Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược lâu
dài của Đảng và Nhà nước Lào. Trong những giai đoạn lịch sử cách mạng trước đây, vấn
đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đã có sự quan tâm nhất định, nhưng nói chung
chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới. Bước vào thời kỳ
phát triển kinh tế thị trường, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ giữa dân tộc và
quốc tế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phấn đấu vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở cần được nhận thức một cách sâu sắc và toàn diện hơn. ở
các vùng miền núi xa xôi trong quá trình chuyển mình phát triển cùng với sự phát triển
chung của đất nước, hòa nhập với khu vực và quốc tế điều này lại càng có ý nghĩa quan
trọng. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động văn hóa hiện nay là phát huy
vai trò của văn hóa ở cấp cơ sở bản, làng, làm cho văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh
thần, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nước Lào.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng núi Xay Sổm
Bun nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới" vừa có ý nghĩa lý
luận vừa có nghĩa thực tiễn cấp bách. Đề tài góp phần làm sáng tỏ nhận thức về vai trò
của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi của Lào nói chung và ở khu
Xay Sổm Bun nói riêng. Đồng thời, qua sự khảo sát nghiên cứu đời sống văn hóa ở khu
Xay Sổm Bun, luận văn sẽ góp phần đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của công tác văn hóa trên địa bàn khu vực này, và qua đó góp phần xây dựng đời sống
văn hóa của nước Lào trong thời kỳ đổi mới.
84 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1880 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng núi Xay Sổm Bun nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng núi
Xay Sổm Bun nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược lâu
dài của Đảng và Nhà nước Lào. Trong những giai đoạn lịch sử cách mạng trước đây, vấn
đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đã có sự quan tâm nhất định, nhưng nói chung
chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới. Bước vào thời kỳ
phát triển kinh tế thị trường, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ giữa dân tộc và
quốc tế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phấn đấu vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở cần được nhận thức một cách sâu sắc và toàn diện hơn. ở
các vùng miền núi xa xôi trong quá trình chuyển mình phát triển cùng với sự phát triển
chung của đất nước, hòa nhập với khu vực và quốc tế điều này lại càng có ý nghĩa quan
trọng. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động văn hóa hiện nay là phát huy
vai trò của văn hóa ở cấp cơ sở bản, làng, làm cho văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh
thần, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nước Lào.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng núi Xay Sổm
Bun nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới" vừa có ý nghĩa lý
luận vừa có nghĩa thực tiễn cấp bách. Đề tài góp phần làm sáng tỏ nhận thức về vai trò
của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi của Lào nói chung và ở khu
Xay Sổm Bun nói riêng. Đồng thời, qua sự khảo sát nghiên cứu đời sống văn hóa ở khu
Xay Sổm Bun, luận văn sẽ góp phần đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của công tác văn hóa trên địa bàn khu vực này, và qua đó góp phần xây dựng đời sống
văn hóa của nước Lào trong thời kỳ đổi mới.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng và Nhà nước Lào về vai trò của văn
hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi trong quá trình đổi mới hiện nay.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng đời sống văn hóa ở khu vực
miền núi Xay Sổm Bun trong thời gian vừa qua, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của
công tác này trong quá trình phát triển của khu vực.
- Đề xuất những giải pháp góp phần giữ gìn, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc
đồng thời phát huy vai trò động lực của văn hóa đối với sự phát triển đời sống kinh tế - xã
hội của khu Xay Sổm Bun hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các
quan điểm đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Lào về xây dựng nền văn hóa
mới và phát triển miền núi làm phương pháp nghiên cứu cơ bản. Luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như so sánh, tổng hợp, thống kê và điều tra xã
hội học để thực hiện các nhiệm vụ do đề tài đặt ra.
4. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề xây dựng đời sống văn hóa nói chung, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở
miền núi nói riêng đã được nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Lào quan
tâm. Tiêu biểu là các ý kiến của đồng chí Kay Sỏn Phôm Vi Hản trong cuốn sách "Xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở địa bàn và chính sách của Đảng đối với các dân tộc của
Lào" do Nhà xuất bản Quốc gia Lào xuất bản, 13/12/1995.
Ngoài công trình của đồng chí Kay Sỏn Phôm Vi Hản còn có một số công trình
đề cập tới văn hóa ở miền núi như tác phẩm "Văn hóa và lễ hội của các dân tộc vùng Xay
Sổm Bun" của đồng chí Nọi Chăn Sa Mọn (1998) và công trình nghiên cứu về Vùng dân
tộc của Koong Kẹo (1999).
Những công trình đó đã có những đóng góp đáng kể trong việc làm rõ bản sắc
văn hóa dân tộc và vai trò, vị trí của việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nhận diện
đặc trưng văn hóa của vùng đặc biệt là bản làng cổ truyền Lào. Bên cạnh những công
trình trên còn có một số cuốn sách của Viện Nghiên cứu quốc gia Lào bàn về xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở trong những năm gần đây. Ngoài ra còn có một số công trình
nghiên cứu về khu Xay Sổm Bun như:
- Vấn đề dân tộc ở Long Chạnh của Cha Lân Dơ Pao Hơ.
- Lễ hội truyền thống của các dân tộc Mương Xay Sổm Bun của Nọi Súc Ma La.
- Đời sống kinh tế của nhân dân Xay Sổm Bun của Nọi Súc Ma La.
- Lịch sử chiến tranh Phả Thi (1945 - 1975).
- Dân ca Sảo Long Chạnh.
Đó là những công trình đề cập tới những lĩnh vực khác nhau của đời sống chính trị,
văn hóa, xã hội của khu ít nhiều đã đề cập tới đời sống văn hóa cơ sở ở đây.
Có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu nào đề cập một
cách hệ thống vấn đề "Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng núi Xay Sổm Bun nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới". Vì vậy, đề tài này không trùng
lặp với bất cứ công trình khoa học nào đã công bố từ trước tới nay.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài "Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng núi Xay Sổm Bun nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới" là loại đề tài vừa có ý nghĩa lý thuyết vừa có ý
nghĩa thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hệ thống hóa những quan niệm chung về xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở vùng miền núi, làm rõ đặc thù của khu Xay Sổm Bun trong quá
trình đổi mới hiện nay, khảo sát thực trạng đời sống văn hóa ở đây, tập trung ở lĩnh vực
văn hóa tinh thần, gắn liền với lối sống, phong tục tập quán, sinh hoạt, giải trí và tổ chức
hoạt động văn hóa cộng đồng là chủ yếu. Về thời gian khảo sát, trọng tâm là khoảng từ 1988
đến nay.
Từ 1988 đến nay là khoảng thời gian có nhiều sự kiện về chính trị kinh tế, xã hội
tác động sâu sắc đến quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở bản làng và cũng là cơ sở để
đặt ra và giải quyết các vấn đề bức thiết của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa sắp tới
của Lào.
6. Những đóng góp của luận văn
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Đảng và Nhà nước Lào về vai trò
của văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội ở vùng miền núi trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
- Đề tài khảo sát phân tích và đánh giá có hệ thống thực trạng văn hóa cơ sở ở
vùng Xay Sổm Bun hiện nay, đề ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở vùng Xay Sổm Bun trong sự nghiệp đổi mới
hiện nay của Lào.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn bao
gồm 3 chương:
Chương 1: Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng núi
của nước Lào hiện nay.
Chương 2: Khái quát thực trạng đời sống văn hóa ở các bản làng khu Xay Sổm
Bun.
Chương 3: Một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
xây dựng đời sống văn hóa ở các bản làng vùng Xay Sổm Bun.
Chương 1
Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội ở vùng núi của nước Lào hiện nay
1.1. Quan niệm chung về văn hóa
"Văn hóa" là thuật ngữ đa nghĩa, thường được xem xét từ nhiều khía cạnh khác
nhau. Theo nghĩa rộng, văn hóa là tổng thể những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của một xã
hội, thể hiện trên các mặt vật chất, tinh thần, tri thức và tình cảm, biểu hiện phương thức
sống và sự sáng tạo của một dân tộc. Ngoài văn học nghệ thuật, văn hóa còn gồm hệ
thống giá trị, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo...
Theo nghĩa chung nhất, văn hóa là hoạt động phát huy những năng lực bẩm sinh
và bản chất của con người. Đó là năng lực của nhận thức, hiểu biết, sáng tạo. Là năng lực
tình cảm, cảm xúc, tưởng tượng hướng tới cái chân, thiện, mỹ. Văn hóa là hoạt động của con
người, bằng lao động và tri thức, tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần, tạo ra các chuẩn mực
của xã hội, được thực hiện qua nhiều hoạt động như giáo dục, khoa học, văn học, nghệ
thuật... và trong cả đạo đức, lối sống. Theo nghĩa đó văn hóa bao trùm mọi hoạt động của đời
sống xã hội, cũng như của mọi cá nhân trong cộng đồng. Nó vừa là sản phẩm tinh thần, vừa
là sản phẩm vật chất do lao động của con người tạo ra.
Văn hóa được hình thành và phát triển trong quan hệ thích nghi giữa con người
với thiên nhiên, giữa con người với con người. Trải qua hàng ngàn năm thích nghi và cải
tạo thế giới, những kinh nghiệm mà con người tích lũy được đã trở thành nền tảng cơ bản
cho sự phát triển của văn hóa.
Văn hóa không chỉ bó hẹp trong quan hệ cá nhân gia đình và cộng đồng mà còn
mở rộng trong mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Văn hóa hình thành
trong quá trình tiếp xúc, giao lưu, sàng lọc, cải biến giữa văn hóa bản địa với những nền
văn hóa khác. Do đó, văn hóa bao giờ cũng thể hiện sự đa dạng, phong phú nhưng luôn
mang những nét độc đáo của dân tộc, đồng thời bao hàm tiềm ẩn những giá trị chung
của nhân loại.
Thuật ngữ "văn hóa" theo nghĩa hẹp cổ xưa vốn bắt nguồn từ chữ
la tinh (Cullture) nghĩa là cày cấy, vun trồng - gắn liền với hoạt động nông nghiệp. Sau
này, nội dung đó phát triển thành ý nghĩa hoạt động vun trồng, bù đắp... tinh thần của con
người, gắn chặt với lao động sáng tạo.
Chủ nghĩa Mác - Lênin xem văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội - lịch sử, tiêu biểu cho
trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội [32, tr. 507].
Thông thường người ta chia văn hóa thành văn hóa vật chất (kỹ thuật, kinh
nghiệm sản xuất, giá trị vật chất) và văn hóa tinh thần (khoa học, nghệ thuật và văn học,
triết học, đạo đức, giáo dục...). Văn hóa là một hiện tượng lịch sử, phát triển phụ thuộc
vào sự thay thế các hình thái kinh
tế - xã hội [32, tr. 505].
Thời đại ngày nay là thời đại giao lưu rộng rãi giữa các quốc gia, dân tộc, những
nhận thức mới về văn hóa luôn được bổ sung thêm những nội dung mới, góp phần đáp
ứng yêu cầu phát triển của nhân loại.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa quá trình giao lưu văn hóa giữa các
quốc gia dân tộc, kể cả những nước có chế độ chính trị khác nhau đang diễn ra trên quy
mô rộng lớn và tốc độ nhanh. Sự biến đổi văn hóa của các dân tộc do đó cũng diễn ra
nhanh chóng. Bên cạnh những thời cơ lớn, giao lưu quốc tế khiến cho nhiều nước, nhất
là các nước chậm phát triển về kinh tế, có nguy cơ bị chèn ép và đồng hóa về văn hóa.
Do đó, vấn đề giữ gìn, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc chống nguy cơ
đồng hóa về văn hóa là một trong những thách thức lớn đối với các quốc gia.
Năm 1986, khi phát động Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa (1988 - 1997), ông
Tổng giám đốc UNESCO, Fêdêrico Mayer đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: "Văn hóa
phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá
nhân và của cộng đồng), đã diễn ra trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, qua hàng bao thế
kỷ nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thị hiếu thẩm mỹ và lối sống,
dựa trên cơ sở đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình" [3, tr. 11].
Giáo sư, tiến sĩ A.I. ácnônđốp cho rằng: "Văn hóa là hiện tượng phức tạp và đa
diện. Nó bao gồm cả hoạt động sáng tạo, tức là toàn bộ quá trình sản xuất ra tư tưởng
và vật chất hóa các tư tưởng đó; cả những tính cách của con người như một chủ thể hoạt
động, và cả bản thân nói chung những giá trị vật chất và tinh thần được tạo ra trong quá
trình hoạt động ấy. Một định nghĩa thỏa đáng về văn hóa cần phải bao hàm tất cả các
mặt trên đây" [1, tr. 32].
Nghiên cứu đầy đủ tổng thể các hiện tượng bao chứa trong khái niệm phức tạp này,
A.I.ácnônđốp đã đề xuất một định nghĩa khái quát như sau:
"Văn hóa là hoạt động sáng tạo tích cực của con người (cá thể nhóm xã hội, giai
cấp, dân tộc, xã hội nói chung) thực hiện trong các lĩnh vực sản xuất vật chất và tinh thần,
nắm bắt và khai thác thế giới, quá trình này sẽ sản xuất, bảo quản phân phối, trao đổi và
tiêu thụ những giá trị vật chất và tinh thần mang ý nghĩa xã hội, đồng thời nó là một tổng
hợp chính những giá trị đã vật thể hóa hoạt động sáng tạo của người" [1, tr. 33].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Văn hóa là một kiến trúc thượng
tầng, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi văn hóa mới kiến thiết được và đủ
điều kiện phát triển được" [21, tr. 345]. Đây là một quan niệm khác với quan niệm về văn
hóa trước kia của nhà nho, của các trí thức tư sản đã tách văn hóa khỏi đời sống kinh tế -
xã hội và coi lĩnh vực văn hóa gắn liền với những cách sống cao thượng của tầng lớp
trên. Mặt khác, Người khẳng định rằng: "Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong
kinh tế và chính trị".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi nguồn gốc của các quan hệ và các giá trị văn hóa
gắn liền với trình độ phát triển của sản xuất vật chất. Người cho rằng: "Văn hóa phải gắn
liền với lao động sản xuất" [31]. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nêu bản chất của mọi hiện
tượng văn hóa đều gắn với khả năng sáng tạo của con người. Đảng Cộng sản Việt Nam
đã nêu rõ: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội" [34, tr. 110].
Từ các quan niệm đó, chúng ta có thể thấy rằng: văn hóa là sự phát triển năng lực
của con người trong quá trình không ngừng nâng cao trình độ làm chủ của mình đối với
tự nhiên, xã hội và bản thân, nhằm thỏa mãn nhu cầu về tinh thần và vật chất trong hoạt
động thực tiễn hướng tới các giá trị nhân văn.
Chính lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh điều đó. Con người
vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của văn hóa. Trên hành tinh này không có gì quý hơn con
người. Thực chất chiến lược văn hóa cũng là chiến lược con người. Nếu văn hóa là sự
phát triển năng lực, khẳng định bản chất của con người theo hướng ngày càng đạt tới cái
đúng, cái tốt và đẹp, thì sự phát triển của văn hóa phải hướng vào con người, phát hiện ra
bản chất con người và hoàn thiện nó cả về thể chất và tâm hồn, cả về trí tuệ và đạo đức.
Những năng lực của con người và quá trình làm chủ của con người với tự nhiên
và xã hội, đã làm cho "thiên nhiên thứ nhất" biến thành "thiên nhiên thứ hai", đây là bước
phát triển của văn minh nhân loại. Vì lẽ đó mà lâu nay có sự đồng nhất giữa văn hóa và
văn minh. Thực ra văn hóa và văn minh có sự gắn bó hết sức chặt chẽ nhưng đồng thời
cũng có sự khác biệt.
Văn minh gắn bó chặt chẽ với văn hóa, vì văn minh và văn hóa đều chỉ trình độ
làm chủ tự nhiên, xã hội và làm chủ bản thân của con người, đều là những hình thái cơ
bản của nhận thức và hoạt động sáng tạo cải tạo thế giới của con người. Văn minh là bộ
phận cấu thành văn hóa, là sự tồn tại xã hội của bản thân văn hóa và ngược lại giá trị văn
hóa có khả năng đem lại một ý nghĩa, một động lực, một định hướng nhất định cho hoạt
động của con người tạo thành cơ sở cho nền văn minh. Do vậy, không có nền văn minh
nào tách rời các giá trị văn hóa và cũng không có văn hóa nào đối lập hoàn toàn với văn
minh.
Tuy vậy, văn hóa và văn minh cũng có sự khác biệt nhất định:
Văn hóa gồm có văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần trong khi đó văn minh
nghiêng về sự sáng tạo, làm chủ các quy luật tự nhiên, các hoạt động vật chất trong đời
sống xã hội, văn minh chủ yếu chỉ trình độ phát triển của văn hóa vật chất. Mặt khác, văn
hóa thường gắn chặt với từng dân tộc, còn văn minh chỉ trình độ chung về khoa học kỹ
thuật cho nhiều dân tộc, nó mang tính khu vực và tính quốc tế. Chẳng hạn, văn minh
phương Đông, văn minh phương Tây, văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp...
Văn hóa mang bề dày lịch sử với sự bền vững, trường tồn của nó, còn văn minh
chỉ là những giai đoạn lịch sử tương đối ngắn. Vì vậy giai đoạn phát triển của văn hóa và
giai đoạn văn minh không trùng khít với nhau.
Văn hóa giàu tính nhân văn, luôn hướng tới giá trị vĩnh hằng đó là Chân, Thiện,
Mỹ, còn văn minh thì luôn hướng tới sự hợp lý hóa cuộc sống, sự thuận tiện, tính hiệu
quả trong công việc. Do đó, bên cạnh cái có ích, cái tích cực, trong một thời đại văn minh
hoạt động của con người cũng có thể mang lại những hiểm họa, như những vấn đề toàn
cầu mà loài người đang phải đối phó như sự ô nhiễm môi trường, đói nghèo, HIV/ AISD
hậu quả tiêu cực của kinh tế thị trường... Trong khi đó văn hóa là sự sáng tạo vươn tới
các giá trị nhân văn, nâng đỡ cho hạnh phúc của con người.
Mọi hoạt động hướng tới làm tha hóa tiêu diệt con người, con người đều là phản
văn hóa.
Chính vì vậy, trong hoạt động phát triển xã hội, văn hóa là nhân tố cốt lõi nhất.
Những hoạt động xã hội nào đi ngược lại giá trị văn hóa, giá trị Chân, Thiện, Mỹ đều
phải bị xem là những hiện tượng phản văn hóa.
Đảng nhân dân Cách mạng Lào ngày càng nhận thức đầy đủ hơn ý nghĩa và vai
trò của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII đã viết: "Văn hóa là vốn quý giá nhất của đất nước, nó vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội" [33, tr. 91].
1.2. Vai trò của văn hóa trong sự phát triển kinh tế - xã hội miền núi Lào
ngày nay
1.2.1. Một số đặc điểm vùng núi Lào trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa hiện nay
Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào nằm dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam ở
nội địa bán đảo Đông Dương, có đường biên giới chung khép kín với năm nước.
Phía Đông giáp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nước xã hội chủ
nghĩa đầu tiên ở khu vực Đông Nam á, cùng chung đường biên giới dài 1.957 km. Đây là
đường biên giới hữu nghị. Trên đường biên giới có các đèo Mường - xem, Mụ Giạ, Lao
Bảo, Na meo, v.v... là những cửa khẩu mở cho nhân dân hai nước Lào - Việt Nam đi lại,
trao đổi hàng hóa và giao lưu văn hóa với nhau.
Phía Tây giáp Vương quốc Thái Lan, cùng chung đường biên giới dài 1.730
km, trong đó có dòng sông Mê Công dài: 1.500 km. Sông Mê Công vừa là đường biên
giới pháp lý quốc tế vừa là mạch máu kinh tế của nhân dân hai nước Lào - Thái Lan.
Đây cũng là "hàng rào" chiến lược ngăn chặn âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và chủ
nghĩa Đại Thái chống phá cách mạng Lào.
Chắn ngang ở phía Bắc Lào là nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, nước xã hội
chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt.
Nằm ở phía Nam là Vương quốc Campuchia, có chung đường biên giới dài 492
km. Phía tây Bắc, Lào giáp với Liên bang xã hội chủ nghĩa Miến Điện. Đường biên giới
là sông Mê Công, dài 230km.
Có thể nói, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào như là cửa ngõ và cầu nối giữa các
nước Đông - Tây, Nam - Bắc, các nước lục địa với các nước Đông Nam á. Nhà văn
Xipasợt của Lào đã ví đất nước Lao Lạn - Xạng tươi đẹp như một bông hoa Chăm pa
đang nở trong buổi bình minh của ngày tháng mùa xuân. Hoa chăm pa có nhụy với mùi
vị thơm ngát nằm ở trung tâm của năm cánh bên cạnh. Lời ca ngợi đó thật đúng vì trong
thực tế Lào không bao giờ xa rời một quan hệ mật thiết với năm nước bên cạnh. Trong
mỗi một thời đại Lào tất yếu chịu ảnh hưởng về sự thay đổi các mặt kinh tế, chính trị văn
hóa của những nước liền kề cũng như các nước khác.
Không có đường biên giới biển, muốn tiếp xúc với biển, Lào phải sử dụng các
cảng ở miền Trung Việt Nam, chủ yếu là: Cửa Lò, Đông Hà, Vinh, Bến Thủy, Đà Nẵng.
Lào nằm trên bán đảo Đông Dương có diện tích 2.368.000 km2, trong đó diện
tích vùng núi và cao nguyên chiếm 90%. Đồng bằng chỉ chiếm 10%. Căn cứ vào địa hình
người ta chia Lào thành hai khu vực Thượng Lào và Hạ Lào.
Thượng Lào là miền đồi núi cao, cao nguyên từ tỉnh Say Nha Bu Ly, Bo Kẹo,
Luông Pha Bang, Xay Sổm Bun, Xiêng Khoảng, Ô đôm xay, Phông Xa Lỵ, Hủa Phăn...
Hạ Lào từ thung lũng sông Ca Đinh thuộc tỉnh Bọ Ly Khăm Xay đến Chăm Pa
Sắc và át Ta Pư, phần lớn địa hình là cao nguyên có bề mặt bằng phẳng và độ cao giảm
dần từ dãy núi Phu Luông (Trường Sơn) đến đồng bằng thung lũng sông Mê Công.
Dân số nước Lào khoảng năm triệu người ( năm 2000). Trên lãnh thổ Lào có 68 bộ
tộc (dân tộc) anh em, chia làm ba nhóm. Những dân tộc có dân số lớn là: Người Lào Lùm có
trình độ văn hóa, kinh tế và tổ chức xã hội