Trong chiến lược phát triển của  đất nước, vấn  đề nông nghiệp  -  nông thôn  -  nông 
dân có vị trí  đặc biệt. Các  Đại hội  đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX của  Đảng 
đều xác định quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước phụ 
thuộc rất lớn vào quá trình CNH, HĐH nông nghiệp  -  nông thôn. Giải quyết tốt vấn  đề 
nông nghiệp  -  nông thôn và nông dân đã,  đang và sẽ là bài toán then chốt tạo tiền  đề cơ 
bản cho chúng ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH. Với khoảng 80% dân số sinh 
sống trên  địa bàn  nông thôn, các chiến lược phát triển kinh tế -  xã hội quốc gia hay  từng khu 
vực  đều phải  đặt nông nghiệp  -  nông thôn như một khu vực kinh tế  -  xã hội trọng  điểm và 
giàu tiềm năng, có tính quyết  định  đối với sự phát triển. Trong bối cảnh  này, nếu giải quyết 
tốt các vấn  đề văn hóa  ở nông thôn chúng ta sẽ có những tiền  đề và điều kiện cơ bản  để 
giải quyết các vấn  đề về phát triển kinh tế  -  xã hội và văn hóa khu vực, bởi phát triển văn 
hóa vừa là mục tiêu vừa là  động lực của sự phát triển kinh tế  -  xã hội ở từng  địa phương, 
khu vực và cả nước.
Văn hóa phải  được gắn kết với quá trình phát triển kinh tế  -  xã hội với quá trình 
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Hoạt động văn hóa ở nông thôn phải có mục tiêu, nội 
dung, các biện pháp và bước đi thích hợp để thực sự đóng vai trò là động lực và mục tiêu của 
sự phát triển nông nghiệp - nông thôn. Đây là những vấn đề có tính chiến lược mà nếu giải 
quyết tốt sẽ là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho sự phát triển văn hóa, phát 
triển kinh tế - xã hội ở nước ta nói chung và Quảng Nam nói riêng trong giai đoạn sắp tới.
Cuộc vận  động xây dựng làng văn hóa của Đảng và Nhà nước ta đã và đang được 
phát động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với phát triển văn hóa, phát triển kinh tế -  xã 
hội ở nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nông thôn là một khu vực bao gồm hai thực thể xã hội cơ bản: làng - xã và các thị 
tứ, thị trấn; trong  đó làng xã là thực thể xã hội cơ bản, tiêu biểu cho xã hội nông thôn, là 
một khu vực tụ cư của cư dân nông thôn. Trong biến thiên lịch sử, làng  -  xã và văn hóa 
làng  -  xã có một vị trí  đặc biệt. Do  đó, nói đến nông thôn trước hết là phải nói  đến làng  -xã, từ làng  -  xã ta có thể có một bức tranh khá toàn diện về xã hội nông thôn trong quá 
trình phát triển.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 137 trang
137 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2271 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Văn hóa làng và xây dựng làng văn hóa ở tỉnh Quảng Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Văn hóa làng và xây dựng làng văn 
hóa ở tỉnh Quảng Nam hiện nay 
mở đầu 
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 
Trong chiến lược phát triển của đất nước, vấn đề nông nghiệp - nông thôn - nông 
dân có vị trí đặc biệt. Các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX của Đảng 
đều xác định quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước phụ 
thuộc rất lớn vào quá trình CNH, HĐH nông nghiệp - nông thôn. Giải quyết tốt vấn đề 
nông nghiệp - nông thôn và nông dân đã, đang và sẽ là bài toán then chốt tạo tiền đề cơ 
bản cho chúng ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH. Với khoảng 80% dân số sinh 
sống trên địa bàn nông thôn, các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia hay từng khu 
vực đều phải đặt nông nghiệp - nông thôn như một khu vực kinh tế - xã hội trọng điểm và 
giàu tiềm năng, có tính quyết định đối với sự phát triển. Trong bối cảnh này, nếu giải quyết 
tốt các vấn đề văn hóa ở nông thôn chúng ta sẽ có những tiền đề và điều kiện cơ bản để 
giải quyết các vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa khu vực, bởi phát triển văn 
hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương, 
khu vực và cả nước. 
Văn hóa phải được gắn kết với quá trình phát triển kinh tế - xã hội với quá trình 
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Hoạt động văn hóa ở nông thôn phải có mục tiêu, nội 
dung, các biện pháp và bước đi thích hợp để thực sự đóng vai trò là động lực và mục tiêu của 
sự phát triển nông nghiệp - nông thôn. Đây là những vấn đề có tính chiến lược mà nếu giải 
quyết tốt sẽ là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho sự phát triển văn hóa, phát 
triển kinh tế - xã hội ở nước ta nói chung và Quảng Nam nói riêng trong giai đoạn sắp tới. 
Cuộc vận động xây dựng làng văn hóa của Đảng và Nhà nước ta đã và đang được 
phát động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với phát triển văn hóa, phát triển kinh tế - xã 
hội ở nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay. 
Nông thôn là một khu vực bao gồm hai thực thể xã hội cơ bản: làng - xã và các thị 
tứ, thị trấn; trong đó làng xã là thực thể xã hội cơ bản, tiêu biểu cho xã hội nông thôn, là 
một khu vực tụ cư của cư dân nông thôn. Trong biến thiên lịch sử, làng - xã và văn hóa 
làng - xã có một vị trí đặc biệt. Do đó, nói đến nông thôn trước hết là phải nói đến làng - 
xã, từ làng - xã ta có thể có một bức tranh khá toàn diện về xã hội nông thôn trong quá 
trình phát triển. 
Làng - xã có thể hình dung như một quốc gia thu nhỏ, có đời sống vật chất và tinh 
thần bền vững. Vì vậy, trong bối cảnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, phát huy những giá 
trị văn hóa làng, kết hợp với những yếu tố hiện đại của cuộc vận động xây dựng làng văn 
hóa thực chất là quá trình "tiếp biến văn hóa", là quy luật vận động tất yếu của văn hóa 
đương đại trong việc kế thừa và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc. 
Xây dựng làng văn hóa là sự kế thừa và phát triển làng - xã Việt Nam trong điều 
kiện mới phù hợp với sự tiến bộ văn hóa xã hội. Làng là cái nôi văn hóa được ví như tấm 
gương phản chiếu sinh động nhất truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc: chủ nghĩa yêu 
nước, tinh thần đoàn kết cộng đồng, thuần phong mỹ tục, mối quan hệ xóm giềng, mối 
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình...tất cả kết thành tinh hoa văn hóa và bản lĩnh 
văn hóa Việt Nam không bị đồng hóa bởi các thế lực xâm lược đô hộ. Tinh hoa ấy cần 
được phát huy mạnh mẽ biến thành động lực tinh thần cho công cuộc xây dựng làng văn 
hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở nông thôn, làm nền tảng cho việc giữ gìn 
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. 
Làng văn hóa chính là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng và phát triển các giá trị đạo 
đức, tình cảm, lối sống của cộng đồng...Và đây cũng chính là mảnh đất có khả năng tiềm 
tàng trong việc ngăn chặn và đẩy lùi những hiện tượng văn hóa tiêu cực đã và đang tác 
động dữ dội đến mọi mặt của đời sống xã hội và gây ra những thay đổi đáng kể trong thang 
giá trị xã hội ở thời điểm hiện nay. 
Mặt trái của kinh tế thị trường đang có nguy cơ phá vỡ những giá trị văn hóa 
truyền thống. Bản sắc văn hóa dân tộc có những lúc, những nơi bị xâm hại bởi các sức mạnh 
ghê gớm của nó như: chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng...Kinh tế thị trường phát triển, lũy 
tre làng không còn là vành đai cát cứ. Nhưng tính cục bộ, địa phương chủ nghĩa, "phép vua 
thua lệ làng", tệ cường hào ở nông thôn lại trỗi dậy. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự xáo 
trộn các mối quan hệ trong làng và giữa các làng, làm nảy sinh hàng loạt vấn đề về ý thức đoàn 
kết cộng đồng, diện mạo văn hóa, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội... 
Cơ chế thị trường đang len lỏi vào những miền quê xa xôi nhất và có nguy cơ phá 
vỡ nét thanh bình của làng - xã xa xưa. "Cây đa, bến nước, sân đình"- hình ảnh tiêu biểu của 
làng quê đang có dấu hiệu bị biến dạng. Các tệ nạn xã hội đang có cơ hội và điều kiện 
chuyển dịch về nông thôn. Ma chay, cưới xin vẫn có xu hướng quay lại với tập tục rườm rà, 
tốn kém, xen lẫn cả mê tín dị đoan... 
Chính vì vậy, việc xây dựng làng văn hóa là nhằm bảo vệ và phát huy các giá trị 
của văn hóa làng, phát huy tính tích cực của nó. Văn hóa làng vừa là kết quả hoạt động của 
những con người ở làng, đồng thời là môi trường, động lực làm cho từng thành viên trong 
cộng đồng làng giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống và tiếp tục tạo ra những giá trị văn 
hóa tiên tiến. Và, chỉ khi đó làng văn hóa mới thực sự khẳng định vai trò góp phần điều 
chỉnh các quan hệ xã hội trong cơ chế thị trường, làm động lực phát triển nông thôn ở nước ta 
hiện nay. 
Quảng Nam cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước đã và đang thực hiện 
chủ trương xây dựng làng văn hóa. Cuộc vận động xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam 
tuy mới được chú trọng từ khi tái lập tỉnh (1997), song đã đóng góp một phần tích cực vào 
nhiệm vụ chính trị của địa phương, được đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình hưởng 
ứng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ những vướng mắc về lý luận và thực 
tiễn, chưa tạo ra được những mô hình đảm bảo chắc chắn và phù hợp với từng miền, vùng 
dân cư, diện của phong trào còn hạn chế... Xác định tầm quan trọng và tính bức thiết hiện 
nay của cuộc vận động xây dựng làng văn hóa, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu "Văn hóa 
làng và xây dựng làng văn hóa ở tỉnh Quảng Nam hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp, 
nhằm nhận diện và phân tích rõ hơn đặc trưng văn hóa làng, đặc sắc văn hóa làng Quảng 
Nam và công cuộc xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam hiện nay 
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 
Lý luận và thực tiễn xây dựng làng văn hóa không hoàn toàn mới xét ở bình diện 
cả nước. Nhiều công trình đã được công bố với các cách tiếp cận khác nhau về văn hóa làng 
và xây dựng làng văn hóa như: "Văn hóa làng và làng văn hóa" của GS.TS Nguyễn Duy 
Quý, PGS.TS Thành Duy và PGS Vũ Ngọc Khánh; "Văn hóa làng và sự phát triển" của 
GS.TS Nguyễn Duy Quý; "Làng xã Việt Nam - một số vấn đề kinh tế - xã hội" của GS. 
Phan Đại Doãn; "Sự biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay" của Tô Duy Hợp; "Cộng 
đồng làng xã Việt Nam hiện nay" của tập thể tác giả Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí 
Minh; "Mô hình làng văn hóa ở nông thôn hiện nay" của Thu Linh; "Sự biến đổi của làng 
xã Việt Nam ngày nay ở đồng bằng sông Hồng" của Tô Duy Hợp; "Tín ngưỡng làng xã" 
của PGS Vũ Ngọc Khánh; "Nếp cũ - Làng xóm Việt Nam" của Toan ánh; "Hương ước hồn 
quê" của Toan ánh; "Bản sắc văn hóa làng trong xây dựng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ" 
của TS. Lê Quý Đức... 
ở những công trình trên, các tác giả đã bàn về văn hóa tinh thần và văn hóa vật 
chất ở làng xã. Nhiều tác giả đã đề cập đến hội làng, nếp sống, phong tục, tôn giáo, sân 
khấu dân gian, văn hóa nghệ thuật dân gian... Một số chuyên luận không những có ý kiến 
nhận xét về di sản của làng xã, về các mặt kinh tế - xã hội, văn hóa; mà còn nêu lên những 
điểm tích cực và cả những tiêu cực của làng xã trong quá trình dựng nước và giữ nước. 
Tuy nhiên, đối với tỉnh Quảng Nam đây là vấn đề tương đối mới vì cuộc vận động 
xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam mới được phát động vào ngày 12/7/1997 với Chỉ thị 
04/CT-TU của Ban thường vụ Tỉnh ủy. Do vậy, đến nay chưa có công trình nghiên cứu 
nào mang tính hệ thống dưới dạng một luận văn khoa học giải quyết một cách thỏa đáng 
các vấn đề giữa lý luận và thực tiễn xây dựng làng văn hóa ở tỉnh Quảng Nam. 
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 
Mục đích nghiên cứu: Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về văn hóa 
và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, xây dựng làng văn hóa trong xu thế phát triển toàn 
diện ở nước ta nói chung và ở Quảng Nam nói riêng; đề xuất những phương hướng và giải 
pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam trong bối 
cảnh CNH, HĐH đất nước. 
Nhiệm vụ của luận văn: 
- Xác định rõ khái niệm văn hóa làng và làng văn hóa làm cơ sở lý luận chung cho 
toàn bộ luận văn. 
- Khảo sát các làng văn hóa ở Quảng Nam, tiến hành phân loại và rút ra những đặc 
trưng của văn hóa làng và làng văn hóa Quảng Nam. 
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh cuộc vận 
động xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam hiện nay. 
4. Giới hạn nghiên cứu của luận văn 
Xây dựng làng văn hóa là một nội dung lớn trong sự nghiệp chung của Đảng và Nhà 
nước ta trong bối cảnh hiện nay, do đó có rất nhiều vấn đề mới cần đi sâu nghiên cứu. Tuy 
nhiên trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ văn hóa, chúng tôi chỉ tập trung làm rõ những 
vấn đề lý luận về văn hóa làng và làng văn hóa (chủ yếu tập trung nghiên cứu làng người 
Việt - đại diện tiêu biểu nhất của làng Việt Nam); phân tích thực trạng xây dựng làng văn 
hóa ở Quảng Nam và đề xuất các phương hướng, giải pháp chủ yếu để tiếp tục đẩy mạnh 
việc xây dựng làng văn hóa và đời sống văn hóa cơ sở ở Quảng Nam trong thời kỳ đẩy 
mạnh CNH, HĐH. 
5. Đóng góp của luận văn 
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về văn hóa làng và làng văn hóa. 
- Phân tích cơ sở lý luận chung về xây dựng làng văn hóa trong thời 
kỳ CNH, HĐH. 
- Thuyết minh có căn cứ khoa học về sự tiếp nối biện chứng từ di sản văn hóa làng 
đến việc xây dựng làng văn hóa trong bối cảnh hiện nay. 
- Bổ sung một số quan niệm về làng văn hóa và công tác xây dựng làng văn hóa. 
- Tiến hành phân loại và rút ra những đặc trưng cơ bản của văn hóa làng và làng 
văn hóa ở Quảng Nam. 
- Đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp có tính khả thi, góp phần nâng 
cao chất lượng và hiệu quả cuộc vận động xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam nói riêng 
và ở nước ta nói chung. 
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác 
nghiên cứu và giảng dạy về lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt 
Nam, về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, về 
xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở... 
6. Phương pháp nghiên cứu 
Luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu là phương 
pháp điều tra, điền dã, phân tích khảo cứu, phương pháp diễn giải và quy nạp, phương 
pháp so sánh, đối chiếu... trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn khách quan. 
7. Kết cấu luận văn 
Ngoài phần mở đầu kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có nội dung 
gồm ba chương: 
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về văn hóa làng và làng văn hóa. 
Chương 2: Làng và văn hóa làng Quảng Nam. 
Chương 3: Thực trạng công tác xây dựng làng văn hóa và phương hướng, giải 
pháp đẩy mạnh công tác xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam hiện nay. 
Chương 1 
Một số vấn đề lý luận 
về văn hóa làng và làng văn hóa 
1.1. Quan niệm về văn hóa 
Thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX trong lịch sử nhân loại cũng là sự kết thúc của 
Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1988-1997) nhằm thực hiện Nghị quyết 41/87 ngày 
9/12/1986 của Liên hợp quốc. Điều đó chứng tỏ sự quan tâm của cả nhân loại ở thế kỷ cuối 
cùng của thiên niên kỷ thứ hai đối với văn hóa đã phát triển rất sâu và rộng. 
Bước vào thế kỷ XX, thuật ngữ văn hóa đã thâm nhập vào đời sống xã hội một cách 
sâu sắc, làm thay đổi nhận thức của con người trong các hướng tiếp cận mới phù hợp với xu 
thế phát triển của khoa học công nghệ. Văn hóa đã và đang trở thành đối tượng nghiên cứu 
của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn. Từ đó tạo ra những bước ngoặt quan trọng 
trong việc hình thành khung lý thuyết mới trên nhiều lĩnh vực có liên quan đến văn hóa - xã 
hội. 
Khái niệm văn hóa, theo nhà ngôn ngữ học người Đức W. Vun-đơ (W.Wundt) bắt 
nguồn từ một động từ tiếng La Tinh "Colere" và sau chuyển thành "Cultura" với nghĩa là 
cày cấy, vun trồng. Trong sự vận động của ngôn ngữ, "Cultura" chuyển nghĩa từ trồng trọt 
cây cối sang hàm nghĩa trồng trọt tinh thần, trí tuệ; gắn bó với con người dưới dạng thức 
mới, được biểu hiện trong mô thức phức tạp hơn song lại hàm chứa nội dung sâu sắc hơn 
so với nghĩa ban đầu của nó. 
Quan niệm về văn hóa được E.B. Tylor đề cập trong công trình "Văn hóa nguyên 
thủy" (1871) trở thành định nghĩa đầu tiên về đối tượng nghiên cứu của văn hóa. Theo ông, 
"văn hóa hay văn minh theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung bao gồm tri thức, tín 
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác 
được con người chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên của xã hội" [92, tr. 13], 
Trong thế kỷ XX, những nhà nghiên cứu về văn hóa trên thế giới đã tiếp tục đưa ra 
nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo kháo 
sát của PGS. Phan Ngọc, cho đến nay đã có trên 400 định nghĩa về văn hóa [62, tr. 19]. 
Điều này cho thấy "mảnh đất" văn hóa để cày xới, thâm nhập, tiếp cận rất rộng, đa dạng và 
phong phú. Trong bản tuyên bố chung tại Hội nghị quốc tế ở Mêhicô do UNESCO chủ trì 
họp từ 26/7 đến 6/8 năm 1982, người ta chấp nhận một quan niệm về văn hóa như sau: 
"Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật 
chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người 
trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền 
cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng" [95, tr. 5-
6]. 
Tổng giám đốc UNESCO F.May-ơ (Federico Mayor Zaagoza) cũng có quan niệm 
về văn hóa nêu ra trong một bài viết của ông như sau: "Văn hóa là tổng thể sống động của 
các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng 
tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu 
tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc" [11, tr. 23]. 
Văn hóa chính là quá trình sáng tạo tự thân của con người trong sự phát triển của 
lịch sử - "Đó không phải là các lực lượng bẩm sinh xuất hiện một cách tự nhiên, mà 
chúng biến đổi do tác động của các quan hệ xã hội, do trình độ phát triển văn hóa. Các 
lực lượng bản chất người ấy được khách thể hóa thông qua họat động cải tạo thế giới của 
con người. Chính họat động này là phương thức tồn tại và tái sản xuất ra đời sống xã hội" 
[97, tr. 40]. 
ở Việt Nam, từ quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa: "Vì lẽ sinh tồn 
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ 
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh 
hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng - Toàn bộ những sáng tạo và 
phát minh đó tức là văn hóa" [58, tr. 431], đến nội hàm khái niệm văn hóa mà Hội nghị lần 
thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII xác định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần 
của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy tự phát triển kinh tế - xã hội" [24, tr. 
10] là sự phát triển các quan niệm về văn hóa của Đảng ta nhằm xây dựng và phát triển 
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự trở thành là 
nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời 
là mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay. 
Như vậy, điểm thống nhất trong những quan niệm trên là đều xem lao động sáng 
tạo là cội nguồn của văn hóa. Và, chính văn hóa đã đem lại cho con người khả năng suy 
xét về bản thân, làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt mang tính nhân bản sâu 
sắc, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách có lý trí và tình cảm trong khát vọng 
vươn tới chân - thiện - mỹ. Và cũng chính nhờ văn hóa mà con người thể hiện được phẩm 
chất, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án "chưa hoàn thành", đặt ra để 
xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những "ý nghĩa mới mẻ và 
sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân mình" [95, tr. 5-6]. 
Dưới góc độ tiếp cận xem lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm của văn hóa 
hướng về các giá trị nhân bản nhằm hoàn thiện con người, 
nhà nghiên cứu Hoàng Vinh đã có quan niệm xác đáng rằng: "Văn hóa là toàn bộ sáng tạo 
của con người, tích lũy lại trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội, được đúc kết thành 
hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông qua vốn di sản văn hóa và hệ ứng xử văn 
hóa của cộng đồng người. Hệ giá trị xã hội là một thành tố cốt lõi làm nên bản sắc riêng 
của một cộng đồng xã hội, nó có khả năng chi phối đời sống tâm lý và một họat động của 
những con người sống trong cộng đồng xã hội ấy" [102, tr. 43]. 
Hoạt động sáng tạo văn hóa vật chất và tinh thần của con người là nhằm hình 
thành nên các giá trị văn hóa để từ đó cộng đồng người nói chung và mỗi con người nói 
riêng soi vào nó để chiêm nghiệm, đối chiếu và phấn đấu để đạt được những chuẩn mực 
giá trị cần thiết mà mỗi cá nhân, gia đình, xã hội đòi hỏi. Vì vậy, có thể hiểu: Văn hóa là 
quá trình vận động đặc biệt làm biến đổi liên tục và sâu sắc đến năng lực sáng tạo của cá 
nhân và cộng đồng nhằm ngày càng hoàn thiện nhân cách và xã hội, vươn tới sự thống 
nhất cao giữa mỗi cá nhân - gia đình - cộng đồng làng xã và toàn xã hội vì sự tồn tại và 
phát triển tiến bộ của con người và xã hội. 
1.2. Quan niệm về văn hóa làng 
Phác họa một bức tranh tổng quát về văn hóa làng chính là cơ sở và tiêu chí giúp 
chúng ta có đủ dữ liệu để khái quát thực trạng văn hóa - xã hội ở nước ta hiện nay. 
1.2.1. Làng người Việt 
Trong đời sống xã hội Việt Nam cổ truyền, "làng xã có vị trí hết sức đặc biệt: làng 
là đơn vị cơ bản hình thành quốc gia dân tộc. Nước (quốc gia) chỉ là tổng số, là kết quả 
của sự liên kết các làng, xã, là "liên làng", "siêu làng". Làng có vai trò gắn kết cá nhân - 
gia đình - làng xã - Tổ quốc. Làng là nhân tố giữ vai trò quyết định trong quá trình dựng 
nước và giữ nước của dân tộc "còn làng thì còn nước"" [31, tr. 7]. 
Theo "Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam", làng là tiếng cổ của Việt Nam dùng 
để chỉ đơn vị tụ cư của người Việt có từ lâu đời. Xã là từ Hán - Việt dùng để chỉ đơn vị hành 
chính thấp nhất ở nông thôn Việt Nam [61, tr. 368-706]. Xã của người Việt có thể bao gồm từ 
một đến vài làng. Trong trường hợp xã là một làng thì phần lớn tên xã trùng với tên làng. 
Trong trường hợp xã bao gồm nhiều làng thì trong ngôn ngữ hành chính làng được gọi là 
thôn. Trong ngôn ngữ dân gian và trong cuộc sống đời thường từ làng được sử dụng phổ 
biến hơn cả với nhiều hàm nghĩa tình cảm, phi hành chính "làng ta", "làng mình", "người 
làng", "sống ở làng, sang ở nước", "một miếng giữa làng"... Vì làng có nguồn gốc bản địa 
sâu xa và bền vững nên trong lịch sử, xã có thể bị thu hẹp hay phình to ra tùy theo các 
quyết định hành chính, nhưng làng là đơn vị khá ổn định không dễ thay đổi. Bởi vì, theo 
nhà nghiên cứu Hà Văn Tấn: 
"Làng là một đơn vị cộng cư có một vùng đất chung của cư dân nông nghiệp, một 
hình thức tổ chức xã hội nông nghiệp tiểu nông tự cấp tự túc, mặt khác là mẫu hình xã hội 
phù hợp, là cơ chế thích ứng với sản xuất tiểu nông, với gia đình - tông tộc gia trưởng, 
đảm bảo sự cân bằng và bền vững của xã hội nông nghiệp ấy