 
thuyền" cho lui về nước. Tinh thần nhân ái trong truyền thống của dân tộc ta cũng 
không hoàn toàn giống với nội dung "nhân", "nghĩa" của Nho giáo, chữ "nhân", "nghĩa" 
đó thông qua lăng kính nhân sinh quan của người Việt đã mang một nội dung mới, nó 
không còn giữ nguyên nghĩa như quan niệm của Khổng giáo; nó cũng khác với quan 
niệm "từ ", "bi" của Phật giáo hướng con người đi tu hành để mong giải thoát khỏi "bể 
khổ" nơi trần thế. 
Lòng thương người là một trong những truyền thống rất đáng tự hào của dân 
tộc ta, truyền thống này đã được Đảng ta khẳng định: 
Người Việt Nam vẫn có lòng yêu nước thiết tha, có tinh thần dân 
chủ bình đẳng trong quan hệ giữa người với người. "Thương nước thương 
nhà, thương người, thương mình" là truyền thống đậm đà của nhân dân ta. 
Nhờ có tinh thần yêu nước và dân chủ ấy mà suốt quá trình lịch sử 4000 
năm, dân tộc ta đã làm nên những chiến công oanh liệt. Từ ngày có Đảng 
dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu nước và 
dân chủ của nhân dân ta được nâng lên một trình độ mới và phát huy mạnh 
mẽ hơn bao giờ hết [16, tr. 94]. 
Tinh thần nhân ái của dân tộc được kết tinh trong con người Chủ tịch Hồ Chí 
Minh, ở Người đạo đức truyền thống và đạo đức cách mạng được kết hợp một cách hài 
hòa. 
Tính thần đoàn kết, ý thức cộng đồng là một giá trị được tạo nên từ trong sâu 
thẳm văn hóa dân tộc. Truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân đẻ ra "bọc trăm trứng" 
nói rất rõ tinh thần cùng chung Tổ quốc và tình đồng bào. Trong lịch sử dựng xây đất 
nước, người Việt đã phải chung lưng đấu cật, tương trợ hợp tác, giúp đỡ nhau tạo ra 
sức mạnh vật chất phi thường chiến thắng thiên tai. Chính từ thực tế các cuộc đấu 
tranh với thiên tai và chống giặc ngoại xâm, cha ông ta đã nhận thấy rằng "đoàn kết thì 
sống, chia rẽ thì chết", và "một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi 
cao". Cho nên, có thể nói, tinh thần đoàn kết là nguồn sức mạnh lớn lao giúp nhân dân 
ta vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên và đánh thắng mọi thế lực 
xâm lược. 
Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng bắt nguồn từ