Nói đến CNTB người ta không thể không nhắc đến những đóng góp to lớn 
cho sự phát triển của xã hội loài người. Hai cuộc CM KHKT lần I và II chính là 
những bước đệm vĩ đại để loài người đi vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của công 
nghệ thông tin. Về kinh tế con người cũng tạo ra một tốc độ như vũ bão với xu 
hướng toàn cầu hoá đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Nhưng bên cạnh đó ta không 
thể không nhìn nhận những mặt hạn chế của CNTB mà trong đó khủng hoảng kinh 
tế tồn tại như một căn bệnh nan y mà không có loại thuốc nào có thể chữa được. 
Đây cũng chính là vấn đề nan giải với mọi quốc gia, mọi khu vực trên thế giới.
Là một sinh viên theo chuyên ngành kinh tế của trường ĐH QL & KD Hà 
Nội em cũng muốn góp chút sức lực nhỏ bé của mình trong việc nghiên cứu đề tài 
này. Song với tầm hiểu biết còn nhiều hạn chế của mình em không đủ khả năng mở 
rộng phạm vi của bài viết mà chỉ tập trung làm sáng tỏ " Khủng hoảng kinh tế chu 
kỳ là một điều tất yếu, nhưng nếu khắc phục được thì nền kinh tế lại có những 
bước nhảy thần kỳ".
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 12 trang
12 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1969 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Việt Nam thách thức trên con đường hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Khủng hoảng kinh tế chu kỳ là một điều tất 
yếu, nhưng nếu khắc phục được thì nền kinh 
tế lại có những bước nhảy thần kỳ 
Lời nói đầu 
Nói đến CNTB người ta không thể không nhắc đến những đóng góp to lớn 
cho sự phát triển của xã hội loài người. Hai cuộc CM KHKT lần I và II chính là 
những bước đệm vĩ đại để loài người đi vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của công 
nghệ thông tin. Về kinh tế con người cũng tạo ra một tốc độ như vũ bão với xu 
hướng toàn cầu hoá đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Nhưng bên cạnh đó ta không 
thể không nhìn nhận những mặt hạn chế của CNTB mà trong đó khủng hoảng kinh 
tế tồn tại như một căn bệnh nan y mà không có loại thuốc nào có thể chữa được. 
Đây cũng chính là vấn đề nan giải với mọi quốc gia, mọi khu vực trên thế giới. 
Là một sinh viên theo chuyên ngành kinh tế của trường ĐH QL & KD Hà 
Nội em cũng muốn góp chút sức lực nhỏ bé của mình trong việc nghiên cứu đề tài 
này. Song với tầm hiểu biết còn nhiều hạn chế của mình em không đủ khả năng mở 
rộng phạm vi của bài viết mà chỉ tập trung làm sáng tỏ " Khủng hoảng kinh tế chu 
kỳ là một điều tất yếu, nhưng nếu khắc phục được thì nền kinh tế lại có những 
bước nhảy thần kỳ". 
I. Khủng hoảng kinh tế ở CNTB 
1. Khái niệm chung về khủng hoảng kinh tế: 
Trước khi nghiên cứu về khủng hoảng kinh tế có chu kỳ ta cần tìm hiểu thế 
nào là khủng hoảng kinh tế: " Khủng hoảng kinh tế là khái niệm dùng để chỉ những 
hiện tượng mất cân đối, ổn định của quá trình tái sản xuất trong nền kinh tế kéo dài 
mà không điều chỉnh được, gây ra những chấn động và hiệu quả về kinh tế - xã hội 
trong phạm vi rộng hoặc hẹp. 
2. Khủng hoảng kinh tế chu kỳ là hiện tượng riêng của CNTB (tiêu biểu là 
khủng hoảng thừa. 
 Trong CNTB khủng hoảng kinh tế có chu kỳ là một hiện tượng riêng. Vậy 
tại sao nó lại là một hiện tượng riêng của CNTB? Trước hết ta cần phải hiểu khủng 
hoảng kinh tế chu kỳ là gì? " Khủng hoảng kinh tế có chu kỳ là khái niệm chỉ sự 
khủng hoảng kinh tế có sự lặp đi, lặp lại qua 4 giai đoạn từ 8 đến 12 năm một lần". 
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao chỉ trong CNTB khủng hoảng lại diễn ra 
mang tính chu kỳ, và dường như nó là một vấn đề làm đau đầu cả thế giới tư bản mà 
không có cách gì khắc phục nổi. Phải chăng nguyên nhân của vấn đề này tồn tại 
ngay trong lòng của CNTB mà cụ thể là liên quan đến quá trình tái sản xuất. Hay ta 
có thể nói rõ hơn đó chính là sự mất cân đối và ổn định trong quá trình tái sản xuất 
trong nền kinh tế dài. Nhưng điều chúng ta có thể nhận thấy rõ nhất chính là chu kỳ 
của khủng hoảng từ 8 - 12 năm cũng tương đương với từng ấy thời gian các nhà Tư 
bản đổi mới Tư bản cố định (trong điều kiện Tư bản cố định bị hao mòn một cách 
vô hình chứ không phải hao mòn hữu hình). Vậy vấn đề chính nằm ở đâu? Câu trả 
lời đã trở lên dễ dàng hơn. Các nhà Tư bản dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản 
xuất luôn mong muốn tăng cường bóc lột giá trị thặng dư, điều này đã thúc đẩy họ 
đẩy nhanh quá trình phục hồi tư bản cố định, song việc làm này trong quá trình mở 
rộng sản xuất lại thường phát triển mất cân đối. Do tính tất yếu đến một thời điểm 
nào đó khủng hoảng sẽ xảy ra. Ngoài ra cũng cần phải nhìn nhận một lý do nữa đó 
chính là "sự mất cân đối ngẫu nhiên trong quá trình sản xuất" dẫn đến "sản xuất 
không theo kịp tiêu dùng" hay sức mua của người dân không đủ khả năng. Đó chính 
là khủng hoảng thừa, một ví dụ điểm hình, rõ nét cho khủng hoảng kinh tế có chu 
kỳ. 
Quay lại cuộc khủng hoảng vào những năm 1929 - 1933 ta thấy rõ hơn về 
các cuộc khủng hoảng thừa. Người ta đã phá huỷ 92 lò nấu sắt ở Mỹ, 72 lò ở Anh, 
28 lò ở Đức, 10 lò ở Pháp. Hay trong nông nghiệp họ đã phá đi 40 vạn mẫu cây 
bông, mua và giết 5 triệu 46 vạn con lợn, ở Brazil phá huỷ gần 22 triệu bao cà phê, 
còn ở Đan Mạch tiêu huỷ đi 117.000 con gia súc (Trích kinh tế chính trị Mác - 
Lênin, NXB thống kê). Vậy hành động phá huỷ đó là do sản xuất ra quá thừa chăng? 
Không! sự thật là những hàng hoá này sản xuất ra quá nhiều trong khi người dân 
không đủ khả năng tiêu thụ. Hành động phê phán nhân đạo đó lại được CNTB xem 
như một điều đúng đắn để bảo vệ lợi ích của mình. 
3. Các chu kỳ của khủng hoảng: 
Chu kỳ của khủng hoảng thường diễn ra qua 4 giai đoạn. Khủng hoảng (suy 
thoái), tiêu điều, phục hồi, hương thịnh (trong đó giai đoạn khủng hoảng là quan 
trọng nhất bởi nó tạo ra tính chu kỳ) cụ thể là: 
Trong giai đoạn khủng hoảng sản xuất thu hẹp và đình trệ, nhiều Xí nghiệp 
lần lượt phá sản. Tư bản mất khả năng thanh toán các khoản nợ tâm lý hoảng loạn 
diễn ra. Tín dụng thương mại và ngân hàng bị thu hẹp, trong khi nhu cầu tín dụng 
tăng lên làm tỷ suất lợi tức tăng lên tương đối cao. Khủng hoảng công nghiệp, 
thương nghiệp dẫn đến khủng hoảng cả hệ thống tiền tệ, tín dụng, khủng hoảng đã 
phá huỷ nghiêm trọng lực lượng sản xuất xã hội, người lao động thất nghiệp đông 
đảo, đời sống hết sức khó khăn, mâu thuẫn của CNTB biểu hiện dưới hình thức gay 
gắt nhất. 
Tiêu điều là giai đoạn tiếp sau khủng hoảng. Sản xuất ở trạng thái đình trệ, 
không còn tiếp tục đi xuống nhưng cũng không tăng. Cân bằng được lập lại ở trạng 
thái thấp, công nghiệp và thương nghiệp hoạt động yếu. Giá cả hàng hoá ở mức 
thấp. Tiền nhàn rỗi nhiều. Để thoát khỏi trì trệ, các nhà Tư bản tăng cường bóc lột 
người lao động để giảm chi phí sản xuất và đổi mới tư bản cố định. Điều này tạo sự 
phục hồi chủng của nền kinh tế. 
Phục hồi là giai đoạn tiếp nối tiêu điều, nền sản xuất TBCN trở lại trạng thái 
trước khủng hoảng. Công nhân lại được thu hút vào làm việc, giá cả hàng hoá tăng 
lên, lợi nhuận của các nhà Tư bản cũng tăng lên. 
Hương thịnh là giai đoạn phát triển cao nhất của chu kỳ trước. Nhu cầu và 
khả năng tiêu thụ hàng hoá tăng lên, tiền lương cũng tăng lên, nhu cầu tín dụng 
cũng tăng lên. Guồng máy kinh tế dường như hoạt động hết công suất. Nhìn nhận 
nền kinh tế lúc này so với giai đoạn trước khủng hoảng rõ ràng đã có những bước 
phát triển thần kỳ (Mặc dù trong nền kinh tế hiện đại xu hướng này có chiều hướng 
chậm hơn). Đồng thời với những bước phát triển thần kỳ này, điều kiện của một 
cuộc khủng hoảng mới cũng dần dần chín muồi. 
Giai đoạn của một chu kỳ khủng hoảng cứ lập đi lập lại ở khoảng thời gian 
nhất định nào đó. Theo như Mác nói thì: khủng hoảng không chỉ biểu hiện của mâu 
thuẫn cơ bản " mâu thuẫn giữa sản xuất có tính chất xã hội và chiếm hữu có tính 
TBCN" của CNTB mà còn đóng vai trò giải quyết mâu thuẫn này. Tuy nhiên việc 
giải quyết các vấn đề của khủng hoảng chỉ mang tính tạm thời và các chu kỳ của 
khủng hoảng đó cứ tiếp tục diễn ra (1847 - 1848, 1857; 1865 - 1867; 1882 - 1883; 
1890 - 1893....) (Trích khủng hoảng CNTB hiện đại). 
Sơ đồ sau đây sẽ giúp chúng ta bao quát được phần nào các chu kỳ của một 
cuộc khủng hoảng. 
4. Nguyên nhân: 
 Tại sao khủng hoảng kinh tế có chu kỳ của CNTB lại là tất yếu. Câu hỏi này 
luôn được đặt ra khi ta nghiên cứu về khủng hoảng kinh tế có chu kỳ. Để trả lời câu 
hỏi này ta nhìn nhận về các nguyên nhân sau: 
a. Do tình tạng sản xuất vô Chính phủ 
Tại sao lại có tình trạng này? Vì mâu thuẫn giữa tính tổ chức, có kế hoạch 
trong Xí nghiệp riêng rẽ với tính vô Chính phủ trong toàn xã hội. Mỗi nhà tư bản 
tiến hành sản xuất theo những chiến lược riêng của mình mà không lường trước 
được quy luật cung cầu của thị trường. Chỉ khi sản phẩm được tung ra thị trường thì 
mọi việc mới vỡ lở, cung vượt quá cầu. Điều này dẫn đến tất yếu sẽ có khủng 
hoảng. Nhưng điều này không chỉ xảy ra ở riêng CNTB mà nó xảy ra trên bất kỳ 
nền sản xuất nào dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Song chỉ có ở CNTB 
mới có tình trạng sản xuất vô Chính phủ, bởi lợi nhuận chính là nguyên nhân giành 
giật của các nhà tư bản. Do tình trạng vô lối trong sản xuất này, khủng hoảng xảy ra 
chỉ là vấn đè, thời gian. 
b. Do mất cân đối "ngẫu nhiên" trong nền sản xuất 
Do tình trạng sản xuất vô chính phủ để tranh nhau bóc lột "giá trị thặng dư" 
và thu nhiều lợi nhuận (trong đó cso cả lợi nhuận siêu ngạch) hàng hoá được sản 
xuất ra nhiều trong khi sức mua của người dân lại không theo kịp sản xuất. Hàng 
hoá tràn ngập trên thị trường mà không tiêu thụ được dẫn đến tình trạng ứ đọng 
hàng hoá. Khủng hoảng thừa sẽ tất yếu xảy ra. 
c. Do chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất 
Nếu như ở các thời kỳ trước nền sản xuất chỉ được mở ra với quy mô nhỏ, thì 
trong nền sản xuất TBCN quy mô được mở rộng. Do đó việc tập chung tư liệu sản 
xuất là tất yếu xảy ra và những tư liệu sản xuất lớn xuất hiện "trong công nghiệp thì 
những xưởng thủ công tí hon được thay thế bằng những nhà máy khổng lồ" (Trích 
kinh tế học phổ thông – NXB Khoa học năm 1971). 
Bên cạnh đó việc sản xuất không còn mang tính cá thể mà thay vào đó là sự 
chuyên môn hoá trong sản xuất. Mỗi sản phẩm được tạo ra đều có sự liên quan đến 
nhau tạo ra một dây truyền khép kín. Như để tạo ra một chiêc máy bay 
BoIng hoàn thiện công ty sản xuất nó phải sử dụng linh kiện lắp ráp đến từ hơn 100 
quốc gia trên thế giới. Điều này nói lên điều gì? Đó chính là xã hội hoá sản xuất => 
Tất yếu dẫn đến " mâu thuẫn giưa sản xuất có tính chất xã hội và chiếm hữu tư nhân 
TBCN " Điều này càng giải thích rõ hơn tại sao có khủng hoảng. 
 5. Hậu quả: 
 a. Đối với nền kinh tế nói chung: 
 Khủng hoảng kinh tế chu kỳ là điều tất yếu, điều này kéo theo những hậu quả 
kinh tế vô cùng to lớn mà ta không sao ngăn chặn nổi: xin lấy một vài dẫn chứng từ 
các nguồn khủng hoảng các cuộc khủng hoảng thừa có chu kỳ. Cuộc khủng hoảng 
đầu tiên nổ ra ở Anh năm 1825 và 1836 sau đó lan sang Mỹ ( 1837). Song cả hai 
cuộc khủng hoảng này chưa mang tầm thế giới. Phải đến 20 năm sau ( 1847 – 1848) 
một cuộc khủng hoảng thừa đầu tiên mang tầm vóc thế giới nổ ra tàn phá 4 nền kinh 
tế mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ là Anh, Pháp, Đức và Mỹ. Đến những năm 1929 – 
1933 một cuộc khủng hoảng lớn nữa tiếp tục nổ ra, hậu quả của nó lây lan sang cả 
dây truyền của CNTB, làm hệ thống TBCN suy thoái trên toàn cầu. ( Làm tổng sản 
lượnghàng hoá trên thế giới TBCN giảm 44%, thậm chí là 50 –60% ở một số nước. 
Đẩy lùi nền công nghiệp thế giới về 20 –30 năm về trước. Đẩy lùi nền công nghiệp 
thế giới 20 –30 năm trước đó mà cụ thể là: Pháp lùi về 1911, Mĩ về năm 1905 – 
1906, Đức về năm 1890, Anh về năm 1987) gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài 
chính tiền tệ Châu á năm 1997 làm các Quốc Gia Đông Nam á chịu những thiệt hại 
nặng nề, về sau còn lan sang cả Hàn Quốc và cả Nhật Bản. Số liệu thống kê thiệt hại 
sơ bộ của một vài các quốc gia ĐNA đã nói lên mức thiệt hại khi khủng hoảng đi 
qua Tndonesia là 57% GNP cuối năm 1997, Thái Lan 62% GNP, Phillipine 
63%GNP.. 
 b. Đối với người lao động: 
 Như là một phần không thể thiếu của bài viết này, chúng ta cần nhìn nhận 
thực tế rằng khủng hoảng kinh tế sảy ra thì ghánh chịu nhiều hậu quả nhất là người 
dân lao động. 
 Nhìn vào tỷ lệ thất nghiệp ở một số quốc gia sau khi khủng hoảng nổ ra ta có 
thể thấy rõ phần nào điều này. 
 ở Châu Mỹ La Tinh tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh,năm 1988 là 4,8%, năm 
1989 là 10,8%, Colombia năm 1988 là 19,85%, Venezuela 22%, khủng hoảng kinh 
tế tiền tệ ở Châu á năm 1997 làm con số thất nghiệp tăng khá cao. Hàn quốc là 75% 
năm 1998, Thái Lan hơn 10% , Indonéia hơn 15%, trong đó hơn 1/2 số người rơi 
vào cảnh nghèo đói ( Trích số liệu khủng hoảng kinh tế và điều hành - NXB khoa 
học xã hội – Trang 167) có thể nói thất nghiệp đã và đang trở thành vấn đề có tính 
chất toàn cầu. Đứng trước thực trạng đó Việt Nam chúng ta đã có động thái tích 
cực nào? 
6. Phương hướng khắc phục: 
 Ngày nay, các nhà kinh tế họcđã đưa ra các công cụ điều tiết tác động vào 
các giai đoạn của chu kỳ kinh tế để rút ngắn thời gian khủng hoảng và điều kiện, 
kéo dài thời gian phục hồi và hưng thịnh. Các công cụ được sử dụng là thuế, lãi 
suất, thanh toán chuyển nhượng, đầu tư, khối lượng tiền tệ. Cụ thể ta có bảng thống 
kê sau. 
 Giai đoạn 
Biện pháp 
Khủng hoảng Tiêu điều Phục hồi Hưng thịnh 
Thuế Giảm Giảm mạnh Tăng Tăng mạnh 
Lãi suất Giảm Giảm mạnh Tăng Tăng mạnh 
Thanh toán chuyển nhượng Tăng Tăng mạnh Giảm Giảm mạnh 
Đầu tư Nhà nước Tăng Tăng mạnh Giảm Giảm mạnh 
Khối lượng tiền tệ Tăng Tăng mạnh Giảm Giảm mạnh 
II. Việt Nam thách thức trên con đường hội nhập 
Với xu thế toàn cầu hoá hiện nay đang diễn ra mạnh mẽ. Việt Nam đang tích 
cực đẩy mạnh công cuộc hội nhập với nền kinh tế thế giới. Gia nhập ASEAN 
(28/7/1995); AFTA (15/12/1995) APEC (18/11/1998) đang tiến tới gia nhập tổ chức 
thương mại thế giới WTO nhằm ổn định chung ngôi nhà nhân loại (Trích tạp chí 
kinh tế và phát triển kinh tế số 8, 10, 11, trang 54 năm 2000). 
Do đó việc nghiên cứu khủng hoảng kinh tế là vô cùng quan trọng. Mặc dù 
khủng hoảng chưa xảy ra những nguy cơ tiềm ẩn là không thể tránh khỏi vì thế các 
giải pháp khắc phục phải được chuẩn bị kỹ lưỡng. 
Trước hết ta cần tiến hành sớm, chủ động các biện pháp cải cách trước khi 
quá muộn. Không chủ quan nóng vội chạy theo thành tích mà cần phải có những 
biện pháp che chắn thích hợp. 
Bên cạnh đó Nhà nước cần phải xây dựng một chính sách kinh tế mang tính 
vĩ mô hợp lý, tăng cường bồi dưỡng cán bộ và đặc biệt là những chính sách phát 
triển kinh tế tư nhân, xu hướng cổ phần hoá cần phải được đẩy nhanh... 
III. Kết luận 
Không thể phủ nhận tính hai mặt của một vấn đề. Nhưng chúng ta cũng cần 
hiểu rằng: " Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng" nghiên cứu đề tài này cũng chỉ 
với mong muốn rút ra những bài học quý báu giúp nền kinh tế nước nhà vững bước 
trên con đường hội nhập, lên được những tầm cao mới. 
Tài liệu tham khảo 
- Kinh tế học phổ thông tác giả Hiệu trưởng Trần Phương 
- Giáo trình kinh tế học phổ thông - NXB khoa học 
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin - NXB thống kê 
- Số liệu khủng hoảng kinh tế và điều hành - NXB khoa học xã hội 
- Tạp chí kinh tế và phát triển kinh tế 
(các số 8,10,11 năm 2000). 
Mục lục 
Lời nói đầu ................................................................................................................. 2 
I. Khủng hoảng kinh tế ở CNTB ............................................................................... 2 
1. Khái niệm chung về khủng hoảng kinh tế: ........................................................... 2 
2. Khủng hoảng kinh tế chu kỳ là hiện tượng riêng của CNTB (tiêu biểu là 
khủng hoảng thừa. ................................................................................................... 3 
3. Các chu kỳ của khủng hoảng: .............................................................................. 4 
4. Nguyên nhân: ...................................................................................................... 7 
5. Hậu quả: .............................................................................................................. 8 
6. Phương hướng khắc phục: ................................................................................... 9 
II. Việt Nam thách thức trên con đường hội nhập ................................................... 9 
III. Kết luận ............................................................................................................. 10 
Tài liệu tham khảo ................................................................................................... 11