Việt Nam là nước nông nghiệp, có gần 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lao
động làm nông nghiệp, do đó nông nghiệp là ngành kinh tế giữ vị trí trọng yếu trong đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đảng
và Nhà nước ta chủ trương mở mang công nghiệp, dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn.
Trong bối cảnh đó, việc huy động có hiệu quả các nguồn vốn để cung ứng đủ vốn cho
nông nghiệp, nông thôn là vấn đề trọng tâm và có ý nghĩa quyết định. Hà Nội là trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật của cả nước. Trong những năm đổi
mới, nông nghiệp ngoại thành Hà Nội có sự chuyển biến mạnh mẽ; phát triển đa dạng,
phong phú và đạt trình độ thâm canh cao hơn các vùng, miền khác trong cả nước. Tuy
nhiên, so với yêu cầu phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại, nông nghiệp
ngoại thành Hà Nội vẫn còn những yếu kém. Sự phát triển nông nghiệp ở vùng này còn
gặp nhiều hạn chế, trở ngại, trong đó có vấn đề: thiếu vốn và chưa huy động được tối đa
các nguồn vốn vào phát triển nông nghiệp. Vấn đề huy động vốn trên địa bàn ngoại thành
có những lợi thế, đặc điểm và yêu cầu riêng. Các giải pháp nào đẩy mạnh việc huy động
có hiệu quả các nguồn vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội? Do đó chọn đề
tài luận văn này vẫn là cần thiết, góp phần nhỏ vào việc giải đáp các câu hỏi trên đây
109 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1726 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vốn để phát triển nông nghiệp
ngoại thành Hà Nội trong giai
đoạn hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là nước nông nghiệp, có gần 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lao
động làm nông nghiệp, do đó nông nghiệp là ngành kinh tế giữ vị trí trọng yếu trong đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đảng
và Nhà nước ta chủ trương mở mang công nghiệp, dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn.
Trong bối cảnh đó, việc huy động có hiệu quả các nguồn vốn để cung ứng đủ vốn cho
nông nghiệp, nông thôn là vấn đề trọng tâm và có ý nghĩa quyết định. Hà Nội là trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật của cả nước. Trong những năm đổi
mới, nông nghiệp ngoại thành Hà Nội có sự chuyển biến mạnh mẽ; phát triển đa dạng,
phong phú và đạt trình độ thâm canh cao hơn các vùng, miền khác trong cả nước. Tuy
nhiên, so với yêu cầu phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại, nông nghiệp
ngoại thành Hà Nội vẫn còn những yếu kém. Sự phát triển nông nghiệp ở vùng này còn
gặp nhiều hạn chế, trở ngại, trong đó có vấn đề: thiếu vốn và chưa huy động được tối đa
các nguồn vốn vào phát triển nông nghiệp. Vấn đề huy động vốn trên địa bàn ngoại thành
có những lợi thế, đặc điểm và yêu cầu riêng. Các giải pháp nào đẩy mạnh việc huy động
có hiệu quả các nguồn vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội? Do đó chọn đề
tài luận văn này vẫn là cần thiết, góp phần nhỏ vào việc giải đáp các câu hỏi trên đây.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phạm trù tư bản, tích tụ và tập trung tư bản; vai trò của nó trong quá trình công
nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập
trong nhiều tác phẩm. Hiện nay, trên các ấn phẩm, các nhà kinh tế học hiện đại cũng tiếp
tục nghiên cứu vấn đề này.
ở nước ta, dưới ánh sáng đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, vấn đề vốn phục
vụ phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung, vốn cho phát triển công nghiệp, vốn cho
phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu. Đáng chú ý là các tác phẩm sau đây:
1. Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các nước châu á và Việt Nam - GS
Nguyễn Điền (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997;
2. Tích tụ và tập trung vốn trong nước để phát triển công nghiệp nước ta hiện
nay - Trần Xuân Kiên, Luận án Tiến sĩ khoa học kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 1998;
3. Đầu tư trong nông nghiệp, thực trạng và triển vọng - TS Nguyễn Sinh Cúc và
TS Nguyễn Văn Tiêm (chủ biên), Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995;
4. Khuyến khích đầu tư trong nước - GS,TS Chu Văn Cấp, Tạp chí Nghiên cứu lý
luận, số 1/1995;
5. Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển
kinh tế Việt Nam - Nguyễn Văn Lai, Luận án TS Khoa học kinh tế, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội ,1996;
6. Một số giải pháp đầu tư vốn phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay, TS Cao Sỹ Kiêm, Tạp chí Ngân hàng, số 13/1998;
7. Vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông
thôn - GS,TS Thứ trưởng Bộ Tài chính Tào Hữu Phùng, Tạp chí Cộng sản, số 1/1999.
...
Tháng 7/1998, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam tổ
chức cuộc Hội thảo quốc gia: "Nghị quyết Trung ương 4 và vấn đề tín dụng nông nghiệp,
nông thôn".
Hầu hết các công trình nêu trên đã đề cập một cách toàn diện, khái quát hoặc đi
sâu phân tích từng mặt của quá trình đầu tư vốn nói chung, đầu tư vốn phát triển nông
nghiệp, nông thôn nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu vào vấn đề huy
động vốn trên địa bàn các huyện ngoại thành, nơi mà điều kiện, đặc điểm và yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội chứa đựng những đặc trưng kinh tế riêng đang đòi hỏi phải được
nghiên cứu. Vì vậy, luận văn: " Vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay " là đề tài cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng huy động vốn trong nông nghiệp ngoại thành
Hà Nội, đề xuất những phương hướng, giải pháp khả thi nhằm huy động có hiệu quả các
nguồn vốn để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về vốn, đặc điểm, vai trò vốn đầu tư
cho phát triển nông nghiệp nói chung và nông nghiệp ngoại thành Hà Nội nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng huy động vốn phục vụ phát triển nông nghiệp
ngoại thành Hà Nội.
- Luận chứng phương hướng, giải pháp huy động có hiệu quả các nguồn vốn
phục vụ phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nội dung nghiên cứu của luận văn liên quan chủ yếu đến lĩnh vực huy động vốn
trong nước (vốn bằng tiền) để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội.
Đề tài thuộc chuyên ngành Kinh tế chính trị nên chỉ tập trung vào những phương
hướng, quan điểm và giải pháp có tính chất định hướng.
Những tài liệu, số liệu được phân tích ở thời kỳ đổi mới kinh tế, chủ yếu là trong
5 năm trở lại đây.
5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu luận văn
- Thực hiện đề tài luận văn, tác giả dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng trong các văn kiện Đại hội VI, VII,
VIII và các Hội nghị Trung ương. Đồng thời, tham khảo một số lý thuyết kinh tế hiện đại,
đặc biệt là lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, chủ yếu là phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; coi trọng phương
pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, kết hợp chặt chẽ với phương pháp điều tra
khảo sát thực tiễn nhằm khái quát, chọn lọc tri thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn để
đưa vào luận văn.
6. Những điểm mới của luận văn
- Trình bày một cách hệ thống lý luận về vốn và vai trò của vốn đối với quá trình
phát triển nông nghiệp.
- Đánh giá thực trạng huy động vốn phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội.
- Đưa ra những giải pháp có tính chất định hướng, góp phần huy động có hiệu
quả các nguồn vốn, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết, 12 biểu và 8 phụ
lục.
Chương 1
Vốn đối với quá trình phát triển nông nghiệp
1.1. Vốn và vai trò của nó đối với phát triển nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm về vốn
Vốn là nguồn lực quan trọng nhất đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của
mọi quốc gia. Việt Nam là nước đang phát triển, nhu cầu về vốn là rất lớn. Tuy nhiên, do
tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn quá thấp, khả năng "hút" vốn từ nước ngoài còn hạn
hẹp nên lượng vốn đầu tư cho phát triển nền kinh tế còn rất thiếu. Vì vậy, nhận thức và
vận dụng đúng đắn phạm trù vốn sẽ là tiền đề thúc đẩy việc khai thác có hiệu quả mọi
tiềm năng về vốn để đầu tư phát triển nền kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp nói
riêng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cho đến nay đã có nhiều khái niệm về vốn dưới các giác độ khác nhau:
Theo nghĩa rộng, vốn gồm toàn bộ các nguồn lực kinh tế được đưa vào chu
chuyển, như: tiền, lao động, vật tư, tài nguyên, máy móc, thiết bị, ruộng đất; giá trị của
những tài sản vô hình, như: vị trí đất đai, công nghệ, quyền phát minh, sáng chế. Trong
các nền kinh tế phát triển thì tài sản vô hình ngày càng có vai trò quan trọng trong cơ cấu
vốn.
Theo nghĩa hẹp, vốn là một trong ba yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất (lao
động, đất đai, vốn). Đối với các nhà kinh tế, vốn là yếu tố thứ ba của sản xuất (các yếu tố
khác là lao động và đất đai) được kết hợp lại để sản xuất hàng hóa và dịch vụ.
Các nhà kinh tế học thuộc các trường phái kinh tế trước C.Mác đã nghiên cứu
vốn thông qua phạm trù tư bản và đi đến kết luận: vốn là phạm trù kinh tế.
Ngày nay, do yêu cầu của sự phát triển, vốn không những là yếu tố quan trọng
đối với quá trình sản xuất của các nước có nền kinh tế phát triển mà còn là yếu tố khan
hiếm đối với hầu hết các quốc gia đang và kém phát triển trên thế giới. Vì vậy, phạm trù
vốn luôn được các nhà kinh tế hiện đại quan tâm nghiên cứu và tiếp cận nó trên những
bình diện khác nhau. Đó là:
- "Vốn là tiền của bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản xuất, kinh doanh nhằm sinh lợi"
[62, 1126].
- "Vốn là một loại nhân tố "đầu vào" đồng thời bản thân nó lại là kết quả "đầu ra"
của hoạt động kinh tế" [12, 138].
- Dưới dạng tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tích lũy, tức là một phần thu nhập
chưa được tiêu dùng. Dưới dạng vật chất, vốn bao gồm các loại máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, các công trình hạ tầng, các loại nguyên liệu, nhiên liệu, các sản phẩm trung gian, các
thành phẩm... Ngoài ra, còn có các loại vốn vô hình (bằng phát minh sáng chế, vị trí kinh
doanh v.v...), không tồn tại dưới dạng vật chất nhưng có giá trị kinh tế và cũng là những
yếu tố vốn cần thiết cho quá trình phát triển. Trong quá trình hoạt động của nền kinh tế, vốn
luôn luôn vận động và chuyển hóa về hình thái vật chất cũng như từ hình thái vật chất sang
hình thái tiền tệ.
Tổng số vốn đã tích lũy được còn được gọi là tài sản quốc gia. Tài sản quốc gia
được tích lũy, có thể chia thành hai nhóm: vốn sản xuất (tài sản vật chất) và vốn phi vật
chất (tài sản phi vật chất). Như vậy, vốn sản xuất vật chất là một phần của tài sản quốc
gia như là kết quả của quá trình tích lũy và được trực tiếp sử dụng trong quá trình sản
xuất hiện tại. Tài nguyên thiên nhiên, như: đất đai, hầm mỏ... không được tạo ra từ các
hoạt động đầu tư. Các khoản đầu tư dưới dạng thiết bị, máy móc, nhà xưởng, vật kiến
trúc hay một số vật liệu khác cần cho quá trình khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên thì
được xếp vào vốn sản xuất. Ngoài ra, bộ phận tài sản quốc gia phi sản xuất là các công
sản quốc gia cũng hết sức quan trọng.
Các tài sản vật chất trong quá trình sử dụng hao mòn theo thời gian và do nhu
cầu sử dụng các tài sản vật chất ngày càng tăng cho nên phải tiến hành thường xuyên việc
bù đắp hao mòn và tăng thêm khối lượng các tài sản vật chất mới và tăng thêm hàng hóa
tồn kho [12, 138-139].
- "Vốn là những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập và bản thân nó cũng được cái
khác tạo ra. Vốn là một trong bốn yếu tố sản xuất, và bao gồm máy móc, nhà máy và nhà
cửa là cái làm cho sản xuất trở thành hiện thực nhưng trừ nguyên liệu thô và có thể được coi
như là giữ giá trị được tích trữ của những cái này" [7, 56].
Từ những cách tiếp cận trên về vốn, có thể rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, vốn là một trong những nhân tố không thể thiếu trong quá trình sản
xuất ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Nó góp phần tạo ra thu nhập, đẩy mạnh tăng trưởng
và phát triển kinh tế.
Thứ hai, vốn không chỉ là lượng tiền mặt nhất định trực tiếp đầu tư sinh lợi
nhuận mà còn là đại diện về mặt giá trị cho những tài sản hữu hình và vô hình tham gia
vào các quá trình sản xuất - kinh doanh.
Thứ ba, vốn được biểu hiện bằng tiền. Song, không phải tất cả tiền đều là vốn.
Tiền là hình thái biểu hiện của vốn. Trường hợp tiền để tiêu dùng hàng ngày, tiền để cất
trữ không được coi là vốn. Đó là các khoản để chi tiêu và tiền tiết kiệm để giành, là các
khoản tiền không sinh lời, không thể tạo ra sự phát triển kinh tế. Chỉ có những đồng tiền
được đảm bảo bằng tài sản thật, đưa vào đầu tư kinh doanh với mục đích sinh lời mới là
vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, cách vận động và phương thức vận động của tiền
do phương thức đầu tư kinh doanh quyết định.
Trên thực tế, sự vận động của vốn có ba hình thức:
TLSX
SLĐ
+ T - H - T’: là hình thức vận động của vốn đầu tư trong các doanh nghiệp
thương mại - dịch vụ.
+ T - T’: là hình thức vận động của vốn đầu tư thuộc các tổ chức tài chính trung
gian mua trái phiếu, cổ phiếu công ty, đầu tư góp vốn liên doanh.
Trong cơ chế thị trường, đối với một quốc gia, từng doanh nghiệp có thể sử dụng
cùng một lúc ba phương thức đầu tư vốn theo mô hình trên nhằm mục tiêu có mức doanh
+ T - H ... SX... H’ - T’: là hình
thức vận động của vốn đầu tư
trong các doanh nghiệp sản
xuất. Đây cũng chính là mô
hì h tái sản xuấ nói chung.
lợi cao và nằm trong khuôn khổ pháp luật. Vốn biểu hiện bằng tiền là nguồn vốn linh
hoạt nhất nhưng phải là tiền vận động đi vào sản xuất một cách hiệu quả. Thị trường
không những là nơi diễn ra các hoạt động đa dạng của vốn mà còn là nơi để vốn bộc lộ
khả năng sinh lời của chúng. Khả năng sinh lời của vốn vừa là mục đích cuối cùng của
việc đầu tư kinh doanh đồng vốn, vừa là phương tiện để vốn tiếp tục vận động với qui mô
ngày càng mở rộng ở chu kỳ sau. Sự vận động của vốn trong thị trường tuân theo qui luật
khách quan của kinh tế thị trường. Song, con người có thể nắm bắt và lợi dụng chúng để
tạo ra những kênh huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu mục đích sản
xuất, kinh doanh của mình.
Trong giới hạn phạm vi và đối tượng nghiên cứu, luận văn chỉ đề cập dưới góc
độ huy động vốn trong nước (vốn bằng tiền) để phát triển nông nghiệp. Cụ thể:
Một là, vốn trong nước là toàn bộ những giá trị của tất cả các yếu tố cần thiết để
cấu thành quá trình sản xuất, được hình thành nên từ nguồn lực kinh tế và sản phẩm thặng
dư của nhân dân lao động trong một quốc gia [29, 17]. Hay, nói cụ thể hơn, vốn trong
nước là toàn bộ những giá trị của tất cả các yếu tố cần thiết cấu thành quá trình sản xuất,
bao gồm: tiền mặt, nhà xưởng máy móc thiết bị, vật kiến trúc, nguyên liệu, đất đai, lao
động, kinh nghiệm quản lý, chữ tín của khách hàng đối với sản phẩm, bí quyết công
nghệ, vị trí kinh doanh, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm,... Được hình thành nên từ các
nguồn lực kinh tế và sản phẩm thặng dư của nhân dân lao động trong một quốc gia.
Như vậy, các nhân tố cấu thành vốn trong nước là rất đa dạng: vốn bằng tiền, các
dạng của cải, vốn con người, vốn tài sản,... Trong điều kiện nền sản xuất hàng hóa, các
loại vốn trên có thể thâm nhập vào nhau, chuyển hóa cho nhau và dĩ nhiên, chúng sẽ trở
thành tiền mặt trong những điều kiện cụ thể. Vì vậy, cần có cách nhìn biện chứng, linh
hoạt về các nguồn vốn. Từ đó mà có biện pháp khai thác, huy động nguồn vốn còn tiềm
ẩn trong nền kinh tế vào phát triển kinh tế. Nhất là, khi có một nguồn vốn nhất định đủ
sức tiến hành sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm hàng hóa thì điều quan trọng là phải
tìm cách cấu trúc tối ưu các yếu tố, quản lý có hiệu quả chúng để đạt hiệu quả cao trong
kinh doanh.
Hai là, vốn bằng tiền (tiềm lực về tài chính) đầu tư vào phát triển nông nghiệp.
Nói cụ thể, vốn đầu tư trong nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và
đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
Vốn là yếu tố không thể thiếu đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để tiến
hành sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp hay trên phạm vi từng quốc gia cần phải có
các khoản tiền ứng ra để đầu tư ban đầu và đầu tư vào sản xuất trong giai đoạn đưa công
trình vào hoạt động. Xã hội càng phát triển, những chi phí cho các khoản "đầu vào" càng
lớn. Bởi lẽ, những tư liệu lao động và đối tượng lao động do con người tạo ra có quy mô
ngày càng lớn, phong phú về kết cấu, đa dạng về chủng loại và hàm chứa một trình độ
khoa học - công nghệ ngày càng cao. Chúng trở thành những tài sản (vốn) rất có giá trị.
Dựa theo những tiêu thức khác nhau mà người ta có thể chia vốn thành các loại khác
nhau. Dưới đây là một số loại cơ bản:
+ Dựa vào đặc điểm vận động của vốn, có hai loại: vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định ứng với tài sản cố định (nhà xưởng, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương
tiện vận tải, dụng cụ đo lường, phương tiện quản lý...; vốn lưu động ứng với tài sản lưu
động (nguyên liệu, nhiên liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hóa và các khoản
tiền tệ đáp ứng nhu cầu thanh toán chi trả,...).
+ Dựa theo hình thái và nguồn lực đầu tư, vốn có hai loại: vốn hữu hình và vốn
vô hình. Vốn hữu hình có hình thái vật chất cụ thể, bao gồm các tài sản hữu hình, tiền
mặt, những giấy tờ có giá trị thanh toán...; vốn vô hình là phần vốn tiền tệ đã được chi phí
nhằm sử dụng những tài sản vô hình để phục vụ yêu cầu của quá trình sản xuất kinh
doanh. Vốn vô hình bao gồm: vị trí kinh doanh, bí quyết công nghệ, bằng phát minh sáng
chế...
+ Dựa vào thời gian sử dụng, vốn có ba loại: vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và vốn
dài hạn. Vốn ngắn hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu tư với thời hạn 1 năm. Vốn
trung hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu tư với thời hạn từ 1 năm đến dưới 5 năm.
Vốn dài hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu tư với thời hạn 5 năm trở lên.
+ Dựa vào chế độ sở hữu, vốn có hai loại: vốn chủ sở hữu và vốn vay. Vốn pháp
định là số vốn bắt buộc phải có để thành lập doanh nghiệp. Vốn pháp định là bộ phận
quan trọng hợp thành vốn đầu tư của doanh nghiệp. Trên thực tế, để giảm bớt rủi ro, các
chủ thể đầu tư thường xây dựng phương án kinh doanh với tỷ lệ góp vốn pháp định trong
tổng vốn đầu tư càng ít càng tốt; vốn vay là lượng vốn huy động từ các nguồn bên ngoài
chủ thể kinh doanh để đảm bảo tính liên tục, hiệu quả của quá trình sản xuất. Trong nền
kinh tế thị trường, vốn vay là lượng vốn chiếm phần lớn trong tổng vốn đầu tư.
Ngoài các cách phân loại trên, người ta còn có những cách thức phân loại vốn
khác,như: phân theo giác độ sử dụng vốn có hai loại: vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư
gián tiếp; căn cứ vào quyền sở hữu các nguồn vốn để tiến hành đầu tư trên tổng thể nền
kinh tế có vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài,... [40, 13]. Trong nền kinh tế
thị trường, ở mỗi góc nhìn khác nhau cho ta những quan niệm khác nhau về vốn, đầu tư
vốn, song, xét về bản chất nó là thể thống nhất. Việc phân chia vốn thành các loại khác
nhau nhằm mục đích hiểu rõ bản chất phạm trù vốn. Nói cách khác, là hiểu được tính đa
dạng, phong phú và rất phức tạp của vốn đầu tư trong nền kinh tế thị trường, giúp cho các
chủ thể kinh doanh có kế hoạch chủ động để huy động và sử dụng vốn ngày càng có hiệu
quả.
1.1.2. Cơ cấu nguồn vốn và các phương thức huy động vốn trong nước
1.1.2.1. Cơ cấu nguồn vốn
Hiện nay, nguồn vốn trong nước tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, nhưng tựu
chung lại có các loại: vốn ngân sách nhà nước, vốn doanh nghiệp, vốn tín dụng ngân
hàng và vốn tích lũy của dân cư.
- Nguồn vốn ngân sách nhà nước: Nguồn này được hình thành thông qua việc tiết
kiệm của chính phủ. Nói cách khác, phần tiết kiệm của chính phủ là phần tiết kiệm của
ngân sách nhà nước. Tiết kiệm của chính phủ thể hiện ở số chênh lệch giữa tổng số thu so
với tổng số chi tiêu thường xuyên của ngân sách nhà nước. Về bản chất, đây là nguồn
vốn của ngân sách nhà nước chi cho phát triển kinh tế.
Trong những năm gần đây, qui mô ngân sách của Nhà nước ta không ngừng tăng
lên nhờ mở rộng nguồn thu. Song, thu chủ yếu vẫn qua huy động thuế và phí (trên 90%).
Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước tăng trung bình từ 13,1% GDP (1986 -
1990) lên 20,5% GDP (1991 - 1995) và hiện nay, khoảng 22% GDP (ước tính giá trị GDP
nước ta khoảng 26 tỷ USD) [38, 3]. Với khả năng huy động vốn trên, ngân sách nhà nước
sẽ có điều kiện để tăng lượng vốn đầu tư cho phát triển nói chung, kinh tế nông nghiệp
nói riêng.
- Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, bao gồm: doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Nguồn này được hình thành từ phần tiết kiệm của doanh
nghiệp, thể hiện ở phần lãi thuần được để lại dùng làm tăng vốn chủ sở hữu. Phần lãi
thuần để lại thực chất là phần đầu tư ròng tăng thêm của các doanh nghiệp. Ngoài ra,
phần khấu hao cơ bản hàng năm cũng là nguồn để các doanh nghi