Là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, đạo đức đã sớm xuất hiện trong lịch sử
loài người và khẳng định vai trò to lớn trong việc đảm bảo sự ổn định, phát triển của mỗi
chế độ xã hội. Chính vì vậy, việc xây dựng đạo đức của con người nói chung, cán bộ lãnh
đạo nói riêng là vấn đề mà mọi chế độ xã hội từ trước tới nay đều quan tâm.
Để lãnh đạo quản lý nhà nước, thúc đẩy đất nước phát triển theo mục tiêu của
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, người cán bộ cách mạng phải có cả đức lẫn tài, trong
đó đức là gốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to
tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn
làm nổi việc gì?" [49, tr.253].
Thực tế cho thấy, sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đất nước đang chuyển mình và tiếp tục đạt được
những thành tựu to lớn, góp phần vào những thắng lợi ấy, phải kể đến ý nghĩa của việc
xây dựng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ cách mạng nói
chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng. Bởi lẽ, họ là những người cán
bộ trực tiếp tiếp xúc, lãnh đạo và phục vụ nhân dân trong việc vận dụng, thực hiện
những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ở cơ sở. Tuy nhiên,
bên cạnh mặt tích cực thì với mặt trái của nền KTTT, cùng với sự chống phá của các
thế lực thù địch và sự yếu kém trong công tác giáo dục t ư tưởng, lý luận, rèn luyện
đạo đức cách mạng trong những năm vừa qua ở nước ta đã dẫn tới "Tình trạng tham
nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng" [20, tr.16]. Đáng chú ý là sự suy thoái về phẩm
chất này trong cán bộ vẫn đang có chiều hướng gia tăng làm xói mòn bản chất cách
mạng của đội ngũ cán bộ, cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, làm
giảm uy tín của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân, ảnh hưởng
xấu đến sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc, tạo thành nguy cơ lớn đe dọa sự sống
còn của chế độ ta. Tình hình tư tưởng đạo đức ở đội ngũ cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở của tỉnh Bắc Giang cũng không nằm ngoài cái chung đó. Vì vậy, việc
tiếp tục khẳng định vai trò và xây dựng đạo đức cách mạng ở người cán bộ nói chung
và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng lại càng nổi lên đặc biệt quan trọng
trong giai đoạn hiện nay.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu vấn đề Xây dựng đạo đức cách mạng cho
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc Giang hiện
nay là việc làm hết sức cơ bản và cần thiết.
98 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1953 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc Giang hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Xây dựng đạo đức cách mạng cho
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều
kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc
Giang hiện nay
mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, đạo đức đã sớm xuất hiện trong lịch sử
loài người và khẳng định vai trò to lớn trong việc đảm bảo sự ổn định, phát triển của mỗi
chế độ xã hội. Chính vì vậy, việc xây dựng đạo đức của con người nói chung, cán bộ lãnh
đạo nói riêng là vấn đề mà mọi chế độ xã hội từ trước tới nay đều quan tâm.
Để lãnh đạo quản lý nhà nước, thúc đẩy đất nước phát triển theo mục tiêu của
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, người cán bộ cách mạng phải có cả đức lẫn tài, trong
đó đức là gốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to
tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn
làm nổi việc gì?" [49, tr.253].
Thực tế cho thấy, sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đất nước đang chuyển mình và tiếp tục đạt được
những thành tựu to lớn, góp phần vào những thắng lợi ấy, phải kể đến ý nghĩa của việc
xây dựng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ cách mạng nói
chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng. Bởi lẽ, họ là những người cán
bộ trực tiếp tiếp xúc, lãnh đạo và phục vụ nhân dân trong việc vận dụng, thực hiện
những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ở cơ sở. Tuy nhiên,
bên cạnh mặt tích cực thì với mặt trái của nền KTTT, cùng với sự chống phá của các
thế lực thù địch và sự yếu kém trong công tác giáo dục tư tưởng, lý luận, rèn luyện
đạo đức cách mạng trong những năm vừa qua ở nước ta đã dẫn tới "Tình trạng tham
nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng" [20, tr.16]. Đáng chú ý là sự suy thoái về phẩm
chất này trong cán bộ vẫn đang có chiều hướng gia tăng làm xói mòn bản chất cách
mạng của đội ngũ cán bộ, cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, làm
giảm uy tín của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân, ảnh hưởng
xấu đến sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc, tạo thành nguy cơ lớn đe dọa sự sống
còn của chế độ ta. Tình hình tư tưởng đạo đức ở đội ngũ cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở của tỉnh Bắc Giang cũng không nằm ngoài cái chung đó. Vì vậy, việc
tiếp tục khẳng định vai trò và xây dựng đạo đức cách mạng ở người cán bộ nói chung
và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng lại càng nổi lên đặc biệt quan trọng
trong giai đoạn hiện nay.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu vấn đề Xây dựng đạo đức cách mạng cho
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc Giang hiện
nay là việc làm hết sức cơ bản và cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng nói chung và xây dựng đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói riêng trong điều kiện KTTT ở nước ta đã thu
hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Cho đến nay đã có nhiều công
trình được công bố với những mức độ, cách tiếp cận khác nhau, trong đó có những
công trình có liên quan trực tiếp đến đề tài như:
* Về đạo đức cách mạng có:
- "Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng", Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976.
- "Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới", Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983.
- "Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cách mạng", Nxb Thông tin lý luận,
Hà Nội, 1986.
- "Nâng cao đạo đức cách mạng theo gương Bác Hồ vĩ đại", Tạp chí Cộng sản,
số 5-1988.
- "Tư tưởng đạo đức cách mạng - truyền thống, dân tộc, nhân loại", Vũ Khiêu
(chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993.
* Về đạo đức cách mạng đối với cán bộ trong điều kiện KTTT hiện nay:
- "Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cán bộ", Đức Vượng, Nxb CTQG, Hà Nội,
1995.
- "Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh",
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, Thang Văn Phúc (chủ biên).
- "Những vấn đề đạo đức trong điều kiện KTTT", Viện Thông tin khoa học xã
hội, Hà Nội, 1996.
- "Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay", Nguyễn Trọng
Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên), Nxb CTQG, Hà Nội, 2003.
- "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền KTTT với việc xây dựng đạo
đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay", Nguyễn Chí Mỳ, Nxb Quốc gia Hà Nội,
1999.
- "Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện đạo đức cán bộ đảng viên", Phạm Quốc
Thành, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004.
* Một số luận án, luận văn có liên quan đến đề tài:
- "Sự hình thành đạo đức XHCN trong điều kiện quá độ lên CNXH bỏ qua giai
đoạn phát triển TBCN", Nguyễn Ngọc Long, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 1982.
- "Vấn đề đạo đức cách mạng của người cán bộ hậu cần quân đội nhân dân Việt
Nam trong điều kiện hiện nay", Hà Nguyên Cát - Luận án tiến sĩ triết học, 2000.
- "Quan hệ cá nhân - xã hội trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề giáo
dục đạo đức cách mạng cho cán bộ quản lý lãnh đạo hiện nay", Phạm Huy Kỳ, Luận án
tiến sĩ triết học, 2001.
- "Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên cơ sở hiện nay", Dương Xuân Lộc, luận văn thạc sĩ triết học, 2001.
- "Vấn đề xây dựng đạo đức cho cán bộ cơ sở trong điều kiện KTTT ở Việt Nam
hiện nay (qua thực tế tỉnh Thái Bình)", Đặng Thanh Giang, Luận văn thạc sĩ triết học,
2001.
- "Vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cơ sở ở tỉnh
Đăk Lăk trong điều kiện KTTT hiện nay", Nguyễn Tuyên Quang, Luận văn thạc sĩ triết
học, 2003...
Vấn đề đạo đức cách mạng và vai trò của nó trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay là vấn đề rộng lớn và phức tạp, cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Đặc biệt là
vấn đề đạo đức của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Bắc Giang cũng chưa có công trình nào
đề cập một cách có hệ thống dưới góc độ triết học, vì thế chúng tôi chọn đề tài "Xây
dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị
trường ở tỉnh Bắc Giang hiện nay" để viết luận văn thạc sĩ triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn:
Từ thực tế tỉnh Bắc Giang, luận văn phân tích thực trạng đạo đức của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện KTTT hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ này.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Trình bày tầm quan trọng, nội dung và yêu cầu của đạo đức cách mạng đối với
người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng đạo đức của người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện
KTTT hiện nay ở tỉnh Bắc Giang và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang hiện nay.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Luận văn không nghiên cứu tất cả những đối tượng cán bộ lãnh đạo, cũng không
nghiên cứu tất cả các phẩm chất của người cán bộ lãnh đạo theo yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới, mà chỉ nghiên cứu về phẩm chất đạo đức cách mạng và vai trò của nó với hoạt
động của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang.
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những người làm công tác Đảng, chính quyền, mặt
trận, đoàn thể ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) bao gồm các chức danh như: Bí thư, phó Bí
thư Đảng ủy; Chủ tịch, phó Chủ tịch ủy ban nhân dân; Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ
tịch Mặt trận và các đoàn thể chính trị khác (Theo Nghị định số 9/1998/NĐ-CP ngày 23
tháng 01 năm 1998).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và đạo đức cách mạng,
xây dựng đạo đức cho người cán bộ cách mạng nói chung và người cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp cơ sở nói riêng.
- Luận văn còn sử dụng những tài liệu của các cấp ủy Đảng và chính quyền ở
tỉnh Bắc Giang liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, điều tra,
thống kê đã được sử dụng... để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đã đề ra.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ thực trạng đạo đức của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều
kiện kinh tế thị trường ở Bắc Giang hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh Bắc Giang hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chiến
lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc Giang.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để giảng dạy môn triết học Mác - Lênin
nói chung và phần đạo đức học nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
Đạo đức cách mạng, tầm quan trọng, nội dung và yêu cầu
của việc xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở việt nam hiện nay
1.1. đạo đức và sự biến đổi của đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay
1.1.1. Đạo đức và đạo đức cách mạng
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là Mos - lề thói (morolia) - nghĩa
là có liên quan với lề thói, đạo nghĩa. Còn luân lý được xem như đồng nghĩa với đạo
đức có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos - lề thói, tập tục. Khi nói đến đạo đức là nói đến
lề thói và tập tục, biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người trong sự giao
tiếp với nhau hàng ngày. Sau này người ta thường phân biệt hai khái niệm: Mozal là
đạo đức, còn ethicos là đạo đức học.
ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại xuất
hiện sớm, lần đầu tiên xuất hiện trong "Kim văn" đời nhà Chu và từ đó trở đi nó được
người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều để chỉ những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc
sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Quan điểm duy tâm tôn giáo coi đạo đức là những nguyên tắc, những chuẩn mực
được rút ra từ trong đầu óc thiếu cơ sở thực tiễn lịch sử, chẳng hạn như thượng đế, ý niệm
tuyệt đối, tự ý thức, hoặc một bản tính người trừu tượng nào đó,... rồi đem áp đặt vào đời
sống hiện thực của con người.
Với thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, dựa trên sự kế thừa có
chọn lọc những quan niệm về đạo đức trước đó, đồng thời đặt nền tảng khoa học cho một
nền đạo đức mới - đạo đức cộng sản chủ nghĩa, quan điểm mác xít cho rằng: đạo đức là
sản phẩm của điều kiện kinh tế - xã hội, trong đó nhân tố quy định đạo đức là các quan hệ
kinh tế, lợi ích là cái chi phối trực tiếp, là cơ sở khách quan của đạo đức, "... lợi ích hiểu
một cách đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức". Dưới góc độ nhận thức luận, đạo
đức là một hiện tượng tinh thần, một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, là tính thứ hai
so với tồn tại xã hội. Tính chất đặc biệt của đạo đức thể hiện trong quá trình hình thành
các quy tắc đạo đức, đó là do sự thừa nhận của số đông trong xã hội hay sự thừa nhận của
một giai cấp nhất định.
Dưới góc độ chức năng, đạo đức điều chỉnh hành vi của con người bằng những
chuẩn mực và quy tắc đạo đức theo yêu cầu của xã hội. Mục đích là nhằm đảm bảo lợi
ích chung của xã hội hay lợi ích cơ bản của giai cấp đã đề ra chuẩn mực, quy tắc đạo đức
ấy. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức thông qua
sự phản ánh tồn tại xã hội. Qua đó đem lại tri thức, ý thức đạo đức cho chủ thể, hình
thành đạo đức cá nhân và trở thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi, hiện thực hoá
đạo đức. Với chức năng giáo dục, đạo đức giúp cho con người hình thành những quan
điểm, nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực cơ bản để đánh giá hành động đạo đức xã hội và
những hành vi đạo đức của bản thân mỗi con người.
Cách tiếp cận thứ ba là xem xét đạo đức với tính cách là hệ giá trị. Sự hình thành,
phát triển và hoàn thiện hệ thống giá trị đạo đức không tách rời sự phát triển và hoàn
thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với
sự phát triển, tiến bộ thì hệ thống ấy sẽ mang tính tích cực, mang tính nhân đạo. Ngược lại,
hệ thống ấy sẽ là tiêu cực, phản động, phản nhân đạo nếu nó đi ngược lại với sự phát triển, sự
tiến bộ.
Như vậy, "Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ
với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống
và sức mạnh của dư luận xã hội" [26, tr.8].
Là yếu tố cốt lõi của tính cách con người, đạo đức có vai trò hết sức quan trọng
trong đời sống xã hội, là một trong những phương thức cơ bản để điều chỉnh hành vi con
người, làm cho cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển. Chính vì thế mà các giai cấp,
các tập đoàn xã hội tiến bộ, cách mạng bao giờ cũng xem đạo đức như là một trong
những công cụ cơ bản, động lực nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Có thể nói, lịch sử tư tưởng nhân loại cũng là lịch sử phát triển của đạo đức. Đạo
đức xã hội nguyên thủy dựa trên nguyên tắc về sự bình đẳng, hợp tác, nhưng ở trình độ rất
thấp, đạo đức còn mang tính sơ khai, song nó có ý nghĩa là tiền đề cho sự hình thành và phát
triển đạo đức sau này. Kế tiếp đạo đức xã hội nguyên thủy là các kiểu đạo đức của xã hội
chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản và sau nó là đạo đức mới - đạo đức
cộng sản chủ nghĩa. Đây là những nấc thang phát triển về chất trong lịch sử đạo đức nhân
loại.
1.1.1.2. Đạo đức cách mạng
Về mặt lịch sử, đạo đức mới đã tồn tại và phát triển trước khi tồn tại xã hội
XHCN, nó được hình thành từ cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân chống
lại giai cấp tư sản, nhằm thiết lập địa vị thống trị của mình. Chính nội dung của cuộc đấu
tranh đó quy định sự phát triển nội dung của đạo đức mới. Trong quá trình xây dựng
CNXH, đạo đức mới của giai cấp vô sản ngày càng trở thành đạo đức chung của nhân
dân. Và trong tương lai trở thành đạo đức chung của nhân loại là đạo đức cộng sản sau
khi đã qua giai đoạn trung gian của nó là đạo đức XHCN.
Để nhấn mạnh vai trò nhân tố tinh thần của đạo đức mới góp phần vào thắng lợi
của cách mạng XHCN; để phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam; trong luận văn
này chủ yếu sử dụng khái niệm "đạo đức cách mạng" theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí
Minh.
"Đạo đức cách mạng" theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là đạo đức mới - đạo đức cộng
sản chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đạo đức cách mạng theo Hồ Chí Minh, không những khác mà còn đối lập với đạo
đức của các giai cấp bóc lột thống trị xã hội. Đạo đức cách mạng được nảy sinh, tồn tại và
phát triển trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; nó được hình thành, phát triển
cùng với quá trình vận động, phát triển sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Đồng thời nó kế
thừa và phát triển tinh hoa đạo đức truyền thống dân tộc và của nhân loại. Đặc biệt là đạo
đức Mác - Lênin.
Đạo đức cách mạng Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Nó là sự phản ánh quá trình đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân, nông dân và các tầng lớp tiến bộ khác nhằm giành độc lập dân tộc và đưa đất nước
đi lên xây dựng CNXH. Vì vậy, tiếp cận khái niệm "đạo đức cách mạng", cũng cần phải
xem xét dưới góc độ nhận thức luận, chức năng cơ bản và giá trị nhân cách. Cũng như
các hệ thống lý luận đạo đức khác, lý luận đạo đức cách mạng là kết quả của sự phản ánh
tồn tại xã hội. Nhưng với tính cách là trình độ phản ánh cao nhất của ý thức đạo đức -
một hình thái ý thức xã hội đặc biệt - lý luận đạo đức phản ánh bản chất của tồn tại xã hội
mà cụ thể là các quan hệ sản xuất, biểu hiện ra là các quan hệ lợi ích. Cho nên đạo đức
cách mạng kế thừa đặc điểm chung của hệ thống lý luận đạo đức trong lịch sử, phản ánh
quan hệ lợi ích các giai cấp, các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Sự khác nhau căn bản
giữa đạo đức cách mạng với các kiểu đạo đức trước đây được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, đạo đức cách mạng mang tính cách mạng và khoa học.
Đạo đức cách mạng là đạo đức phản ánh lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân,
mang bản chất giai cấp công nhân, giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đi đến thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và đi lên
CNXH. Mục tiêu lý tưởng đó phù hợp với quy luật vận động phát triển của lịch sử xã hội,
đồng thời phù hợp với quy luật tiến bộ của đạo đức nhân loại, vì nó hướng tới mục tiêu
giải phóng triệt để con người khỏi sự áp bức bất công trong xã hội. C.Mác đã từng nhấn
mạnh: "phải lật đổ tất cả những quan hệ biến con người thành một sinh vật bị làm nhục,
bị nô dịch, bị bỏ rơi, bị khinh rẻ" [44, tr.581]. Mặt khác chính sự nghiệp cách mạng của
giai cấp công nhân đòi hỏi lý luận nói chung và lý luận đạo đức nói riêng phải đạt đến
trình độ khoa học mới đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cải tạo xã hội do giai cấp công
nhân và nhân dân lao động tiến hành.
Tính cách mạng và khoa học của lý luận đạo đức cách mạng không chỉ thể hiện ở sự
phản ánh sáng tạo thực tiễn cách mạng Việt Nam với tư cách là nguồn gốc chủ yếu của nó, mà
còn thể hiện ở sự phê phán, chọn lọc, kế thừa tinh hoa truyền thống đạo đức của dân tộc và nhân
loại trong quá trình hình thành và phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khái quát: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó
là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Jêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ
nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có
ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta... Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ
của các vị ấy" [67, tr.92].
Tư tưởng đó đã thể hiện thái độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với các di sản tư
tưởng trong lịch sử. Nắm vững phép biện chứng duy vật của Mác, dựa trên cơ sở thực
tiễn cách mạng Việt Nam, Người đã có thái độ khoa học và cách mạng đối với đạo đức
cũ trong việc kế thừa, cải biến những yếu tố hợp lý góp phần hình thành nên lý luận về
đạo đức cách mạng ở Việt Nam.
Sự khác nhau giữa các kiểu đạo đức không phải ở hình thức ngôn ngữ mà thực
chất là ở nội dung - kết quả của sự phản ánh hiện thực đạo đức chứa đựng trong ngôn ngữ
với tư cách là hình thức biểu hiện của nó. Nội dung cơ bản của đạo đức cách mạng được
thể hiện ở: chủ nghĩa tập thể, lao động tự giác sáng tạo, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với
chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa nhân đạo XHCN... Trong các nội dung đó, đạo đức cách
mạng thể hiện rõ tính chất cách mạng và khoa học, là tiêu chí quan trọng để phân biệt sự
khác nhau căn bản giữa đạo đức cách mạng với các kiểu đạo đức trước đây bao gồm: đạo
đức trong xã hội nguyên thủy, đạo đức trong xã hội chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến,
đạo đức tư sản, đạo đức tiểu tư sản, đạo đức tôn giáo... Bởi vì, khi xem xét phẩm chất đạo
đức là xem xét ở khía cạnh tốt - xấu, tích cực - tiêu cực, thiện - ác, cao thượng hay thấp
hèn... tức là thẩm định giá trị. Khác với các hệ giá trị đạo đức cũ, đạo đức cách mạng là
hệ giá trị đạo đức tiên tiến, phù hợp với sự phát triển, sự tiến bộ của con người và xã hội.
Thực tiễn cách mạng nước ta cũng đã khẳng định những giá trị đạo đức của xã hội Việt
Nam hơn nửa thế kỷ qua. Mặc dù tính cách mạng và khoa học của đạo đức cách mạng
được thể hiện trong hệ thống những nguyên tắc cơ bản trên, song nó không mang tính cố
định, giáo điều mà đòi hỏi phải được bổ sung, ph