Đề tài Xây dựng mô hình quản lý rừng đầu nguồn dựa vào cộng đồng dân tộc thiểu số Tây Nguyên - Việt Nam

Địa điểm, quy mô vùng dự án: Lưu vực đầu nguồn Suối Dak RTih đổ về sông Đồng Nai, nơi cư trú và canh tác của cộng đồng dân tộc thiểu số M’Nông. Triển khai trên 04 buôn của 02 xã Dak RTih và Quảng Tân, thuộc huyện Dăk Rlắp, tỉnh Dăk Nông, Việt Nam. Quy mô vùng dự án có diện tích 5,790 ha

pdf13 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1972 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Xây dựng mô hình quản lý rừng đầu nguồn dựa vào cộng đồng dân tộc thiểu số Tây Nguyên - Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mô tả đề xuất dự án nghiên cứu Tên dự án: Xây dựng mô hình quản lý rừng đầu nguồn dựa vào cộng đồng dân tộc thiểu số Tây Nguyên - Việt Nam Địa điểm, quy mô vùng dự án: Lưu vực đầu nguồn Suối Dak RTih đổ về sông Đồng Nai, nơi cư trú và canh tác của cộng đồng dân tộc thiểu số M’Nông. Triển khai trên 04 buôn của 02 xã Dak RTih và Quảng Tân, thuộc huyện Dăk Rlắp, tỉnh Dăk Nông, Việt Nam. Quy mô vùng dự án có diện tích 5,790 ha Cơ quan chủ trì: Bộ môn Quản lý tài nguyên rừng thuộc khoa Nông Lâm, trường Đại học Tây Nguyên. - Chủ trì: PGS.TS. Bảo Huy, trưởng bộ môn - Thành viên nòng cốt gồm 12 giảng viên của bộ môn có học vị Tiến sĩ, Thạc sĩ về các chuyên môn về lâm nghiệp xã hội, nông lâm kết hợp, khuyến nông lâm, quản lý lưu vực dựa vào cộng đồng, phát triển cộng đồng, quy hoạch sử dụng đất, GIS. Cơ quan, địa phương tham gia dự án: Dự án được triển khai trên hiện trường và thu hút sự tham gia của các bên liên quan từ cấp tỉnh cho đến cộng đồng thôn buôn, điều này tạo ra cơ chế hợp tác cũng như thể chế hoá và lan rộng các kinh nghiệm thành công. - Cấp tỉnh: Sở Tài Nguyên Môi trường và Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Dak Nông - Cấp huyện: Lãnh đạo huyện Dăk RLắp, các phòng Nông nghiệp địa chính, trạm khuyến nông và lâm trường Quảng Tân - Cấp xã: Lãnh đạo của 02 xã Dak RTih và Quảng Tân, ban lâm nghiệp của các xã - Cấp thôn buôn: Lãnh đạo buôn làng, già làng và toàn bộ người dân tộc thiểu số M’Nông của 4 buôn trong 2 xã dự án Thời gian tiến hành dự án: 3 năm, từ 1/1/2005 đến 31/12/2007 1 Lý do hình thành dự án Vùng núi Tây Nguyên là nơi cư trú của các cộng đồng dân tộc thiểu số, phân bố buôn làng thường theo các lưu vực để canh tác và sử dụng nguồn nước tự nhiên cho sinh hoạt. Tuy nhiên trong một vài thập kỹ qua các khu vực này đứng trước nguy cơ phát triển không bền vững, trong đó có nguyên nhân là quản lý và sử dụng đầu nguồn tại vùng cao chưa hợp lý. Một số vấn đề nổi lên trong thời gian quan liên quan đến quản lý lưu vực ở các cộng đồng vùng cao Tây Nguyên: - Đất đai sử dụng thiếu quy hoạch, đặc biệt là chưa quan tâm đến quy hoạch các lưu vực trong hệ thống phát triển sản xuất. Điều này dẫn đến một số diện tích rừng đầu nguồn ven sông suối bị phá đi để lấy đất canh tác nông nghiệp - Quyền quản lý và kiểm soát các lưu vực đầu nguồn của các cộng đồng dân tộc thiểu số chưa được xem xét để phát huy sự tham gia của cộng đồng trong quản lý đất và nguồn nước - Áp lực của thị trường cây công nghiệp lên vùng cao như trồng cà phê, cao su, trồng rừng nguyên liệu đã tác động đến sự an toàn của các khu vực cần bảo vệ để duy trì nguồn nước. Đặc biệt là sự phát triển cây cà phê, một cây cần nhiều nước tuới trong 2 mùa khô đã làm thay đổi đáng kể sự cân bằng nước vùng cao kể cả dòng chảy mặt cũng như mạch nước ngầm - Thể chế tổ chức để quản lý rừng đầu nguồn chưa được phát triển, trong khi đó các truyền thống quản lý rừng đầu nguồn của các cộng đồng dân tộc thiếu số chưa được đánh giá và phát huy. Những vấn đề trên đã gây ra các tác động đến phát triển bền vững của các cộng đồng vùng cao và ảnh hưởng đến các khu vực dân cư ở hạn nguồn cũng như các cơ sở hạ tầng thuỷ lợi, thuỷ điện. Những tác động hiện tại và tiềm năng là: - Đất đai canh tác vùng cao nhanh chóng xói mòn vì chưa có biện pháp hạn chế dòng chảy mặt - Lũ quét thường xuất hiện trong mùa mưa gây thiệt hại mùa màng và tính mạng của cư dân trong vùng - Chất lượng nguồn nước cho tiêu dùng, sinh hoạt bị ô nhiểm do hệ thống canh tác sử dụng chất hoá học cũng như do rửa trôi đất mặt - Mất cân bằng nguồn nước giưã hai mùa mưa và màu khô ảnh hưởng đến canh tác, tưới tiêu nước - Ảnh hưởng đến hệ thống thuỷ lợi và thuỷ điện bên dưới nguồn Với các lý do đó cần thiết có những chương trình dự án hỗ trợ cộng đồng địa phương và chính quyền địa phương trong việc nâng cao nhận thức về quản lý đầu nguồn và có những chương trình kế hoạch hành đồng thiết thực, cụ thể cho từng vùng lưu vực để góp phần bảo vệ nguồn nước phục vụ cho đời sống của người dân địa phương và đóng góp vào phát triển bền vững kinh tế, xã hội và môi trường. 2 Mục đích dự án Mục đích phát triển (Development Goal) Các vùng đầu nguồn được quản lý bền vững góp phần phát triển bền vững kinh tế, xã hội và môi trường vùng cao Mục đích dự án (Project Goal) Phát triển mô hình quản lý đầu nguồn dựa vào cộng đồng dân tộc thiểu số góp phần quản lý nguồn nước và cải thiện sử dụng đất rừng vùng dự án. Mục tiêu dự án (Objetcives) Dự án nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể sau: 1. Nâng cao nhận thức và năng lực cho cộng đồng và các bên liên quan trong quản lý các lưu vực đầu nguồn 2. Phát triển phương pháp quy hoạch, giao đất giao rừng và phát triển công nghệ công nghệ có sự tham gia để quản lý rừng, đất đai trong lưu vực. 3. Các kinh nghiệm quản lý lưu vực được tài liệu hoá, thể chế hoá ở địa phương vùng cao 3 Ma trận lập dự án PPM (2005 - 2007) Mục đích phát triển Các vùng đầu nguồn được quản lý bền vững góp phần phát triển bền vững kinh tế, xã hội và môi trường vùng cao Mục đích Phát triển mô hình quản lý đầu nguồn dựa vào cộng đồng dân tộc thiểu số góp phần quản lý nguồn nước và cải thiện sử dụng đất rừng vùng dự án. Tóm tắt Chỉ thị đo lường Phương pháp kiểm tra (MoV) Giả định Mục tiêu 1 Nâng cao nhận thức và năng lực cho cộng đồng và các bên liên quan trong quản lý các lưu vực đầu nguồn - Cộng đồng có khả năng tham gia vào việc đánh giá, lập kế hoạch quản lý đất đai lưu vực họ sinh sống - Có sự hợp tác chặt chẻ giữa cộng đồng và các bên liên quan trong quản lý lưu vực. - Báo cáo 6 tháng và năm - Báo cáo tác động 04 buôn lựa chọn và các bên liên quan từ cấp xã đến tỉnh cam kết tham gia Kết quả mong đợi 1.1. Các đánh giá hiện trạng quản lý đầu nguồn được thực hiện với sự tham gia của cộng đồng và các bên liên quan - Đến giữa năm đầu tiên một báo cáo đánh giá hiện trạng quản lý đầu nguồn vùng dự án được hoàn thành - Đến năm cuối cùng của dự án (2007) báo cáo đánh giá về sự thay đổi trong nhận thức cũng như hoạt động quản lý đầu nguồn được thực hiện nhằm đánh giá tác động của dự án - Báo cáo đánh giá quản lý lưu vực đầu tiên (6/2005) - Báo cáo tác động (11/2007) 4 Tóm tắt Chỉ thị đo lường Phương pháp kiểm tra (MoV) Giả định 1.2. Các khoá tập huấn về quản lý lưu vực dựa vào kiến thức bản địa được phát triển đáp ứng nhu cầu quản lý đầu nguồn và phát triển kinh tế của cộng đồng - Kiến thức bản địa được nghiên cứu phát hiện và tài liệu hoá đến cuối năm 2005. Kết quả của nó kết hợp với các quy chế phòng hộ đầu nguồn để thiết kế các khoá đào tạo - Đến tháng 12 năm 2005, 2 khoá tập huấn trọn gói được thực hiện để nâng cao năng lực cho CB địa phương và các bên liên quan để họ có khả năng áp dụng kỹ năng mới trong việc nhằm hỗ trợ cho cộng đồng quản lý đầu nguồn - Các tài liệu trọn gói về kỹ thuật - Tài liệu tập huấn và báo cáo - Báo cáo tác động Có sự hợp tác và quan tâm của lãnh đạo cấp xã, huyện để tổ chức các tập huấn Mục tiêu 2 Phát triển phương pháp quy hoạch, giao đất giao rừng và phát triển công nghệ công nghệ có sự tham gia để quản lý rừng, đất đai trong lưu vực - Phương pháp quy hoạch lưu vực, giao đất giao rừng dựa vào cộng đồng và phát triển công nghệ có sự tham gia được cấp thẩm quyền phê chuẩn để áp dụng trong vùng dự án - Các phuơng pháp này được chia sẻ và lan rộng trong các buôn và địa phương khác bởi cán bộ kỹ thuật cấp huyện, tỉnh - Các thử nghiệm phát triển công nghệ giúp nâng cao hiệu quả canh tác đất và quản lý nguồn nước trong từng buôn - Bản phê chuẩn áp dụng quy hoạch và công nghệ sử dụng đất đầu nguồn - Báo cáo tác động Cấp tỉnh, huyện cam kết hỗ trợ cho tiến trình thử nghiệm phương pháp Kết quả mong đợi 2.1. Quy hoạch sử dụng đất và giao đất giao rừng đầu nguồn cho cộng đồng có sự tham gia được thử nghiệm và phát triển - Mỗi năm có hai buôn được tiến hành quy hoạch sử dụng đất và giao đất rừng đầu nguồn để quản lý - Cộng đồng hài lòng và áp dụng quy hoạch vào trong canh tác và quản lý đất đai đầu nguồn - Bản đồ quy hoạch - Bản phương án quy hoạch - Báo cáo tác động UBND huyện có vai trò tích cực trong trao đổi thông tin và điều phối hoạt động 5 Tóm tắt Chỉ thị đo lường Phương pháp kiểm tra (MoV) Giả định 2.2. Phương pháp phát triển công nghệ có sự tham gia (PTD ) theo chủ đề quản lý đầu nguồn được áp dụng để cải tiến sử dụng đất rừng bền vững về kinh tế và phòng hộ - Bốn đợt khởi xướng PTD được triển khai ở 4 buôn. Mỗi năm 2 buôn. - Các kỹ thuật công nghệ mới đáp ứng được nhu cầu cộng đồng trong sử dụng đất và góp phần bảo vệ nguồn nước. Mỗi buôn có ít nhất 2 thử nghiệm canh tác đất dốc, quản lý đất ven suối có hiệu quả vào cuối năm 2006 - Báo cáo khởi xướng và kết quả PTD hàng năm - Báo cáo tác động - Có sự hỗ trợ và tham gia của ngành địa chính và khuyến nông lâm để chuẩn bị cho lan rộng phương pháp tiếp cận hiệu quả Mục tiêu 3 Các kinh nghiệm quản lý lưu vực được tài liệu hoá, thể chế hoá ở địa phương vùng cao - Kết quả của những thực tiễn ưu việt được tài liệu hoá và chia sẻ với các bên liên quan - Cán bộ địa phương bắt đầu sử dụng phương pháp tiếp cận mới cho các vùng khác - Các tài liệu hướng dẫn về phương pháp - Báo cáo tác động - Lãnh đạo địa phương hỗ trợ cho việc tổ chức các hội thảo đánh giá và tập huấn để phát triển viêc ứng dụng phương pháp mới Kết quả mong đợi 3.1. Các thực tiến quản lý đầu nguồn tốt được tài liệu hoá - Có 02 hướng dẫn về quy hoạch đầu nguồn và phát triển công nghệ được xây dựng, in ấn và phân bổ cho các bên liên quan vào giữa năm 2007 - Có ít nhất 03 hướng dẫn kỹ thuật canh tác vùng đầu nguồn được xây dựng vào giữa năm 2007 - Các tài liệu hướng dẫn - Lãnh đạo huyện và Sở Tài Nguyên môi trường hỗ trợ cho việc lan rộng sử dụng các hướng dẫn 3.2. Các thực tiễn, phương pháp quản lý đầu nguồn dựa vào cộng đồng được thể chế hoá trong hoạt động quy hoạch sử dụng đất - Phương pháp quản lý đầu nguồn được cán bộ quy hoạch áp dụng ở các buôn khác - Báo cáo tác động - Lãnh đạo huyện và Sở Tài Nguyên môi trường phê chuẩn các hướng dẫn để cho phép áp dụng rộng 6 3 Thông tin về vùng dự án đề xuất 3.1 Kinh tế, xã hội Vùng dự án đề xuất nằm trong lưu vực đầu nguồn thuộc huyện Đak R'Lâp, bao gồm 2 xã Quảng Tân và Đak R'Tih, nằm về phía tây nam cách trung tâm tỉnh Đak Nông 40Km. Thành phần dân tộc chủ yếu là đồng bào thiểu số người M'Nông, cùng với một số cộng đồng di cư phía bắc vào như Tày, Nùng và người Kinh sinh sống. Theo số liệu thống kê năm 2002 thì dân số của 2 xã trong vùng dự án như sau Dân số và thành phần dân tộc 2 xã Xã Đak R'Tih Quảng Tân Tổng Số hộ 962 1,374 3,380 Nhân khẩu 4,231 6,046 14,873 Số thôn buôn 6 7 19 % đồng bào dân tộc thiểu số 83 32 Dân số trong vùng tăng nhanh trong khoảng vài ba thập kỷ gần đây, theo số liệu thống kê dân số 3 xã tăng trong các năm như sau Tăng dân số ở 2 xã Xã Đak R'Tih Quảng Tân Năm 1992 1999 2002 1992 1999 2002 Số hộ 538 561 962 373 1,129 1,374 Số khẩu 2,692 3,344 4,231 1,865 5,370 6,046 Hiện tại mật độ dân số trong vùng là 27 người/km2. Sự gia tăng dân số ở đây chủ yếu là do gia tăng cơ học bởi sự di dân tự do của nhiều người dân ở vùng khác đến. Người mới đến đã chiếm phá rừng để lấy đất canh tác nông nghiệp, trong đó đáng kể nhất là do tác động của thị trường giá cả tăng cao nên phổ biến hiện tượng phá rừng để trồng cây công nghiệp hàng hóa chủ yếu là cà phê và những năm gần đây là trồng cao su. Người mới đến định cư đã mua bán, tranh chấp đất đai với người dân tại chỗ gây nên những xáo trộn lớn trong quản lý sử dụng đất, rừng tại địa phương. Đây chính là nguyên nhân làm cho diện tích và chất lượng rừng của địa phương suy giảm mạnh trong những năm qua. Với thực trạng trên, trong những năm qua chính quyền địa phương và các cơ quan liên quan đã có những giải pháp lớn nhằm ổn định và phát triển sản xuất, hạn chế tác động đến tài nguyên như định canh định cư, đẩy mạnh công tác khuyến nông lâm, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tấng, giao đất giao rừng…Tuy nhiên hiệu quả của các giải pháp đạt được cho đến nay là rất hạn chế, chủ yếu bởi các nguyên nhân: - Định canh định cư chỉ căn căn cứ vào các yếu tố kinh tế kỹ thuật mà chưa chú trọng yếu tố văn hóa xã hội, chưa xem xét lồng ghép quản lý đất rừng theo truyền thống. - Các chương trình phát triển nông thôn còn mang tính áp đặt từ trên xuống, chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu của người dân, thiếu sự tham gia của người dân - Chưa có quy hoạch sử dụng tài nguyên đất, rừng theo hướng lâu dài bền vững, đặc biệt là vai trò phòng hộ đầu nguồn của khu vực. 7 Phần lớn đời sống người dân trong vùng dựa vào nông nghiệp, trong đó canh tác nương rẫy để giải quyết lương thực tại chỗ là phổ biến đối với đồng bào dân tộc, trong 10 năm gần đây cây công nghiệp cũng từng bước được phát triển như cà phê, cao su, điều. Ngoài ra để định canh định cư nhiều xã đã được phát triển thuỷ lợi để hình thành các khu canh tác lúa nuớc với mục đích làm giảm áp lực lên tài nguyên rừng. Quỹ đất đai được quy hoạch cho nông nghiệp hiện tại cho người dân tại chỗ là thấp, chưa có điều kiện đầu tư thâm canh nên năng suất thấp. Diện tích canh tác nông nghiệp của 2 xã năm 2002 Xã Đak R'Tih Quảng Tân Tổng Diện tích lúa nước (ha) 117 65 292 Diện tích lúa rẫy (ha) 60 55 195 Diện tích cà phê (ha) 850 2,785 4,838 Diện tích tiêu(ha) 31 19 113 Diện tích điều (ha) 96 104 200 Diện tích cao su (ha) 713 192 1,491 Tổng 1,907 3,264 Thu nhập của hộ gia đình trong vùng chủ yếu từ hai nguồn là nông nghiệp (lúa, ngô, cà phê, điều) và lâm sản ngoài gỗ, đối với nhiều hộ nghèo thì thu nhập từ các sản phẩm từ rừng chiếm phần quan trọng. Thành phần kinh tế hộ gia đình: Hộ khá, đủ ăn 15%; hộ trung bình: 34%, hộ nghèo đói 51%. Đời sống và canh tác của người dân trong vùng có liên quan mật thiết với nguồn nước tự nhiên. Cộng đồng bản địa có tập quán truyền thống định cư và canh tác theo nguồn nuớc suối, buôn làng sử dụng nguồn nước suối để sinh hoạt, canh tác lúa nước và tưới tiêu cho cây trồng, đặc biệt là cà phê. Nhiều hộ sử dụng năng lượng của các suối để xây dựng các thuỷ điện nhỏ, cung cấp điện sinh hoạt cho gia đình. Mặt khác đây còn là vùng đầu nguồn tích nước cho nhà máy thuỷ điện Trị An trên sông Đồng Nai. Hệ thống giao thông trong huyện phát triển khá nhanh, đường quốc lộ và liên xã được nâng cấp nhựa hóa theo chương trình 135, đường liên thôn được rãi đất cấp phối thuận lợi cho việc đi lại và giao lưu hàng hóa. Các xã đều có bưu điện, hệ thống thông tin liên lạc đang được cải thiện đáng kể. Phần lớn các thôn trong xã đều đã có điện lưới quốc gia. Các xã đều có trường cấp I và II nhưng nhìn chung số lượng con em đồng bào dân tộc thiểu số đến trường còn hạn chế. Mỗi xã đều có trạm y tê, nhưng rất thiếu cán bộ y tế, thuốc men cũng như các cơ sở dịch vụ cho y tế cộng đồng. 3.2 Điều kiện tự nhiên Chế độ nhiệt: nhiệt độ trung bình năm 22,20C; nhiệt độ không khí cao nhất tuyệt đối năm: 35,80C, thấp nhất: 8,20C, biên độ dao động nhiệt trong ngày là 11,00C; nhiệt độ mặt đất trung bình năm: 27,40C; tổng nhiệt độ trung bình năm 8400 - 85000C Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình năm 2413mm; lượng mưa ngày lớn nhất trong năm: 106mm; số ngày mưa trung bình năm 196 ngày; thời gian mưa cực đại từ tháng sáu đến tháng tám; chỉ số ẩm ướt trên 2,0. Mùa mưa thường đến sớm, thường vào cuối tháng 3, kéo dài đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau. Lượng mưa rơi vào mùa mưa chiếm đến 92% tổng lượng mưa cả năm. Lượng mưa lớn và tập trung đã bổ sung nguồn nước cho các hệ 8 thống sông suối, thuỷ lợi phục vụ canh tác lúa nước và tưới các cây công nghiệp như cà phê, tuy nhiên lượng mưa lớn cũng ảnh hưởng làm hạn chế lựa chọn cơ cấu cây trồng và gây nên xói mòn và rữa trôi đất. Độ ẩm và lượng bốc hơi: độ ẩm tương đối trung bình năm: 83%; độ ẩm tương đối thấp nhất tuyệt đối năm: 10%; độ ẩm tương đối thấp nhất trung bình năm: 56%; lượng bốc hơi (Piche) trung bình năm: 926,3mm; lượng bốc hơi trong các tháng mùa khô lớn hơn nhiều so với lượng mưa, do vậy màu khô rất thiếu nước, đất đai khô hạn, cùng với gió khô thổi mạnh gây nên khó khăn không đảm bảo cân bằng nước cho cây trồng trong các hệ canh tác. Gió: có 2 hướng gió hại chính là Đông bắc và Tây nam. Hướng gió phổ biến trong năm là Đông bắc. Tốc độ gió trung bình: 1,3m/s, tốc độ gió mạnh nhất trong năm: 18 - 20m/s. Thuỷ văn: Trong khu vực có rất nhiều suối có nước quanh năm, thuận lợi cho sản xuất cây trồng hàng hóa, cây công nghiệp. Hệ thống suối chính là suối Đak R'Lâpvà Đak Lung…đây là các suối đổ về thuỷ điện Thác Mơ tỉnh Bình Phước và hệ thống suối Đak R'Tih đổ về sông Đồng Nai có thuỷ điện Trị An thuộc tỉnh Đồng Nai. Do vậy việc quản lý các lưu vực rừng đầu nguồn ở đây là hết sức quan trọng. Địa hình đất đai: Địa hình trong khu vực có dạng đồi lượn sóng, đất đai canh tác phân bố chủ yếu trên sườn dốc, độ dốc phổ biến 10 -150. Độ cao so với mặt biển cao nhất là 868m, trung bình là 800m và vùng thấp nhất là 700m. Đất đai trong khu vực chủ yếu là đất feralit nâu đỏ phát triển trên đá mẹ bazan, có tầng đất dày. Đất thích hợp cho việc phát triển cây trồng công nghiệp như cà phê, cao su, cây ăn quả và một số loại cây nông nghiệp ngắn ngày. Tuy nhiên hiện tượng xói mòn, rửa trôi xảy ra mạnh ở các khu vực mất thảm thực vật rừng che phủ. Do đó việc quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia là hết sức cấp thiết, phòng hộ rừng đầu nguồn và phát triển canh tác hướng đến bảo tồn đất và nước là hết sức quan trọng ở đây. Phần lớn đất đai trong khu vực là đất feralit nâu đỏ phát triển trên đá mẹ bazan, đây là loại đất có khả năng giữ nước kém, lại chóng bị bạc màu và kết von thoái hóa. Rừng tự nhiên trong khu vực chủ yếu là rừng lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, chủ yếu là các loài cây thân gỗ xen lẫn một ít tre nứa. Diện tích và chất lượng rừng suy giảm mạnh trong thời gian qua. Tỷ lệ che phủ rừng giảm từ 85% (năm 1960) xuống còn 78% (1994) và hiện nay còn khoảng 70%. Trạng thái gồm nhiều loại từ đất không có rừng đến các trạng thái rừng non, nghèo và trung bình. Rừng giàu chỉ còn phân bố ở vùng sâu xa khu dân cư và trên các đỉnh dông, núi cao. 3.3 Tình hình quản lý rừng và đất đai lưu vực đầu nguồn Với diễn biến khai thác rừng, canh tác nương rẫy và chuyển đổi đất rừng để trồng cây công nghiệp trong thời gian qua đã gây ra những hậu quả xấu như hạn hán thiếu nước cho sinh hoạt đời sống và canh tác vào mùa khô, lũ lụt vào mùa mưa, đồng ruộng thiếu nước nên chỉ canh tác được một vụ trong năm, đất đai nhiều nơi bạc màu, kết von bề mặt không canh tác được, khả năng điều tiết nguồn nước cho các dòng sông lớn bên dưới kém nên ảnh hưởng đến công suất của các nhà máy thuỷ điện. Chủ quản lý sử dụng các diện tích rừng hiện nay chủ yếu là các lâm trường quốc doanh, sự tham gia của người dân, cộng đồng địa phương vào các chương trình quản lý phát triển rừng rất hạn chế. Quy ước sử dụng đất, rừng truyền thống chưa được tôn trọng và không rõ ràng, 9 cùng với các áp lực về dân số do di dân tự do, phát triển ồ ạt cây công nghiệp hàng hóa, trồng rừng nguyên liệu …dẫn đến nẩy sinh tranh chấp trong quá trình sử dụng đất, tất cả những đều này đã gây nên áp lực khá nặng nề lên tiến trình tiến đến quản lý tài nguyên thiên nhiên ổn định bền vững. Trong vùng có buôn Bunơr thuộc xã Đak R'Tih từ năm 2000 đã tiến hành giao rừng tự nhiên cho cộng đồng quản lý, cách làm này đã tạo nên bước ngoặc khá lớn về việc xác nhận quyền quản lý tài nguyên rừng của cộng đồng, thu hút được sự tham gia của người dân tộc thiểu số trong quản lý kinh doanh và bảo vệ rừng. Tuy nhiên
Tài liệu liên quan